Thêm kênh là cần thiết
saurieng
May 31, 2009
http://ngngtu.blogspot.com/2009/05/them-kenh-la-can-thiet.html
Cuộc họp huy hoàng
(Trích tường thuật cuộc họp của Ban lãnh đạo mở rộng Đài truyền hình TLLC- Tức Tào Lao Lá Cải, do Má Thằng An ghi lại)
Phó giám đốc phụ trách nội dung mở đầu cuộc họp bằng một bài đánh giá các chương trình của Đài thời gian qua. Phải nói là những chương trình chiếu phim của Đài ta là nổi bật nhất khu vực, Phó Nội Dung sung sướng hể hả, nguồn phim ta khai thác được làm mấy đài bạn quá sức thèm muốn. Cụ thể là phim lúc 6 giờ chúng ta có "Ly dị ở Bắc Kinh", 9giờ là "Võ lâm giành ghế", trong khi đó “Thuở dậy thì của Võ Tắc Thiên” đang gay cấn lúc 12giờ, riêng chiều tối đài ta cũng quá phong phú, 15giờ là “Người tình thứ mười tám của Tần Thỉ Hoàng”, 17giờ không ai bỏ qua phim “Vụ án quần áo Quảng Châu”, 21giờ nhân dân đang sục sôi chờ từng tập tiếp theo của bộ phim “Vua Càn Long và con rơi”… Nhìn chung là Đài chúng ta đã đạt được chỉ tiêu phủ sóng phim Trung Quốc đến nhà nhà người người…
Đồng chí giám đốc gật gù, sực nhớ ra chuyện ấm ức ông suýt rơi nước mắt:
- Chúng ta làm vầy là quá tốt rồi, vậy mà hôm trước trong cuộc họp với trên, tôi bị phê bình phủ đầu vụ ở một vài trường học, thầy giáo hỏi học trò ai đốt sách chôn nho, tụi nhỏ trả lời chắc là nông dân ở Ninh Thuận bắt con em bỏ học để đi đào đất… trồng nho. Rõ ràng học sinh tỉnh ta không thông thuộc lịch sử Trung Quốc là năng lực của chúng quá kém, vậy mà xảy ra chuyện là đài ta lãnh đủ.
- Dạ phải đó anh, anh Phó Tổ chức Hành chánh tiếp lời, hôm qua báo lại khui ra vụ mới, một học sinh lớp Bảy không biết từ tiểu nhị là gì, nó suy luận, tiểu là nhỏ, nhị là hai, tiểu nhị chắc là tên cúng cơm của đồng chí Hai Nhỏ chủ tịch.
Không khí cuộc họp bỗng sục sôi lên, đúng là tức mình không chịu được. Anh Phó Nội Dung đau đáu, “Làm sao học sinh lớp bảy mà không biết ai đốt sách chôn nho, chúng ta chiếu phim về Tần Thỉ Hoàng ít nhất là năm lần trong hai năm qua rồi. Sau khi báo chí la rùm vụ tụi học sinh hẫng kiến thức Trung Quốc nghiêm trọng, Đài mình đang chiếu thêm một phim về cha nội Hoàng này nữa, nhưng phim vòng vo chuyện tình cảm quá, thành ra chuyện nho sách cũng không khai thác sâu, đề nghị trưởng phòng văn nghệ để ý nguồn phim cho kỹ.
Chị Văn Nghệ nảy giờ ngồi buồn xo, chị nói xảy ra chuyện chị cũng đâu có vui vẻ gì, trẻ Việt Nam mà không rành văn hóa, lịch sử Trung Quốc chị cũng có một phần trách nhiệm, nhưng rõ ràng chuyện này nằm ngoài khả năng của chị. Bởi nếu cắt phần cải lương đi chắc chắn bị mấy bà già nông thôn gởi thơ phản đối, mà tuần chỉ có một tuồng chớ mấy, riêng giờ Hột Xoàn Phim Việt nếu chiếu phim Trung Quốc luôn thì sẽ bị mấy ông già về hưu xách mé, “tưởng đâu đang sống ở Trung Quốc…”
Trúng ý, Giám đốc vỗ bàn cái bộp, phẩn uất :
- Bởi vậy, ta nói mấy ông già này cũng rảnh, can thiệp vào công chuyện nội bộ của Đài mình không ít, nghe phong phanh còn gởi thơ ký tên tập thể lên Trung ương, phản đối Đài mình bán sóng cho Trung Quốc bạn bè. Ấy, nhưng tôi đã chuẩn bị sẵn ý kiến giải trình rồi đây nè, trong năm phim ta chiếu mỗi ngày, có hai phim của Đài Loan, một phim của Hương Cảng, mấy ông già không hiểu, cứ chụp mũ hoài. Thiệt, tôi hết ham ngồi ở cái ghế lúc nào cũng bị người ta đổ nước sôi.
Cuộc họp lắng đi trong nỗi xót xa khi mà tấm lòng của những tâm huyết không được bạn xem đài hiểu thấu. Anh Phó Kỹ thuật tối qua nhậu xỉn quá, tới giờ chưa tỉnh, nấc cục :
- Phải bên Trung Quốc có cải lương, mình đem về phát luôn cho tiện cả đôi bề.
- Ý này không tệ, đề nghị Phòng văn nghệ lưu ý tìm hiểu. Còn nữa, giờ Hột xoàn phim Việt khán giả không mặn mà lắm, sao không lồng tiếng Trung Quốc cho phim, rồi ta sẽ… thuyết minh, cho hấp dẫn, mới mẻ.
- Dạ thưa mấy anh, Chị chủ tịch công đoàn dường như không tự tin với ý nghĩ của mình, nên hơi rụt rè, mà chị lúc nào cũng rụt rè, chức nghe lớn chớ quyền hành cũng dạng tép riu, giờ có thay phim Trung Quốc vào giờ Hột Xòan thì cũng chẳng tới đâu, sao mình không mở thêm kênh…
Trời ơi, ý này táo bạo à nghen, cả cuộc họp nóng sực, ai đó kêu lên, rất hay, sáng kiến vàng chớ hong phải chơi. Chị Công Đoàn bẽn lẽn :
- Em nghĩ ra vụ này cũng vì đời sống của cán bộ nhân viên đài mình thôi, mở thêm kênh, chiếu phim Trung Quốc cho để bồi dưỡng kiến thức cho các tầng lớp nhân dân, chúng ta lấy quảng cáo. Thời trước quảng cáo lẩn quẩn với kinh nguyệt không đều, bổ thận tráng dương nhưng giờ khác rồi, chị Công Đoàn bỗng chuyển giọng như thể ma nhập vậy, “bạn hãy soạn tin MTCT (muốn tình có tình) dấu cách tên bạn gởi tới tổng đài Bẫy Bẫy Bẫy Bẫy để tải về clip hì hụi hì hụi của ngôi sao gợi cảm Tràng Giang Đại Hải”, “Nhắn tin về tổng đài Con Lừa để tham gia chương trình “Hàng thì sang giá rẻ như khoai lang”, “Bàn tay bạn có mấy ngón ? hãy gởi về câu trả lời tới tổng đài Bẫy Hoài Cũng Dính, đừng quên dự đoán có bao nhiêu người tham gia cùng bạn nhé”…
Công Đoàn hụt hơi, dừng lại thở, thấy mọi người đang thộn ra nhìn mình, chị ngượng ngùng, dạ, tại coi đài mình riết rồi em thuộc lòng, có bữa còn nói mê luôn vậy đó. Nhưng việc chị lên đồng không làm ai phật lòng hết, bởi ý tưởng thêm kênh của chị được hoan nghênh nhiệt liệt. Cũng có vài ý kiến quan ngại không đủ chương trình để phát, nhưng bàn ra thì mọi chuyện coi như ổn, tạm tính cứ 10 phút phim thì rao soạn tin dấu cách gửi bẫy này bẫy nọ 5 phút, lo gì Đài cạn sóng.
Giám đốc phấn khởi kết luận, chúng ta nhất trí phương án này, chỉ có thêm kênh thì phim Trung Quốc mới được phát huy hơn, người Việt sẽ am hiểu sâu sắc lịch sử đất nước con người Trung Quốc hơn, đài chúng ta sẽ có nhiều quảng cáo hơn nữa, đóng góp vào ngân sách nhà nước nhiều hơn, mà anh em ta cũng có cơ hội lách qua lách lại kiếm đồng ra đồng vào.
Mọi người vỗ tay hoan hỷ, ít có cuộc họp nào không phong bì mà vui như cuộc họp này. Như thể nó vừa mở ra một chân trời tươi sáng.
Kakaka
Nguyễn Ngọc Tư
----------------------------------------------------------------------------------
BÁ QUYỀN VĂN HÓA ĐE DỌA VIỆT NAM
Đoan Trang
[17.05.2009 23:01 - Nhịp Cầu Thế Giới Online]
http://www.nhipcauthegioi.hu/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1895
(NCTG) Nhìn vào độ chiếm sóng của phim Trung Quốc trên các đài truyền hình ở Việt Nam, nhiều người lo ngại về khả năng Việt Nam bị “đồng hóa” bởi anh bạn láng giềng. Khả năng đó có thật, và nó là biểu hiện của một hình thức bá quyền tinh vi: bá quyền văn hóa - một phần quan trọng trong chính sách bá quyền của nước lớn, một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ.
Câu chuyện bắt đầu từ năm 1987...
Tháng 3-1987, Bộ Phát thanh - Truyền hình Trung Quốc triệu tập một hội nghị gồm đại diện của tất cả các đơn vị sản xuất truyền hình khắp cả nước. Tại đây, Bộ cảnh báo về xu hướng "giải trí hóa" phim ảnh trên sóng truyền hình, đồng thời đưa ra chính sách mới: tích cực, chủ động dồn lực sản xuất những bộ phim "giai điệu chủ" nhằm mục đích truyền bá lịch sử, văn hóa, tư tưởng và thẩm mỹ của Trung Hoa tới mỗi người dân Trung Quốc và thế giới.
Chính sách này phân loại phim truyền hình thành một số thể loại chính, nằm trong một khái niệm chung mà Chủ tịch Giang Trạch Dân gọi là "giai điệu chủ":
• Dòng phim về những đề tài mang tính thực tiễn, ca ngợi người tốt việc tốt - gọi chung là phim "thần tượng tuổi trẻ";
• Dòng phim cổ trang, gồm phim lịch sử ("Tam Quốc Diễn Nghĩa", "Vương triều Ung Chính", "Khang Hy", "Thái Bình Thiên Quốc"…), dã sử ("Tể tướng Lưu Gù", "Hoàn Châu Cách Cách"...)
• Dòng phim gia tộc luân lý ("Mùa quít chín", "Gia tộc Kim Phần"…)
• Dòng phim cách mạng, dựng lại ngữ cảnh thời xưa ("Khát vọng", "Câu chuyện Thượng Hải"…) hoặc tái hiện chân dung những nhân vật nổi tiếng (Tôn Trung Sơn, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình…)
• Dòng phim hình sự, chống tham nhũng ("Xứng danh anh hùng", "Khống chế tuyệt đối"…)
Những phim này được Nhà nước hỗ trợ nhiều mặt, chẳng hạn ưu tiên chiếu ở các đài địa phương lớn vào giờ vàng.
Đặc biệt, chúng nằm trong kế hoạch tuyên truyền của Nhà nước: Tất cả các phim, chỉ trừ dòng hình sự, chống tham nhũng, đều được hỗ trợ xuất khẩu, nhằm mục đích cao nhất là phổ biến "giá trị Trung Hoa" tới các quốc gia trong khu vực.
Trong số những nước mà Trung Quốc hướng tới, Việt Nam nổi lên như một tiền đồn, bởi "đây là nước Đông Nam Á duy nhất chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc thay vì văn hóa Ấn Độ", như lời tác giả Hạo Kiện viết trong cuốn "Phim truyền hình Trung Quốc - nghiên cứu văn hóa và nghiên cứu loại hình" (NXB Điện ảnh Trung Quốc, 2008).
Phần lớn các phim "giai điệu chủ" đã được giới thiệu ở Việt Nam, khán giả nước ta chẳng xa lạ gì với chúng. Các phim đều được xuất khấu với giá hết sức ưu đãi sang Việt Nam, thậm chí một số phim cho không (như "Khát vọng", "Tây du ký", "Vương triều Ung Chính") theo thỏa thuận hợp tác giữa các đài truyền hình hai nước.
* Ồ ạt "xâm lăng văn hóa"
Song song với việc xuất khẩu các sản phẩm văn hóa, nhất là phim truyền hình, sang các nước trong khu vực mà đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc cũng tiến hành "Trung Hoa hóa" các sản phẩm của những nước này.
Bất chấp việc giới truyền thông Việt Nam đưa tin đậm về những phim hợp tác giữa hai nước như "Hà Nội Hà Nội" hay "Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong", các bộ phim này chưa bao giờ được ưu tiên chiếu giờ vàng trên sóng truyền hình của bất cứ đài nào ở Trung Quốc. Ví dụ, "Hà Nội Hà Nội" chỉ được phát trên đài tỉnh Quảng Tây, Nam Ninh vào lúc… đêm khuya thanh vắng.
Với nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình nổi tiếng đến từ các nước khác, Trung Quốc thực hiện làm mờ tính nước ngoài của chúng. "Vua Kungfu" (Forbidden Kingdom) dù là phim của Mỹ và từ đạo diễn đến quay phim, phục trang đều là người Mỹ, nhưng khi đến đại lục, phim mặc nhiên được giới truyền thông nhào nặn thành sản phẩm Trung Hoa.
Các ngôi sao châu Á của Hollywood cũng bị "Trung Hoa hóa" tương tự. Khán giả Trung Quốc nói riêng và châu Á nói chung dễ lầm tưởng rằng Dương Tử Quỳnh, Maggie Q. (Lý Mỹ Kỳ - mẹ là người Việt Nam) là người đại lục.
Trung Quốc cũng khéo léo lờ đi chuyện quốc tịch của nhiều diễn viên nổi tiếng trong nước họ: Hầu như rất ít người biết rằng ngôi sao Trương Thiết Lâm mang quốc tịch Anh, Tư Cầm Cao Oa là người Thụy Sĩ, Ninh Tĩnh là người Pháp, còn mỹ nhân Chương Tử Di gốc gác Hong Kong.
* Điều gì nằm sau chiến lược xuất khẩu văn hóa của Trung Quốc?
Một nước lớn với dân số hùng hậu như Trung Quốc khó mà chấp nhận tầm ảnh hưởng ít ỏi ở thế giới. Và trên con đường "trỗi dậy hòa bình" để trở thành bá quyền ít nhất là trong khu vực, Trung Quốc mau chóng nhận thấy sức mạnh của văn hóa - thứ "quyền lực mềm" đầy quyến rũ.
Chẳng riêng Trung Quốc biết điều đó. Như một nhà nghiên cứu người Hungary, Márkus Péter, đã viết: Trong lịch sử quan hệ quốc tế, thoạt tiên, khi không có sự khác biệt đáng kể trong kỹ thuật, sức mạnh chân tay - quân sự thô kệch còn chiếm vai trò chế ngự. Thế kỷ 16-19, những mối quan hệ kỹ thuật - kinh tế từng bước chiếm ưu thế. Từ thế kỷ 20, văn hóa và truyền thông bắt đầu lên ngôi.
Bên cạnh kinh tế và quân sự, các quốc gia sẽ thực hiện cả tham vọng gây ảnh hưởng và lấn át các nước khác trên bình diện văn hóa, tư tưởng. Sau Chiến tranh Lạnh, ở châu Âu, bên cạnh ngoại giao về chính trị và kinh tế, thì ngoại giao văn hóa ngày càng nở rộ, và dần dần sẽ trở thành hình thức bá quyền chủ yếu.
Pháp và Đức là hai quốc gia rất chú trọng tới vấn đề "bá quyền văn hóa" này. Các hoạt động “xuất khẩu văn hóa” của họ được tiến hành mạnh mẽ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó ngay tại Việt Nam: Chương trình hoạt động thường niên của Trung tâm Văn hóa Pháp (L’Espace) và Viện Goethe sôi nổi hơn hẳn so với Hội đồng Anh (British Council) hay Viện Cervantes của Tây Ban Nha.
Và đến đây thì chúng ta cũng có thể nhận thấy những hình thức ngoại giao văn hóa mà Trung Quốc đang tiến hành đối với Việt Nam, trong nhiều ví dụ thực tế. Phim truyền hình Trung Quốc chiếm sóng các đài ở Việt Nam, cả trung ương lẫn địa phương. Khán giả thuộc sử Trung Quốc hơn sử Việt Nam. Các ca sĩ thời thượng rành rẽ về trang phục của đời Thanh và chắc chắn là sẽ không trả lời được câu hỏi vua chúa nhà Nguyễn ngày xưa ăn mặc như thế nào.
Ngay trong giới trí thức, tâm lý sùng bái văn hóa Trung Hoa đã rất nặng. Một số đông trí thức Việt Nam có thể dễ dàng trích dẫn các điển tích, điển cố của Trung Hoa thay vì của phương Tây hay thậm chí của chính nước mình. Nói tới văn hóa Trung Hoa là nói tới một nền văn học với những tác phẩm vĩ đại, tới triết học thâm sâu, tới sân khấu kinh kịch có sức sống trường tồn, tới điện ảnh với những nhân tài mà ngay cả Hollywood cũng phải kiêng nể.
Điều này không sai, tuy nhiên, cái đáng nói ở đây là nhiều trí thức Việt Nam luôn vị nể quá mức thay vì đặt văn hóa Trung Hoa vào tương quan đúng mực với các nền văn hóa khác trên thế giới - cũng rực rỡ và vĩ đại như thế.
Khái niệm bá quyền văn hóa - tư tưởng mãi tới thập niên 30 của thế kỷ 20 mới ra đời (1). Trên thực tế, Trung Quốc đã thực hiện bá quyền văn hóa - tư tưởng với láng giềng Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua. Ngày nay, với sự phát triển của truyền thông, dường như cuộc "xâm lăng văn hóa" này diễn ra một cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn bao giờ hết.
* Vấn đề đến từ phía những kẻ "bị xâm lăng"
Bá quyền không đơn thuần là sức mạnh bạo lực, vì vậy, để có được bá quyền, không thể thiếu được cách cư xử mang tính đồng thuận, chấp nhận và góp phần của những kẻ bị bá quyền.
Riêng trên địa hạt văn hóa - tư tưởng, các học giả nghiên cứu về bá quyền văn hóa đều cho rằng bá quyền văn hóa, nếu được thực hiện, không thể thiếu sự đồng thuận một phần hoặc toàn thể của kẻ bị bá quyền.
Như thế, việc Trung Quốc tiến hành bá quyền văn hóa thành công còn phụ thuộc cả vào cách cư xử của nước bị bá quyền, ở đây là Việt Nam.
Điều đó nghĩa là Việt Nam cần có thái độ và ứng xử phù hợp. Chẳng hạn, nên có sự trao đổi văn hóa song phương với Trung Quốc một cách tương xứng.
Việt Nam có thể thỏa thuận các chương trình trao đổi văn hóa với Trung Quốc, theo đó, đồng thời với việc nhập khẩu các sản phẩm văn hóa của nước láng giềng, Việt Nam sẽ xuất khẩu văn hóa theo hướng ngược lại, xuất bản sách, tổ chức những ngày văn hóa, tuần văn hóa Việt Nam... tại Trung Quốc.
Theo một thống kê (3) được công bố trên tờ "China Daily", năm 2004, Trung Quốc nhập khẩu 4.000 đầu sách từ Mỹ, nhưng chỉ xuất khẩu 14 đầu sách sang nước này; nhập 2.000 đầu sách từ Anh, nhưng chỉ xuất sang đây 16 đầu sách.
Từ năm 1999 đến năm 2002, hơn 280 đoàn nghệ thuật Nga biểu diễn ở Trung Quốc, trong khi chỉ có 30 đoàn nghệ thuật Trung Quốc sang biểu diễn tại Nga. Giai đoạn 2000-2004, Trung Quốc nhập khẩu trên 4.000 phim và chương trình truyền hình, nhưng xuất khẩu không đáng kể. Dòng phim "giai điệu chủ" hầu hết chỉ tiêu thụ được ở khu vực Đông Nam Á mà trong đó Việt Nam là "tiền đồn".
Đã đành Nga, Mỹ và Anh là ba nước lớn nên Trung Quốc không dễ tiến hành bá quyền văn hóa như với Việt Nam. Nhưng ngay cả một quốc gia nhỏ bé ở Đông Âu là Hungary - diện tích chỉ bằng một phần ba Việt Nam, dân số 10 triệu - thì cũng từng tổ chức Năm Văn hóa Hungary tại Trung Quốc (2007-2008), và dựng tượng đại thi hào dân tộc Petőfi Sándor ở Thượng Hải.
Những thông tin này có gợi cho chúng ta một suy nghĩ gì chăng?
---------------------------------------------
(1) Khái niệm “bá quyền văn hóa” (cultural hegemony) do Antonio Gramsci (1891 - 1937) - triết gia chính trị, sáng lập viên Đảng Cộng sản Ý - đưa ra từ những năm 30 của thế kỷ trước. Gramsci cho rằng, để có được và duy trì quyền lực chính trị, giai cấp vô sản phải thực hiện bá quyền văn hóa, phải có tiếng nói thống trị trong truyền thông đại chúng và giáo dục, cũng như phải tiến hành kiểm soát toàn diện trên bình diện tư tưởng và tín ngưỡng.
(2) Đầu tháng 4, Văan phòng Chính phủ đã có công văn số 1992/VPCP-QHQT gửi Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Văn phòng Trung ương Đảng thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập thí điểm một học viện Khổng Tử tại Việt Nam.
Học viện này có chức năng đào tạo tiếng Trung, tư vấn du học, tổ chức các hoạt động văn hóa. Trung Quốc có kế hoạch thiết lập khoảng 100 học viện Khổng Tử tại nhiều nước nhằm mục đích phổ biến văn hóa Trung Hoa ra thế giới.
Truyền bá văn hóa của đất nước mình là điều bất kỳ chính phủ nào cũng nên làm. Vấn đề chỉ là làm sao để có sự trao đổi văn hóa song phương và mọi quan hệ đều là hợp tác tương hỗ.
(3) Số liệu lấy từ bài "Trung Quốc tăng cường trao đổi văn hóa" trên "China Daily". Báo "Người đại biểu nhân dân" dịch và đăng lại, 26-12-2006.
Đoan Trang
No comments:
Post a Comment