Saturday, September 4, 2010

BẮC HÀNH (1 & 2) - Ký của Ngự Thuyết

Bắc Hành

Ngự Thuyết

Tuesday, August 24, 2010

http://www.diendantheky.net/2010/08/bac-hanh.html


Dân ta, trong đó có người vùng Bình Trị Thiên, thường vào Nam lập nghiệp thay vì đi ngược ra Bắc. Ngay trong phạm vi Bình Trị Thiên mà thôi, xu hướng ấy cũng nổi bật. Nhiều người từ Quảng Bình, Quảng Trị, không ít người tài trí, vô Huế định cư từ đời này đến đời khác, lâu ngày biến thành người Huế. Rồi sau đó nhiều lưu dân sống tại Huế cùng với một số dân bản địa lại xuôi nam, vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Sài Gòn. Trong một lần chuyện trò, nhà văn Võ Phiến cho nghe câu ca dao miền quê ông, có lẽ cũng mang ý nghĩa tương tự:
Anh về Bình Định thăm cha
Phú Yên thăm mẹ Khánh Hòa thăm em.

Chữ “em” ở đây nên được hiểu là người yêu, chứ không phải em gái, mà anh sẽ vô Khánh Hòa cưới làm vợ, chẳng khác gì xưa kia bố ở Bình Định vô Phú Yên lấy mẹ. Toàn là xuôi nam. Xuôi nam lập nghiệp, sinh sống, hòa hợp nhau, nâng đỡ nhau, điều đó vẫn xẩy ra từ trước đến nay.
Nhưng bây giờ khác. Thực trạng xã hội ngày nay phức tạp, rối rắm hơn nhiều. Và đầy nghịch lý.

Tôi thử phác họa trong đầu một câu chuyện mà mọi người đều không muốn nó có. Thử tưởng tượng vào khoảng năm 2100 chẳng hạn, người thời ấy sẽ kể lể cho nhau nghe chuyện của thời đại chúng ta như chuyện “đời xưa”. Rằng xưa kia có những đàn chim từ Bắc bay vô Nam, hết lớp này đến lớp khác, những buổi sáng tinh sương, những buổi chiều tranh tối tranh sáng, những đêm đen, lúc bay trong mù, lúc in hình trên bầu trời xanh, cũng có khi ngả nghiêng trong gió táp mưa sa, nhưng cuối cùng đều đến được đất lành. Đất lành chim đậu, những đàn chim ấy sống vui vẻ, thân yêu với những đàn chim cùng loại đã ở đấy từ lâu, không mổ nhau, không cướp cái ăn của nhau, tuân theo nếp sống hiền hòa, êm đềm. Thế rồi, tai trời ách nước giáng xuống, một số ác điểu ra đời, ít thôi, nhưng rất hung bạo, quỷ quyệt. Chúng dụ được những con chim khác và mượn thêm sức những con chim “lạ” bay vào Nam thẳng tay tàn sát đồng loại và đảo lộn nếp sống đã có từ lâu đời.

Cứ tưởng rằng từ đó về sau sẽ vĩnh viễn làm chúa tể sống trên xương trên máu kẻ khác, không ngờ gậy ông đập lưng ông, lại đến phiên chúng bị những con chim “lạ” kia “phản phé”. Cờ bạc bịp mà! Loài chim “lạ” kia còn hung hiểm hơn, tìm ra vô số lý do để “ăn thua đủ”. Chẳng hạn chúng phán: trước nợ ta, nay phải trả cả vốn lẫn lời. Lòng tham không đáy, lại phán tiếp: hết nợ còn ơn, còn nghĩa, còn tình. Mà tình sâu nghĩa nặng thì biết đời nào trả cho xong! Chi bằng, để có kết quả vừa nhanh chóng vừa cụ thể, loài chim “lạ” đó đem luật rừng ra xử bọn thiếu nợ “vô ơn bạc nghĩa” ấy. Cướp bóc, đánh giết, chiếm đoạt, “giành sân lấn đất”, nay cấm bọn kia bay tới vùng này, mai làm thịt năm bảy con ở vùng khác. Rồi lại mang luật rừng áp dụng ngoài biển khơi, hóa phép thành loài cá “lạ”, ăn tươi nuốt sống những con cá khác. Những loài thú khác đứng từ xa thoạt đầu bỡ ngỡ rồi dần dần quen mắt thản nhiên nhìn cảnh tượng “mạnh hiếp yếu”, “cá lớn nuốt cá bé”, quen tai nghe tiếng kêu thảm thiết của những con chim sắp chết mà loài chim “lạ” thường kháo với nhau “chim sắp chết tiếng kêu bi ai” (Điểu tương tử kỳ minh dã ai). Còn cá sắp chết có biết kêu không? Hình như loài vật sống dưới nước không có khiếu nói năng, vì mới hả họng định kêu la thì nước đã tràn vào “bịt miệng”, lại nhớ cha Nguyễn Văn Lý, đành chết trong câm nín.

Những tên gọi như Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông, Tây Nguyên đã biến mất khỏi ngôn ngữ Việt Nam từ lâu, mà ngay cả tên nước Việt Nam cũng bị xóa nhòa trên bản đồ thế giới. Những người nô lệ tủi nhục, sợ sệt, tức là những người kể chuyện đời xưa cho nhau nghe, nói một thứ tiếng An Nam trọ trẹ tiếng Tàu, thỉnh thoảng cũng kể thêm chuyện Tấm Cám, chuyện Quỷ Nhập Tràng, để gọi là có nhớ nguồn gốc, nhưng không dám nhắc nhở gì đến chuyện Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Đức Thánh Trần, hay Quang Trung từng đánh đuổi những con “chim lạ” từ phương Bắc bay tới. Đôi lúc chỉ dám rủa thầm trong bụng khi nhớ đến chuyện đời xưa gần hơn, chẳng hạn chuyện các ông chủ tịch nước cụng ly tung hô các khẩu hiệu như “Môi Hở Răng Lạnh”, “Mười Sáu Chữ Vàng”, nhưng rượu chưa ráo ly thì “mặt đã trở”, đã ra tay cho các đồng chí vĩ đại bé nhỏ mấy bài học nhớ đời. Đúng ra là “đã trở mặt”, nhưng tiếng Việt bị lãng quên dần.

Thật là:
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa


Vâng, thời đó truyện Kiều cũng còn được biết đến đôi chút nên có người chua chát lẩy một vài câu như trên cho đỡ bức xúc. Cũng có người đau xót nhớ đến nước cũ, nhớ những thời đại vinh quang ngày xưa nay còn đâu, đành mượn vài câu than thở:
Thân sao thân đến thế này
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi

Chuyện “xưa” quả là một cơn mộng dữ, nhưng tỉnh mộng vẫn thấy thực tại đang tiến dần đến gần những gì đã hiện lên trong cơn ác mộng!

Ai đó đã nói một cách rất đúng đắn rằng lý do của hầu hết những cuộc chém giết, tàn sát, những cuộc chiến nói chung, đều xuất phát từ cái dạ dày, từ vấn đề di dân, tức là từ cung cách loài người noi theo bản chất của loài dã thú, loài chim dữ, loài cá mập, loài lang sói. Nhưng nói cho công bình, tuy cùng một bản chất vẫn có vài khác biệt. Một câu rất nổi tiếng của George Orwell, nhà văn người Anh trong Trại Súc Vật (Animal Farm) viết từ năm 1945: “Tất cả loài thú đều sinh ra bình đẳng, nhưng có một số bình đẳng hơn những con khác” (All animals are created equal, but some are more equal than others). Xin nhại theo câu nói ấy: Loài chim, loài cá, sinh ra đều rất thật thà, có gì nói nấy, nhưng ác điểu và chim “lạ”, cá “lạ” thật thà hơn, nào “bao la tình chim”, “mênh mông tình cá”, nào “giải phóng”, nào “môi hở răng lạnh”, nào “hợp tác toàn diện”, nào “bốn tốt”, “mười sáu chữ vàng”. Nghe thật sướng, êm ái như mật rót vào tai, líu lo như bà già sún răng ăn bún.

- Anh! Nghĩ gì mà ngẩn người ra vậy?” cô em họ chăm chú nhìn tôi, hỏi.

Tôi hơi ngượng. Quả thật độ rày lắm lúc tôi lẩn thẩn. Ba người chúng tôi đang bàn bạc với nhau, bỗng dưng đầu óc của tôi đi lạc, tôi lảm nhảm một mình. Tôi định bụng sẽ đi ra hướng Quảng Trị, cô em họ lại thích thuê một chiếc xe hơi nhỏ đi về hướng Nam, và nếu có thì giờ sẽ qua Hải Vân, vô Đà Nẵng. Cô không thích ra hướng Bắc dù chưa hề đi lần nào. Riêng tôi đã đi ra ngoài đó mấy lần, bằng xe lửa hoặc xe hơi. Cũng có thấy loáng thoáng phong cảnh hai bên đường, nhưng cưỡi ngựa ngắm hoa coi bộ còn trông rõ hơn. Cho nên lần này tôi đã có ý định sẽ cùng chú em chở nhau bằng xe gắn máy hai bánh để trước hết có thể chạy chậm lại khi cần, hoặc muốn ghé đâu thì ghé. Đành quay qua cô em họ nói gần như van lơn:
- Anh và chú T. có chút việc ra ngoài đó. Vài hôm nữa mình sẽ thuê xe đi vô thăm chùa Trúc Lâm Bạch Mã ở Cầu Hai nghe. Nghe nói chùa mới xây xong, đẹp lắm. Sau đó xuống Cảnh Dương rồi cảng Chân Mây chơi. Cô chịu không?”
Cô em vui vẻ nghịch ngợm lắc đầu:

- Không chịu.
- Cám ơn cô.
- Anh khách sáo quá. Việt kiều có khác, hở một chút là cám ơn, xin lỗi, xin phép.

*

T., chú em họ, gốc Quảng Trị, bố mất trong chiến tranh, theo mẹ vào Huế từ hồi còn thơ ấu, hỏi tôi:
- Anh muốn muốn ghé những nơi nào? Ghé ít, sáng đi chiều về. Ghé nhiều nơi thì phải ở lại đêm. Cứ ở lại đêm ngoài làng cũ của em, nếu anh không chê.

Thật ra bà con ruột thịt của T. ở ngoài đó cũng không còn ai, nhưng cũng như những người Quảng Trị khác, T. rất quyến luyến miền đất ấy, nơi bị tàn phá nặng nề nhất trong chiến tranh vừa qua. Những đứa con của quê hương càng thống khổ càng nặng tình. T. thường xuyên ra đó thăm khi thì bằng xe đò, khi bằng xe gắn máy, bây giờ gọi là xe máy, tự lái lấy, thăm ngôi nhà từ đường bị bom đạn san bằng mấy lần nay đã được một người chú họ cho xây dựng lại trên mảnh đất cũ thuộc làng An Cư. Làng An Cư, cái tên hay. Mong rằng từ nay về sau mọi người ở đó sẽ được an cư lạc nghiệp như tên gọi ngôi làng mình. Tôi chưa biết An Cư, nhưng tôi đã đi qua nhiều làng mạc, nhiều thị trấn nằm dọc theo quốc lộ 1 thuộc tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình. Qua đó mới thấy quê ta nghèo nàn, xơ xác, nhưng lại rất giàu mồ mả, nghĩa trang. Đặc biệt là có nhiều nghĩa trang mang tên “Tổ Quốc Ghi Công”, tức là nơi yên nghỉ ngàn thu của chiến sĩ đã hy sinh của phe thắng trận. Trông khá khang trang, “hoành tráng”. Còn hương hồn tử sĩ Miền Nam bại trận nay được thờ ở đâu, không thấy? Hay là tại những nghĩa trang mang tên hơi khác, “Tổ Quốc Ghi Ơn”, mà nay đều đã bị đào bới, san bằng? Nếu thế thì hương hồn của họ, tôi nghĩ đến mấy câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm, chắc là ở trong gió đang “ù ù thổi”, dưới trăng đang “dõi dõi soi”. Và ở trong lòng người.

Tôi bỗng liên tưởng đến bọn thực dân Pháp đô hộ nước ta gần một trăm năm. Dưới ách đô hộ, người sống chịu cực khổ mọi bề, nhưng người chết khá hơn. Thế là phải, ai lại đi trả thù người chết! Vào năm 1920, vua Khải Định và toàn quyền Đông Dương khánh thành Đài Chiến Sĩ Trận Vong tưởng niệm tử sĩ của cả hai bên, được xây dựng trên bờ sông Hương ngay trước trường Trung Học Khải Định. Chúng tôi gọi đó là cái Bia. Thời trung học, chúng tôi thường ghé Bia chơi khi nào đi đến trường quá sớm. Những giờ trống cũng thường ra đó đùa giỡn hoặc bắt chuyện với mấy anh lính gác da đen rạch mặt xê-nê-ga-le (sénégalais). Hồi đó trường còn làm chỗ đóng quân của Pháp (mãi đến cuối 1954 mới được trao trả lại cho ta). Mấy lính gác trông mặt mày hung dữ nhưng cũng có người vui vẻ, hiền lành, chúng tôi bắt chuyện để tập nói tập nghe và học lóm năm ba tiếng Pháp thô tục ngoài đời. Ở trường chỉ học loại tiếng Pháp thanh nhã, học văn phạm, dịch, làm luận. Chủ yếu là dịch, Pháp ra Việt, Việt ra Pháp.

Sau này mỗi khi về thăm Huế, thăm trường cũ, tôi cũng thường “quá bộ” ra bờ sông thăm Bia, một trong những di tích có tiếng trong quần thể kiến trúc Huế cổ kính, tinh vi, đẹp đẽ. Nhưng vào mỗi thời kỳ trong đời người, hay ít nhất trong đời tôi, cái Bia ấy hiện lên khác nhau. Có lúc trông nó như một kỷ niệm êm đềm của tuổi học trò, có lúc quên nó, khi sực nhớ nhìn lại không ngờ thấy nó vẫn còn đấy, “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Nhưng tuổi đời càng tăng, nay, sau bao nhiêu dâu biển, trông nó lạnh lẽo, cô đơn. Một buổi chiều từ ga Huế cuốc bộ đến Bệnh Viện Trung Ương thăm người thân, đi ngang qua cổng trường xưa, đứng lại nhìn vào trong một chốc, rồi không thể không quay ra đi thăm cái Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Trận Vong này. Nó nằm trơ dưới bầu trời mây bay từng giải cuồn cuộn, mà người xưa, hồn người xưa, đã đi đâu hết, một đi không về. Nhìn xa hơn một chút, cây cỏ lớp lớp trên bờ kia của sông Hương lặng lẽ, tạnh vắng; quay đầu nhìn về phải, Cồn Hến trải dài bờ bãi mịt mùng; quay đầu về trái, như lờ mờ thấy con đường ngày xưa có tên Huyền Trân Công Chúa. Buổi chiều đứng đó nhìn quanh không thấy làng cũ, chỉ thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn khó tả. Bỗng nhớ Thôi Hiệu và Hoàng Hạc Lâu. Bài thơ ấy đọc lên lúc nào cũng thấy hay, và vào những lúc như thế này, nó càng gây nên những cảm xúc lan man, bồi hồi. Chữ Hán không có là bao nhưng cũng muốn dựa vào những bài Hoàng Hạc Lâu đã được dịch ra tiếng Việt mà viết lại theo ý mình, bỏ bớt niêm luật khắc khe:
Người xưa cưỡi hạc vàng đi mất

Hoàng Hạc Lâu còn tại chốn này
Hạc vàng một đi không trở lại
Mây trắng ngàn năm bay vẫn bay
Sông tạnh Hán Dương cây lớp lớp
Bãi thơm Anh Vũ cỏ hây hây
Chiều xuống quê nhà đâu chẳng biết
Sóng giục sầu lên chất ngất đầy

- Hả, anh muốn ghé những nơi nào? Ghé đâu trước? T. lặp lại câu hỏi.
- Xin lỗi, anh độ này đãng trí lắm, hồi nãy quên trả lời em. Xem nào... hay là ăn sáng xong rồi tính.
- Còn sớm quá, kiếm không ra quán đâu, T. đáp. Em đề nghị ra tới An Lỗ ăn sáng là vừa.

Chúng tôi đi từ làng Phú Thượng lên phía Vỹ Dạ, qua Đập Đá, chạy ngang cầu Trường Tiền, quẹo trái về phía cầu Bạch Hổ, quẹo phải về hướng An Hòa, Văn Xá, rồi đi thẳng ra hướng bắc. Đến cầu An Lỗ, dừng lại ăn sáng tại một quán nhỏ bên đường, lỏng chỏng vài ba bộ bàn ghế cũ kỹ. Chưa có khách nào. Cháo bột cá lóc, bánh ướt thịt ba chỉ, và chén nước mắm ớt tỏi chanh thật cay. Ăn lạ miệng, ngon, và rẻ. Ở Huế món ăn gì cũng rẻ hơn nhiều so với Sài Gòn. Chúng tôi vừa ăn vừa bàn với nhau rằng chuyến ra theo một đường, chuyến vào theo đường khác, làm như thế, thăm được nhiều nơi. T. biết rất nhiều về Quảng Trị, thật là may mắn cho tôi. Buổi sáng còn se se lạnh, trên quốc lộ 1 còn vắng, tuy nhiên tại cây xăng gần cầu An Lỗ đã có mấy người ghé đổ xăng, có cả các bà đã lớn tuổi, các chị “buôn thúng bán mẹt”. Phụ nữ Huế độ rày rất xông xáo, tôi vừa nhận ra thế. Chúng tôi ăn sắp xong thì chủ quán đã mang đến ngay một ấm nước và hai cái ly: “Mời hai bác uống nước chè xanh ấm bụng. Có bỏ gừng.”

Khỏi Phò Trạch đến Mỹ Chánh, thay vì chạy thẳng ra Quảng Trị, chúng tôi rẽ phải đi men theo sông Ô Lâu, một trong ba con sông đổ về Phá Tam Giang (Hai con sông kia là sông Hương, sông Bồ), qua các làng Vân Trình, Thanh Hương. Thế là chúng tôi đang đi trên một trong những vùng mà trước kia người Pháp gọi là La ville sans joie (Phố Buồn Hiu). Sau đó nhà văn Bernard B. Fall dùng tên gọi ấy viết thành một cuốn sách nổi tiếng về chiến tranh Việt Nam nhan đề Street Without Joy. Phố Buồn Hiu là dải đất nằm giữa Quốc Lộ 1 và Biển Đông bắt đầu từ những ngôi làng thuộc nam Quảng Trị qua những sông, ngòi, lạch, đầm lầy, độn cát, và phá, kéo dài đến gần Sịa, Huế.

Bernard Fall viết trong lời tựa cuốn Street Without Joy: “This is not a history of the two ‘Indochinese Wars’ – that fought by the French from 1946 to 1954 with their Vietnamese allies, and that fought by the South Vienamese and their American allies since 1957- but a historical sketch of certain key developments in both wars, and of the men who fought on both sides” (Tạm dịch: Đây không phải là lịch sử của hai cuộc ‘Chiến Tranh Đông Dương’ - do Pháp và đồng minh Việt Nam chiến đấu từ 1946 đến 1954, và do Miền Nam Việt Nam và đồng minh Hoa Kỳ chiến đấu từ 1957 – mà là một phác họa lịch sử về một số biến chuyển then chốt của hai cuộc chiến ấy cùng với những chiến sĩ của cả hai bên). Vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, một trận đánh vô cùng ác liệt đã xẩy ra tại vùng này bắt đầu từ tháng 7 năm 1953, Pháp gọi là cuộc hành quân Camargue (Operation Camargue) do thiếu tướng Leblanc chỉ huy, dân Huế và Quảng Trị gọi là trận chiến Thanh Hương. Quân Pháp, lê dương, và đồng minh Việt Nam, nói theo Bernard Fall, đã tung một mẻ lưới lớn gồm bộ binh, pháo binh, thiết giáp, nhảy dù, có cả tàu chiến yểm trợ ngoài khơi, oanh tạc cơ trên không, quyết làm cỏ trung đoàn 95 chính quy của cộng sản và du kích quân. Kết quả không mấy khả quan, theo Bernard Fall.

Chúng tôi đi chầm chậm ven sông Ô Lâu cách cầu Mỹ Chánh vài cây số. Rồi đi sâu vào các thôn xóm. Dấu binh lửa có còn sót lại trên miền đất có một thời bị bom đạn dày xéo tan hoang này hay không? Hình như không còn dấu vết gì. Con sông trong vắt, nhiều nơi trông thấy đáy, nước chảy nhè nhẹ, sóng lăn tăn, thuyền đò lác đác. Hai bên sông, làng mạc êm ả, những ngôi nhà tranh cũ, hầu hết một gian hai chái, một số ít ba gian hai chái, đứng sau những hàng rào chè tàu, bao quanh bởi cau, trầu, dừa, chuối, mít, nhãn, khế, đu đủ, vả, dứa. Trông khá quen mắt, nhà cửa, vườn tược của những làng quê xứ Huế đều na ná như thế. Chỉ lạ là vùng này dường như không có ruộng lúa. Thế là dân ở đây không sống bằng nghề nông như hầu hết những miền quê khác? Có nghề đánh cá chăng? Đang mùa xuân, chưa có trái chín, vẫn nghe trong không gian lành lạnh man mác mùi hương buổi sáng. Mọi vật tĩnh lặng, thỉnh thoảng chiêm chiếp mấy tiếng chim sâu. Và trầu thì bò lên quanh thân cau thẳng đứng lốm đốm rêu đen, rêu vàng, rêu xanh từ gốc đến lưng chừng ngọn. Gió từ con sông đưa lại chút mùi gây gây mằn mặn của biển cả - vâng, nơi này không xa phá Tam Giang bao nhiêu - làm đu đưa đọt chuối, bẹ dừa, ngọn cau, làm rung rung lá trầu trong nắng mới. Vết thương chiến tranh đã liền da. Đó là bên ngoài.

Nhưng trong lòng người? Tâm trí tôi không thể không quay về với những trận đánh đã xẩy ra cách đây gần 60 năm, và tiếp theo là những trận chiến tàn khốc khác kéo dài cho đến tháng 4, 1975. Nhiều lúc tôi tự hỏi tại sao thế, tại mình có tính thù lâu, hay do có trí nhớ dai dẳng? Không phải thế, tôi, và những người trên dưới vài thế hệ, cùng tâm trạng, cố quên mà không thể nào quên được quá khứ. Tình hình đất nước bây giờ càng gợi nhớ những ngày tháng điêu linh cũ.

(Còn tiếp)

Bắc Hành

Ngự Thuyết

Thursday, August 26, 2010

http://www.diendantheky.net/2010/08/bac-hanh_26.html

(Tiếp theo)

Kỳ 2


Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, tức là chiến tranh chống Pháp giành độc lập, có những lý do hoàn toàn chính đáng của nó. Trong cuộc chiến ấy, người Cộng Sản đã biết vận động quần chúng, khơi dậy lòng yêu nước của toàn dân, nhưng nhân đấy tìm mọi cách tận diệt những người yêu nước không cùng chính kiến, đó là trọng tội. Tôi nghĩ đến những người theo Pháp chống lại phe Cộng Sản - một số ít có thể là bọn người vong bản bán nước cầu vinh, nhưng đại đa số lâm vào cái thế bị dồn vào chân tường đành phải dựa vào ngoại bang mong tìm một giải pháp khác trên con đường giành lại chủ quyền cho đất nước. Lại còn có người không chấp nhận cộng sản, cũng không chịu nổi thực dân Pháp, sống âm thầm cho hết những ngày còn lại của đời mình, hoặc tìm cách thoát ly ra nước ngoài tiếp tục cuộc đấu tranh. Lại cũng còn có không ít những người theo Cộng Sản vì phóng lao phải theo lao, hoặc vì muốn dựa vào Cộng Sản trong nước và Cộng Sản quốc tế để mưu đồ ích quốc lợi dân, đến khi đi gần hết con đường nhìn lại thấy ngao ngán.
Những nạn nhân của thời cuộc nói trên không phải chỉ có tại Việt Nam mà thôi. Ở những nước độc tài toàn trị khác trên thế giới, hoàn cảnh ấy vẫn xẩy ra hằng ngày hiện giờ.

Còn chiến tranh Đông Dương lần thứ hai thì sao? Gọi đó là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” quả không ổn chút nào. Miền Nam lúc ấy đã có kỷ cương vững vàng, đã trở thành một quốc gia dân chủ có chủ quyền trên mọi lãnh vực, đang muốn sống hòa bình, đang nỗ lực kiến thiết, xây dựng để có thể sánh vai với những nước lân bang và cả thế giới, và do đó được nhiều nước trong năm châu bốn biển thừa nhận và đặt quan hệ ngoại giao theo đúng thủ tục quốc tế. Nhưng Miền Nam muốn yên mà đâu được yên. Lại bị “giải phóng”. Hai chữ “giải phóng” nghe quá quen thuộc từ ngày chủ nghĩa Cộng Sản ra đời, dần dần nó mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Miền Bắc đóng vai trò tiên phong cho khối Cộng Sản để “giải phóng” Miền Nam rồi khối đó sẽ “giải phóng” nốt những nước còn lại của Châu Á trước khi nhuộm đỏ thế giới. Thì Miền Nam lại đứng ra làm “Tiền Đồn Chống Cộng”. Toàn là những nhiệm vụ cao cả vá trời lấp biển, dỏm, nhưng nó đè nặng lên trên một nước nhỏ bé. Một một dân tộc bất hạnh đứng ra làm bia đỡ đạn cho hai phe quốc tế tranh cường. Cảnh nồi da xáo thịt đã diễn ra một cách ghê rợn bằng vũ khí do ngoại bang cung cấp. Khi “cuộc chơi” đã mãn, khi bàn cờ quốc tế đã được sắp lại, Miền Nam bị Đồng Minh bỏ rơi. Và thất thủ. Và những đoàn quân nghèo khổ, đói khát, thiếu thốn mọi bề từ Bắc tràn vào Nam như nước vỡ bờ.

Trong một tài liệu mật được tiết lộ gần đây, theo Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, cựu tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon gọi cuộc chiến tranh vừa qua là chiến tranh ủy nhiệm. Đó không phải là chiến tranh giữa Bắc và Nam Việt Nam, hay giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam, mà là giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Cho nên khi Hoa Kỳ đã bắt tay với Trung Quốc, chiến tranh phải chấm dứt trong tình cảnh bi đát cho Miền Nam, như đã xẩy ra.

Kẻ thắng trận thẳng tay đày đọa kẻ thua trận. Cả triệu người Miền Nam liều chết bỏ nước ra đi, hàng trăm ngàn người vùi thân ngoài biển cả, trong rừng sâu. Oán thù ngùn ngụt chồng chất. Thế giới loài người bàng hoàng. Mang nặng mặc cảm, kẻ thắng trận lại càng sấn tới, càng hung hăng, tàn bạo. Mang đầy lòng tham, kẻ thắng trận lại càng siết chặt bàn tay sắt để bảo vệ những gì đã chiếm đoạt.

Tôi nghĩ đến học giả Trần Trọng Kim và cuốn hồi ký cuối đời của ông, Một Cơn Gió Bụi, ghi lại khá đầy đủ một thời kỳ đầy biến động của lịch sử nước nhà sau 80 năm bị Pháp đô hộ. Ông được vua Bảo Đại mời lập nội các khi Nhật đầu hàng Đồng Minh năm 1945. Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại hơn bốn tháng từ tháng 4 đến tháng 8, năm 1945, nhưng đã có những đóng góp lớn lao trong việc xây dựng một quốc gia vừa mới giành lại chủ quyền. Tiếc thay, chính quyền kế tiếp không đánh giá đúng mức mà còn lên án những đóng góp ấy.

Trần Trọng Kim là một nhân cách hiếm có, một sử gia uyên bác, công minh, ưu thời mẫn thế. Ông sinh năm 1883 khi nước ta bị Pháp chiếm gần hết, và qua đời năm 1953 khi trận chiến ác liệt bùng nổ tại Phố Buồn Hiu. Qua cuốn hồi ký ấy, người đọc có thể nhận thấy muôn vàn khó khăn mà ông và những người cộng sự phải trải qua trong nỗ lực lèo lái con thuyền bé nhỏ Việt Nam trong cơn bão tố, nhất là phải gánh chịu hậu quả của những thủ đoạn tàn độc của những người đặt quyền lợi đảng phái lên trên tổ quốc. Xin trích dẫn vài ba đoạn trong cuốn hồi ký:
“Việc binh bị trong nước là việc quan trọng đến vận mạng cả nước, mà lúc ấy quân lính và súng ống không có. Kinh đô Huế có tất cả hơn 100 lính bảo an, tức lính khố xanh cũ, và sáu bảy chục khẩu súng cũ, đạn cũ, bắn mười phát thì năm sáu phát không nổ. Các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các phủ huyện thì độ chừng vài chục người.”...
“Việc người Pháp làm ở Đông Dương có nhiều lầm lỗi, ngay từ lúc đầu không chịu thay đổi cái thái độ với người Việt Nam, cứ tưởng lấy võ lực mà đàn áp và dùng quyền mưu mà lừa dối để đem người ta vào tròng như ý mình muốn, không biết rằng lòng người đã thay đổi, nhân trí đã biến thiên, không thể lấy thế lực mà bắt người ta đi lại con đường cũ được. Phàm cái quyền mưu lừa dối là chỉ dùng được khi người ta không biết, nhưng khi người ta biết rõ cái mưu thuật của mình thì cái mưu thuật ấy không có công hiệu nữa.”...
“Đảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.”...
“Ai có vòng xuyến hoa tai họăc đồ gì bằng vàng phải đem nạp chính phủ để tổ chức việc nước. Hết cuộc quyên vàng đến cuộc quyên đồng, đủ mọi thứ. Trong hoàng thành, Việt Minh cho người vào lấy những bảo vật và y phục của các vua chúa đời trước đem ra chợ bán. Khi quân Nhật sắp hàng có đưa trả lại cho chính phủ Việt Nam bốn tấn bạc bằng thoi chở vào để trong cung, số bạc ấy không biết về sau ai lấy mất. Bấy giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ Việt Minh ở Huế trả tôi 1600 đồng, tiền lương quá nửa tháng cuối cùng của tôi, tôi mới có tiền tiêu.”...
“Đến tháng 3 năm 1949, ông Bảo Đại đã điều đình với chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam được thống nhất và độc lập trong khối liên hiệp Pháp, đại khái theo cái nguyên tắc ông Bảo Đại và tôi đã đưa cho người Pháp khi chúng tôi còn ở Hương Cảng. Giá hai năm trước chính phủ Pháp đi hẳn vào con đường ấy, có lẽ đỡ được bao nhiêu thì giờ và sự tổn hại. Song cái tính con người ta bao giờ cũng thế, cứ để cho đến khi bất đắc dĩ mới chịu làm những việc phải làm, còn thì cứ muốn bám lấy cái lợi một lúc, rồi cứ xoay quanh mãi thành ra hư hỏng việc lớn. Lòng tham của người ta không có bờ bến, nếu không đem cái lòng công minh chính trực mà ngăn ngừa lòng tư dục, thì thường hay có những sự tàn ác, gây ra nhiều nỗi đau buồn.”
“Về phương diện chính trị của người Việt Nam thì chính phủ Việt Minh đã thất sách từ lúc đầu, chưa gì đã đem áp dụng cái chủ nghĩa cộng sản một cách đường đột quá, thành ra ở trong thì dân tình ta thán, mà ở ngoài thì không có ai muốn giúp đỡ.”...
“Người cộng sản, khi đã hành động, hay dùng đến chữ giải phóng. Theo việc làm của họ, tôi vẫn chưa hiểu rõ nghĩa hai chữ ấy. Có phải trước kia có cái cũi giam người, bây giờ họ đem cái cũi kiểu mới đến bên cạnh rồi bảo người ta chạy sang cái cũi mới ấy, thế gọi là giải phóng không? Nếu cái nghĩa giải phóng là thế, thì cũi cũ hay cũi mới cũng vẫn là cái cũi, chứ có gì hơn?”...
“Cái thủ đoạn của Việt Minh là dùng mọi cách bạo ngược, tàn nhẫn, giả dối, lừa đảo để cho được việc trong một lúc. Ngay như họ đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng nay nói là đoàn kết, mai đoàn kết, nhưng họ vẫn đánh úp, vẫn bao vây cho tuyệt luơng thực. Khi họ đánh được thì giết phá, đánh không được thì lại đoàn kết, rồi cách ngày lại đánh phá. Dân tình thấy thế thật là ngao ngán chán nản, nhưng chỉ ngấm ngầm trong bụng mà không dám nói ra.”...
“Hiện nay đảng Việt Minh có nước cờ đáng rất cao, là tự mình lui bước đi, để cho đảng chân chính quốc gia đứng ra thực hiện sự độc lập và thống nhất của nước nhà, rồi lập thành một chính thể đúng theo cái nghĩa dân chủ đang thịnh hành ngày nay. Cho các đảng phái được công nhiên lấy nghĩa lý mà tranh đấu trên trường ngôn luận, nhưng không được dùng võ lực mà tranh quyền cướp thế. Làm được như thế, tất nhiên là họ giúp cho nước Việt Nam sẽ có cái địa vị rõ ràng trong quốc tế, không ai xâm phạm được nữa. Khi ấy mọi người trong nước phải quả quyết đi vào con đường kiến thiết, ai nấy đem hết tài lực của mình mà học tập và làm việc để đem nước đến cái trình độ cường thịnh như các nước khác.”
Cho đến nay, đọc lại cuốn Hồi Ký của Trần Trọng Kim viết cách đây hơn 60 năm, ta vẫn thấy có nhiều điều đáng suy gẫm, và đặc biệt là còn mang khá nhiều tính cách thời sự, hiện đại.

Trước khi qua cầu Mỹ Chánh để ra Quảng Trị, chúng tôi ghé lại một ngôi làng cổ, một trong những ngôi làng xưa nhất của Thừa Thiên-Huế, đó là làng Phước Tích. T. nói:
- Để em đưa anh tới chỗ làm đột đột. Phước Tích xưa kia có làm đột đột.
- Xưa kia. Thế bây giờ còn làm không?
T. nheo mắt nhìn tôi hỏi:
- Nhưng anh có biết đột đột là cái chi không?
- Biết chứ. Đột đột là pháo. Pháo nổ độp độp. Phải không? Nhưng T. nói xưa kia, thế bây giờ hết làm?
- Bây giờ cái nghề xưa đó đang được phục chế, T. vừa nói vừa cười. “Đặc biệt tại làng này.”
Tôi nghĩ thầm làm pháo thì đặc biệt cái nỗi gì. Đâu chả có. Nhưng tôi lầm. T. giải thích:
- Đột đột không phải pháo. Đó là các loại đồ gốm xưa không tráng men như ấm nước, lu, ghè, hũ, chậu ... Và những om đất nung dùng để nấu cơm. Om một, om hai - om một cho một người ăn, om hai cho hai người ăn. Loại om “đặc biệt” của làng Phước Tích thì để dành tiến Vua. Cơm Vua ăn phải được nấu bằng lửa rơm trong loại om đất ấy mới ngon, lớp cháy mỏng ở đáy om ngon tuyệt. Vua ăn xong, đầu bếp phải xáng om, lấy om mới nấu lứa cơm khác, vì om đã được dùng qua một lần sẽ mất đi mùi thơm tho, có lẽ mùi thơm của đất làng Phước Tích. Nhưng anh đi lâu ngày rứa có biết xáng nghĩa là gì không?
- Biết chứ. Xáng là ném mạnh cái gì đó xuống đất cho nó bể, nó vỡ. Nhưng sao lại xáng đi, uổng của. Vua không xài để người khác xài.
- Phải xáng chớ, T. vui vẻ tiếp tục câu chuyện. “Mình xài đồ của vua, dù là đồ bỏ, rứa là phạm thượng, tội nặng lắm. Vua phong kiến mà.”
Sực nhớ, tôi hỏi:
- Ở đây không thấy người ta làm ruộng. Sao vậy?
- Có đất đâu mà làm. Hơn nữa đất bị nước mặn. Làm nghề khác vậy. À làng Phước Tích cũng là gốc của họ Hoàng Trọng mà đa số làm nghề dạy học. Họ Hồ Đình khá tiếng tăm cũng gốc ở làng này.
- Hình như họ Hoàng Trọng, họ ngoại của vua Bảo Đại, ở vùng Cầu Hai hay Túy Vân, Mỹ Lợi gì gì đó chứ.
- Họ Hoàng Trọng ở đây thuộc nhánh khác, T. trả lời.

Tại lò nung đột đột, tôi mua ba bình cắm hoa, trong đó có cái hình lục lăng nhỏ và rất đẹp, xong chúng tôi đèo nhau trở lại quốc lộ 1. Tôi ngồi sau phải ôm thêm mấy cái bình đất nung lỉnh kỉnh. Chúng tôi quẹo phải, qua cầu Mỹ Chánh hướng ra Quảng Trị. Xin mở dấu ngoặt, hôm sau khi trở về đến Huế, chỉ cái hình lục lăng còn nguyên vẹn, hai bình kia bể.

Lại dấu binh lửa. Chúng tôi dừng lại bên đường, nhìn vào một nghĩa trang rộng lớn ở cổng vào có hàng chữ “Tổ Quốc Ghi Công”. Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1972, Miền Bắc, sau khi vượt vĩ tuyến 17, chiếm cổ thành Quảng Trị, xua quân và xe tăng đuổi theo những đoàn người tỵ nạn chen nhau chạy vô Huế nối đuôi nhau trông như con rắn khổng lồ dài hàng chục cây số. Cộng quân tấn công đoàn người tháo chạy chủ yếu bằng súng cối 61, B 40, đại bác 130. Người chết, trâu bò chết, xe cộ hỏng, nằm ngổn ngang dọc con đường dài từ Quảng Trị vào đến cầu Mỹ Chánh, bắc Thừa Thiên. Con đường ấy sau này được mệnh danh là Đại Lộ Kinh Hoàng thuộc huyện Hải Lăng, Quảng Trị.

Miền Nam cố thủ tại cầu Mỹ Chánh, rồi phản công. Đến giữa tháng 9, 1972, Quân Cộng Hòa chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị, kéo cao ngọn cờ. Một thi sỹ nhà binh, Cao Tiêu, làm một bài thơ nổi tiếng về chiến thắng này, được phổ nhạc,
Cờ bay, cờ bay, oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu...
Trong trận Cổ Thành Quảng Trị, số người chết của cả hai bên lên đến hàng ngàn. Quanh Cổ Thành, xác của quân Cộng Hòa và của quân Cộng Sản nằm la liệt tràn ngập các chiến hào, chồng chất lên nhau. Những tử thi ấy sau đó được kéo lên, người mang giày trận, kẻ mang dép râu. Có cả xác lính giày trận và lính dép râu ôm lấy nhau – lúc sắp lìa đời vẫn còn thù ghét nhau quyết đấm đá nhau thêm lần chót nữa hay sao, hay bỗng chợt cảm thấy cần phải xích lại gần nhau hơn mới có thể hồi tâm nhìn lại những uẩn khúc của cuộc chiến huynh đệ tương tàn đau đớn này?

Quân Bắc Việt rút lui qua bên kia sông Thạch Hãn củng cố lại lực lượng chờ ngày tái chiến, để lại một thành phố tan tành, nhà cửa, chợ búa, chùa chiền, am miếu, nhà thờ, thành lũy, tất cả biến thành bình địa.

(Còn tiếp)

.

.

.

No comments: