Wednesday, February 9, 2011

TÌNH YÊU TRONG THƠ VIỆT NAM - Phần 3 & 4 (Nguyễn Hưng Quốc)


Nguyễn Hưng Quốc  
Thứ Ba, 08 tháng 2 2011

Lời tác giả: Khoảng năm 1989 hay 1990 gì đó, tôi có viết một loạt bài về đề tài tình yêu trong thơ Việt Nam, trong đó, tôi nhấn mạnh đến hai luận điểm chính: một, trong văn học, tình yêu là khám phá mới; hai, trong cuộc đời, tình yêu giúp chúng ta khám phá ra (a) bản thân mình; (b) người khác; và (c) thiên nhiên. Loạt bài này đăng trên tạp chí Quê Mẹ ở Paris đã lâu. Nay, tôi xin sửa lại chút ít, đăng thành bốn kỳ, như một món quà nhẹ nhàng trong những ngày Tết. - Nguyễn Hưng Quốc

------------------------

Nhờ tình yêu mà một đứa bé hồn nhiên, lúc nào cũng hiếu động, cũng ồn ào, đã trở thành một kẻ hướng nội, thích tách riêng ra khỏi đám đông, thích ngồi một mình để mơ mộng, để lắng nghe những cảm xúc đang xôn xao trong tâm hồn của mình. Nhờ tình yêu mà con người khám phá ra chính bản thân mình như một thực thể hết sức riêng tư. Tuy nhiên, tình yêu không phải chỉ có ý nghĩa như thế. Tình yêu còn giúp con người khám phá ra người khác nữa kìa. Nói đến đây, tự dưng nhớ đến mấy câu thơ của Đinh Hùng:
Khi mới nhớn, tuổi mười lăm mười bảy
Làm học trò, mắt sáng với môi tươi
Ta bước lên, chân vẫn dạo bên người
Ngoài cặp sách, trần ai xem cũng nhẹ.


Đọc câu "Ngoài cặp sách, trần ai xem cũng nhẹ", chúng ta không nên lầm với thái độ khinh bạc ngạo nghễ của Cao Bá Quát ngày nào. Thật ra, đứa học trò ở đây chả có ngông cuồng gì đâu. Nó chỉ vô tâm thôi. Đi học, nó chỉ biết sách vở. Ngoài ra, nó coi như...pha. Ngay cả người đi bên cạnh nó, cô bạn học cùng lớp, nó cũng hững hờ, không hề để ý.

Thì đứa bé nào mà lại chẳng như thế? Tuổi thơ thường vô tâm. Thế giới trẻ thơ là một thế giới khép kín, ở đó, nó là vua. Nó có niềm vui của nó và nó tự cảm thấy đầy đủ với chính nó. Nó coi nó là trung tâm mà mọi người chung quanh đều có nhiệm vụ chiều chuộng, săn sóc. Tuổi thơ không coi người khác là hiện hữu độc lập và đồng đẳng. Nó định nghĩa người khác tuỳ theo những gì người ấy mang lại: bố mẹ là những kẻ nuôi nó; bạn bè là những người cùng chơi với nó. Tất cả những người ở ngoài, xa lạ và xa xôi, đều là những nhân ảnh mờ mờ, vô nghĩa.

Không có ý niệm đầy đủ về người khác, trẻ em thường thờ ơ trước vẻ đẹp của người khác, điều mà Đỗ Huy Nhiệm, một nhà thơ trong phong trào Thơ Mới thời 1930-45, sau này tiếc nuối:
Tôi nhớ trưa hè trời nắng gắt
Bạn cùng tôi tắm dưới hồ sen
Thân ngà lồ lộ bên hoa lả
Cảnh đẹp mà tôi chửa biết nhìn.


Điều đó hoàn toàn thay đổi khi người ta biết yêu. Huy Cận viết:
Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn
Tuổi hai mươi đến có ai ngờ
Một hôm trận gió tình yêu lại
Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư.


Có thể nói dấu hiệu đầu tiên của tình yêu là "đứng ngẩn" và "trông vời". Trong cuốn Áo tiểu thư, nhà văn Duyên Anh cũng có viết về kỷ niệm những chiều đứng trước cổng trường chờ người yêu một cách rất thơ mộng:

"Những người đang đứng dưới những gốc cây trước và gần ngôi trường con gái đều là những người tuổi vừa lớn, vừa biết "đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư". Họ đứng đó. Khói thuốc vàng ngón tay. Hồn thả trong mộng, mộng lẩn vào thơ. Họ ngớ ngẩn, khù khờ, lố bịch, chẳng ra cái thể thống gì cả. Bởi vì, họ vừa lớn. Họ đem sự ngớ ngẩn, lố bịch vào tình yêu, tình yêu rất thơ và rất buồn cười. Tôi thương họ, tôi yêu thương tuổi trẻ biết mộng mơ. Thiếu mộng mơ, tuổi trẻ sẽ tàn nhẫn lắm. Gốc cây kia, tôi đã đứng. Chẳng có gì làm cho tôi phải xấu hổ. Niềm vui nhẹ nhàng và nỗi buồn man mác. Tình yêu học trò là tình yêu phù du, là những cơn mưa bóng mây, là một kỷ niệm buồn cười đáng ghi nhớ".

Mà đâu phải chỉ có những thanh niên mới lớn, mới bắt đầu biết yêu mới biết "đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư". Cả những người đã trưởng thành cũng còn niềm say mê ngắm nghía người khác phái như thế. Trong cuốn Lại thư gửi bạn, xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1979, nhà văn Võ Phiến nhắc bạn bè nhớ lại những ngày tháng êm đẹp trên quê hương cũ, nơi họ thường gặp gỡ để nhậu nhẹt và để dõi mắt nhìn theo những tà áo tiểu thư phấp phới:

“Bạn hãy nhớ lại những buổi chiều chúng ta ngồi ở Kim Sơn, ở quán Cái Chùa, ở những bàn nhậu bên lề đường Lê Lợi, vừa nhâm nhi vừa... rửa mắt. Chúng ta quấy nhiễu, nhảm nhiều chứ. Và những khi hoặc bát phố Lê Lợi hoặc có dịp lượn vào chợ, chen vô rạp hát, vào những nơi có lắm bóng hồng: bấy giờ ngay đến những đấng trượng phu tuổi tác, mấy ai tránh khỏi mắt la mày lém, thì thầm khúc khích với nhau?”

Những bậc trượng phu còn thế; những người mới bắt đầu yêu lại càng hơn thế nữa. Hãy nhớ lại bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp mà xem. Đó là một bài thơ hay, hơn nữa, đã từng được phổ nhạc nên chắc nhiều người biết. Bài thơ tả lại cảnh một cô gái 15 tuổi theo bố mẹ đi chùa Hương lễ Phật. Trên đường đi, cô gặp một thư sinh mà theo cô là có "tướng mạo" trông rất "phi thường", với lưng cao dài và trán rộng. Không những vậy, chàng lại biết làm thơ, viết chữ đẹp và ngâm thơ hay đến độ bố của cô gái nghe xong tắm tắc khen ngợi lia lịa, còn cô gái thì lặng người đi vì "ngẩn ngơ". Do đó không có gì đáng ngạc nhiên khi cô gái 15 tuổi mà khôn sớm ấy đã cảm thấy yêu mê yêu mệt chàng thư sinh hầu như ngay tức khắc. Cô còn thầm cầu nguyện:
Ngun ngút khói hương vàng
Say trong giấc mơ màng
Em cầu xin Trời Phật
Sao cho em lấy chàng.


Nhưng dấu hiệu đầu tiên mà chúng ta có thể dựa vào đó để bắt quả tang tình yêu của cô gái chính là ý thức của cô về sự hiện diện của chàng thư sinh. Từ khi gặp và cảm mến chàng thư sinh, trên đường đi lên chùa Hương lễ Phật, hầu như không lúc nào hình ảnh của chàng thư sinh không xuất hiện trong tâm hồn cô gái. Lúc nào cô cũng nghĩ về chàng. Ngay cả khi cô gái đang đi phía trước, cô chừng như có thể thấy cả cái nhìn, cái nghĩ và cái cảm của chàng thư sinh ở phía sau lưng của cô:
Em đi, chàng theo sau
Em không dám đi mau
Ngại chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu.


Chàng thư sinh trở thành một ám ảnh đối với cô gái, khiến nàng mê man, say đắm:
Làn gió thổi hây hây
Em nghe tà áo bay
Em tìm hơi chàng thở
Chàng ơi, chàng có hay?


Cô gái trong thơ Nguyễn Nhược Pháp “tìm hơi chàng thở", còn chàng trai trong thơ Xuân Diệu thì tìm kiếm một nụ cười của người đẹp để thoả lòng khao khát:

Bữa trước, riêng hai dưới nắng đào
Nhìn tôi, cô muốn hỏi vì sao?
Khi tôi đến kiếm trên môi đẹp
Một thoáng cười yêu thoả khát khao.

Yêu, như thế, có nghĩa là một sự phát hiện ra người khác, là không ngớt bị ám ảnh bởi người khác. Trong ý nghĩa ấy, Nguyễn Bính viết bài Hoa cỏ may, chỉ có hai câu, rất ngắn và cũng rất dễ thương:
Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em.


Nguyễn Bính làm hoa cỏ may để bám vào áo người đẹp dù sao cũng còn đỡ hơn là Xuân Diệu đem tất cả tâm tình của mình trút vào từng bước chân của những cô gái xa lạ mới thoáng gặp ngoài đường:
Tôi trải yêu đương dưới gót giày
Ôm chừng bóng lạ giữa mê say
Lòng buồn lững thững vương sau áo
Bước đẹp mà sao khéo toả dây.


Nếu trong bài trước, chúng ta đã đi đến nhận định cho là tình yêu đã giúp con người khám phá ra chính mình như một cá nhân với một thân xác và một tâm hồn riêng tư, thì ở đây, chúng ta cũng có thể nói thêm, cái cá nhân mà tình yêu giúp ta khám phá ra được ấy tuy hết sức riêng tư nhưng lại không phải là một cái gì tự tại, tự nó đầy đủ cho chính nó. Cá nhân ấy chỉ mới là một nửa. Trong tình yêu, cái một nửa ấy phải đi tìm một nửa khác thì mới trọn vẹn. Chính vì thế, khi người yêu ra đi, Hàn Mặc Tử đau đớn nhận thấy:
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn kia bỗng dại khờ.


Trước Hàn Mặc Tử khá lâu, lúc xa Thúc Sinh, Thuý Kiều cũng thấy mọi thứ đều chỉ còn một nửa, ngay cả vầng trăng trên cao:
Vầng trăng ai sẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.

Mượn ý tưởng của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, sau này có lúc Chế Lan Viên viết, tương tự:

Cái rét đầu mùa, cái rét xa em
Đêm dài lạnh, chăn chia làm hai nửa
Một nửa cho em, ở vùng cuối bể
Một nửa cho mình, ở phía không em.


Có thể nói yêu không phải chỉ là phát hiện ra người khác, mà còn là phát hiện ra tầm quan trọng không thể thay thế được của người khác trong cuộc đời mình. Nhiều nhà thơ vẫn thường nói là chỉ cần vắng bóng một người cả thế giới này sẽ trở thành hoang vắng ngay tức khắc. Khi xa người tình, nhà thơ Hoàng Cầm thấy cả cuộc đời biến thành một giọt nước mắt. Ông viết trong một bài thơ tuyệt đẹp:
Cả Thái Bình Dương là giọt lệ
Một người đi biệt một hành tinh
Cả dãy Trường Sơn là dấu phảy
Ngắt dòng thơ quằn quại u minh.


Lần khác, trong bài "Thua một không", Hoàng Cầm ví tình yêu như một trận bóng đá. Trong đó, khi hai người yêu xa nhau, vì bất cứ một lý do nào đó, cũng đều giống với cảnh thua trận, thua một-không:
Còi ly tan xé cuộc này
Phố xa một bóng ôm đầy số không
Trằng rằm vẫn sáng bên sông
Bốn phương mây vẫn một vòng đơn côi
Phòng anh vẫn thiếu một người
Một đều gắng mãi vẫn ngồi một thân
Một vầng trăng xế tần ngần
Một người sao lạc một lần ấy thôi
Lắm loài súng sính sinh đôi
Nòi tình thui thủi một đời một-không.


Một lần khác nữa, Hoàng Cầm ví tình yêu như một án tù chung thân giữa người này và người khác. Có điều đó là một án tù tự nguyện, cả hai người bị kết án đều sung sướng được gắn bó với nhau mãi mãi, trọn đời:
Em khoá chặt hồn anh bằng nước mắt
Anh khoá vòng không số, ngực em trần
Ô! Sao hai đứa cùng mơ ước
Làm lứa tù ngồi chịu án chung thân.


Nói một cách tóm tắt, tình yêu không những giúp loài người khám phá ra chính bản thân họ mà còn giúp họ nhận ra họ chỉ là một nửa. Họ cần một nửa khác để thành người trọn vẹn. Tình yêu biến thành cuộc đuổi mắt mải miết giữa nửa này với nửa kia. Hạnh phúc sẽ tràn trề khi hai nửa hoàn quyện vào nhau thành một. Ngược lại, sẽ là một bất hạnh tột cùng khi nửa kia biến mất hay xa khuất vời vợi để một nửa này cứ mãi mãi cô đơn.
.
.
.
Nguyễn Hưng Quốc  
Thứ Tư, 09 tháng 2 2011

Lời tác giả: Khoảng năm 1989 hay 1990 gì đó, tôi có viết một loạt bài về đề tài tình yêu trong thơ Việt Nam, trong đó, tôi nhấn mạnh đến hai luận điểm chính: một, trong văn học, tình yêu là khám phá mới; hai, trong cuộc đời, tình yêu giúp chúng ta khám phá ra (a) bản thân mình; (b) người khác; và (c) thiên nhiên. Loạt bài này đăng trên tạp chí Quê Mẹ ở Paris đã lâu. Nay, tôi xin sửa lại chút ít, đăng thành bốn kỳ, như một món quà nhẹ nhàng trong những ngày Tết. - Nguyễn Hưng Quốc

------------------------------------------

Tình yêu không những giúp chúng ta khám phá ra chính mình hay khám phá ra người khác. Tình yêu còn giúp chúng ta khám phá ra thiên nhiên.

Trong truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự vào thế kỷ 18 có một chi tiết khá thú vị. Truyện kể về mối tình giữa Dương Giao Tiên và Lương Phương Châu. Dương Giao Tiên là một người con gái tài sắc và đoan trang. Sự đoan trang của Giao Tiên có phần hơi cứng nhắc. Lần đầu tiên nghe lời tỏ tình của Lương Phương Châu, nàng đã từ chối thẳng thừng:
Tự ta đóng nguyệt cài mây
Buồng thơm chớ lọt mảy may gió tà
Buông rèm ngăn cách bóng hoa
Tường đông bướm lại ong qua mặc lòng...

Thế nhưng, dần dần, ngày qua ngày, trước sự kiên nhẫn của Lương Phương Châu, Giao Tiên bắt đầu xúc động. Nàng ngã lòng. Nàng chợt phát hiện trong lòng mình bắt đầu có những xôn xao rất lạ. Cách nhìn của nàng cũng khác, trước hết là cách nhìn đối với thiên nhiên:
Thu đâu chừng nửa tháng nay
Là trăng là nước là mây thực là...

Nhờ những rạo rực trong lòng, Giao Tiên mới nhận ra mùa thu đã về. Nhận ra một cách muộn màng, sau gần nửa tháng mùa thu bị quên lãng trong ơ hờ. Bởi vậy, chúng ta có thể nói chính nhờ tình yêu mà Dương Giao Tiên đã nhận ra vẻ đẹp đầy xao xuyến của thiên nhiên.

Mà không riêng gì Giao Tiên. Cả Thuý Kiều cũng vậy. Trước khi gặp Kim Trọng, cái nhìn của Kiều tuy không đến nỗi hờ hững song cũng chẳng có gì tha thiết cho lắm:
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Tiết Thanh minh, Thuý Kiều cùng hai em đi tảo mộ. Chiều xuống, mấy chị em ra về, cặp mắt Kiều đã thoáng chút bâng khuâng:
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Chỉ một chút bâng khuâng thôi. Phải đợi đến lúc gặp gỡ Kim Trọng, sau khi Kiều đã "e lệ nép vào dưới hoa", sau khi "tình trong như đã mặt ngoài còn e", Kiều mới thực sự bâng khuâng hẳn:
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.

Thành ra, có thể nói, nhờ tình yêu, Kiều mới khám phá ra được cái sắc "trong veo" của nước, cái hình ảnh tơ liễu thướt tha dưới bóng chiều. Cái trong veo kia, cái thướt tha ấy, nghĩ cho cùng, chỉ là hoá thân của một trái tim đang bén lửa ái tình.

Nhà thơ J. Leiba Lê Văn Bái, trong bài "Mai rụng", trước năm 1945, từng viết:
Năm xưa em ở chốn phòng khuê
Yêu, nhớ, ngây thơ đã biết gì
Mai nở, mai tàn, mai lại rụng
Tường đông xuân sắc mặc đi về.

Đến lúc người con gái kia biết yêu, thiên nhiên đổi khác hẳn:
Tường đông, xuân ấy gặp tình lang
...
Em thấy xuân nay hoa nở đẹp.

Trong bài "Năm qua", J. Leiba viết rõ hơn sự thay đổi trong mắt nhìn của một người thiếu nữ:
Em nhớ năm em lên mười lăm
Cũng ngày đông cuối sắp sang xuân
Mừng xuân em thấy tim hồi hộp
Nhìn cái xuân sang khác mọi lần.

Điều làm cho mùa xuân "khác mọi lần" không hẳn ở bản thân mùa xuân. Thì mùa xuân nào lại chả giống mùa xuân nào. Cũng thời tiết ấy, mùa hoa ấy, phong tục ấy. Tự nghìn đời. Yếu tố tạo nên cái mới cho mùa xuân, do đó, chính là những ngây ngất trong tâm hồn, chính là Tình yêu.

Tình yêu giúp con người khám phá ra thiên nhiên. Chúng ta đâu thể chối được là, vẫn có đấy chứ, chung quanh chúng ta, từ bao giờ, nụ hoa kia, vầng trăng nọ, buổi chiều này. Thế nhưng, nghĩ coi, có lạ không, ngày xưa, khi ta còn bé, hoa chỉ là hoa, trăng chỉ là trăng, và buổi chiều chỉ là buổi chiều. Những hiện tượng thiên nhiên có đấy mà như vắng mặt, như cách xa. Chúng chưa có những linh hồn. Chúng vô tri và vô cảm. Chỉ từ lúc chúng ta biết yêu, thiên nhiên mới thực sự thân gần. Hoa hoá thành người, hay nói như thơ Quách Thoại: "Em nở nụ nhiệm mầu". Trăng bỗng dưng chứa đựng bao nhiêu nỗi niềm day dứt, hay nói như Xuân Diệu, là : "Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần". Buổi chiều thành một tâm cảnh, hay nói như Thanh Tâm Tuyền, là "Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường".
Chúng ta có thể nói: chỉ có tình yêu mới giúp con người nhận ra cảnh:
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu.
Chỉ có tình yêu mới giúp con người ngó thấy:
Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô.

Đâu phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu viết:
Trời xanh thế! hàng cây thơ biết mấy
Vườn non sao! đường cỏ mộng bao nhiêu
Khi Phạm Thái gặp Quỳnh Như thuở ấy
Khi chàng Kim vừa được thấy nàng Kiều...

Đúng quá. Và hay quá. Phải không? Dưới mắt người yêu, trời nào không xanh, cây nào không thơ, vườn nào không đầy lá nõn và đường cỏ nào không ăm ắp mộng mị? Thấy chưa, khung cảnh Trần Dạ Từ, lần đầu tiên trong đời, cúi xuống hôn lên đôi môi một người con gái:
Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh cỏ biếc trưa vàng
Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ bông.

Ngỡ như vì nụ hôn kia, ve mới cất tiếng kêu, vườn mới xanh, cỏ mới biếc và phượng vĩ mới thảng thốt đâm bông rực rỡ. Ngỡ như thế. Cho dù sự thực có khi không phải thế. Sự thực có khi hoa đã nở sẵn từ lâu; ve đã râm ran sẵn, từ trước. Nhưng trong ơ hờ, người ta không nghe, không thấy. Chỉ khi đang yêu và đang hạnh phúc, người ta mới ngẩn ngơ phát hiện ra những cảnh sắc đẹp đẽ lạ thường chung quanh mình; mới nghe ra tiếng ve kêu và mới nhìn thấy những chùm phượng vĩ huy hoàng trên cao.
­­
Con đường mà Huy Cận gọi là "đường thơm" này không thể không là con đường của tình yêu:Đường trong làng; hoa dại với mùi rơm
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng
Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu...

Xuân Diệu một lần mô tả ánh mắt của người thi sĩ dạt dào tình yêu:
Chỉ là gió, nhưng lòng tôi thả bướm
Thêm phất phơ cho hơi thở vừa hiền
Chỉ là trăng, nhưng tôi thấy thần tiên
Như tuyệt diệu: bởi hồn tôi xanh quá.


Thật ra, nghĩ cho cùng, vấn đề không ở đôi mắt mà là ở trái tim. Nhờ tình yêu, con người khám phá ra thiên nhiên. Nhờ tình yêu, con người nhập thân vào thiên nhiên. Một trong những tác dụng lớn nhất của tình yêu là ở điểm này: nó giúp con người "nhân hoá" thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành "người", chia sẻ với con người những yêu thương hờn giận:
Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh, anh mến lá sân trường.
Thơ Nguyên Sa đó. Phải nói là đẹp vô cùng. Hoa cúc và lá sân trường bỗng dưng mang trong nó hình ảnh của một người con gái.

Bài thơ sau đây của Chế Lan Viên cũng rất dễ thương:
Chỉ một ngày nữa thôi. Em sẽ
trở về. Nắng sáng cũng mong. Cây
cũng nhớ. Ngõ cũng chờ. Và bướm
cũng thêm màu  trên cánh đang bay
.
Tác giả khéo lắm. Ông giấu mình đi. Ông chỉ nói nắng, cây, ngõ, và bướm nôn nao. Thật ra là chính lòng ông đang nôn nao muốn biến thành chiều nghiêng của nắng, tiếng reo của cây, vòng tay của ngõ và cánh bay của bướm.

Chế Lan Viên một lúc khác viết rõ hơn:
Lòng anh từ lúc em qua
Hoa bay, bướm dạo cùng ta vào đời.
Hãy để ý đến cách cấu tạo từ ngữ ở câu thơ trên: hoa thì bay mà bướm thì lượn. Hay. Tình yêu mà.

Tế Hanh còn lạc quan hơn:
Ngàn năm sau, chỗ đôi ta
Yêu nhau có lẽ lá hoa mọc đầy.

Tôi không cho là Hoàng Trúc Ly nói ngoa khi quả quyết:
Tôi còn yêu cho biển còn xanh
Mây còn bay cho chim chắp cánh.

Người ta thường tưởng vì thiên nhiên đẹp nên con người say đắm. Có lẽ không phải. Sự thực có khi ngược lại: chính nhờ con người say đắm nhau cho nên thiên nhiên mới đẹp.

--------------------------------------
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
.
.
.
Tin liên h
.
.
.

No comments: