Sunday, December 28, 2008

TỰ DO TÔN GIÁO

TỰ DO TÔN GIÁO - ĐÂU LÀ MỘT PHẦN HAI SỰ THẬT?
Nguyễn Thượng Long

http://www.doi-thoai.com/baimoi1208_367.html
Tôi chưa quên những gì mà các ông thầy Mác - Lê, các ông thầy lịch sử Đảng đã dạy dỗ tôi từ những năm tháng cắp sách đến trường. Phải nói là các thầy triết học, các thầy chính trị, các thầy văn học ngày đó rất xuất sắc trong việc phủ nhận, sự hiện diện của tôn giáo, của giáo quyền, của thần quyền qua các học thuyết vô thần của Các Mác. Thế giới trong tôi lúc đó chỉ là tồn tại vật chất, chẳng có ma tà thánh thần gì hết. Vì sao tôi lại nhắc tới các ông thầy dạy văn học? Vì thời của tôi, văn học là nhân học (Goocki). Các thầy dạy văn không chỉ là dạy văn mà còn là "Hành đạo làm người" chứ không phải là "Hành nghề" một cách thuần tuý như những người dạy văn bây giờ. Những thầy dạy văn ngày xưa, họ còn là các chính trị viên trên mặt trận văn hoá giáo dục giành dật con người cho Đảng, và cho CNXH chứ không phải là những thợ dạy luôn kè kè bên mình những tập văn mẫu cho học sinh phải nghĩ theo, cảm theo, viết theo và làm theo như tình trạng dạy dỗ hiện nay. Đến khi học về Lê nin, các thầy tôi rao giảng: Lê nin người thầy của giai cấp vô sản toàn thế giới đã nói: "Tôn giáo là một thứ thuốc phiện!?". Trí tuệ thơ ngây, trong trẻo ngày đó của chúng tôi lập tức được kích hoạt những ngộ nhận thật đáng thương về câu nói này. Bạn tôi có đứa suy diễn: Tôn giáo là thuốc phiện có nghĩa tôn giáo là một loại độc dược có thể gây nghiện cho người dân. Có đứa cực đoan hơn lại có suy nghĩ rằng: Người theo đạo, người có đức tin tôn giáo là người xấu, là kẻ có vấn đề và rất cần phải cảnh giác. Riêng với tôi, có thể do thể trạng, thể chất của tôi, có thể do hoàn cảnh sống, môi trường sống riêng mà tôi lại nghĩ: Tôn giáo rất cần cho con người. Nếu không có đức tin tôn giáo, trên con đường tiến hoá của mình, con người sẽ gặp phải nhiều đau đớn về thể xác, về tinh thần lắm. Như vậy, ở đây chính niềm tin thần thánh (tôn giáo) là phương cách để cứu rỗi, là hành trang tinh thần của con người trong cuộc đối diện với bao bất chắc luôn chờ đón rình rập.

Tôi sớm có những suy nghĩ như vậy cũng là nhờ ngày thơ ấu khi tôi hành sử 1 cách bản năng thô bạo với các thú nuôi trong nhà, mẹ tôi một phật tử tại gia lại nhắc nhở về sự hiện diện của "Quỷ thần hai vai" luôn chứng giám các hành vi, các ứng xử của mỗi người. Mẹ tôi thường nói đến hoả ngục A tì, nói đến vạc dầu sôi của Diêm vương, nói về Quỷ sa tăng tra khảo những vong hồn tội lỗi ở kiếp trần gian… Giờ đây các con tôi, các cháu tôi, nhiều thế hệ học sinh của tôi đặc biệt là những lứa sau này, họ đều ngơ ngác và cười cợt những lời khuyên tương tự như lời mẹ tôi đã khuyên dạy chúng tôi ngày nào. Tôi nghĩ rằng, khó có thể trách được họ. Cuộc sống hiện đại ngày nay khác cuộc sống ngày nào của chúng tôi lắm. Con người hôm nay như bị cuốn vào một guồng quay, một dòng chảy có gia tốc lớn quá. Người ta nhiều lúc chẳng kịp nhận ra chính mình giữa một dòng đời đầy hối thúc và cám dỗ thì còn đâu thời gian để mà nghĩ đến "Quỷ thần hai vai",nghĩ đến ân oán nơi hoả ngục! Như vậy, chẳng có gì là sai khi nói chính tôn giáo với những đức tin thần thánh đã hướng con người tới những giá trị Chân - Thiện - Mỹ mà người có đức tin sẽ sống bớt man rợ hơn, bớt phạm sai lầm hơn, bớt trả giá và bớt đau khổ hơn. Nếu có điều kiện làm một trắc nghiệm công phu trong các nhà tù nơi giam giữ những kẻ tội lỗi, tôi nghĩ rằng tỷ lệ người có tôn giáo, có đức tin luôn luôn là thấp.

Gần đây, trong các văn bản pháp lý có tính chính thống của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, của nhiều chính giới nước ngoài, đặc biệt là của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ người ta đều khẳng định về những tiến bộ về tôn giáo ở Việt Nam. Điều này theo tôi là chính xác. Nếu quan sát kỹ lưỡng cả một tiến trình lịch sử từ khi có tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam đặc biệt rõ với Thiên chúa giáo từ khi không dưới 30 vạn tín đồ phải tử vì đạo do chính sách bài Giatô của Tự Đức cho đến thời kỳ tôn giáo Mác - Lê - Mao tràn vào Việt Nam với các học thuyết vô thần của họ đã đẩy tất cả các tôn giáo vào một cái rọ duy tâm đáng nguyền rủa và đương nhiên rất nhiều đình, chùa, miếu mạo, thánh thất, nhà thờ đã trở thành trụ sở làm việc của UB, thành lớp học, thành nhà kho, thậm chí thành trại chăn nuôi. Tượng phật, tượng chúa bị đập phá, báng bổ và trôi sông. Người có đức tin bị mạ lị, bị phân biệt đối xử… đến nay từ những gì chúng ta đang quan sát thấy mà lại không cảm nhận được là đã có những tiến bộ thì đó là thái độ thiếu công bằng.

Nếu chỉ căn cứ vào những dấu hiệu có tính hình thức như giáo dân hành lễ ngày càng đông, các ngày lễ trọng của các tôn giáo như Nôen, phật đản, các hội hè truyền thống mang tính tâm linh của một cư dân lúa nước, cư dân nông nghiệp được tổ chức rất trọng thể và sự xuất hiện thường xuyên của những ĐBQH, các uỷ viên của MTTQ các cấp trong bộ cà sa màu vàng của phật giáo hay bộ trùng thâm của thiên chúa giáo đang trang trí cho các diễn đàn, các hội nghị mà nói rằng tự do tôn giáo ở Việt Nam có nhiều tiến bộ, nói thế tuy là đúng xong mới đúng ở 1/2 của những gì mà mọi người nhìn thấy. Vẫn còn đó 1/2 sự thật nữa còn bỏ ngỏ! Vậy 1/2 đó là sự thật gì? Đây là điều mà tôi hằng trăn trở và muốn luận bàn trong ghi chép này.

* * *

Tôi nghĩ rằng, chúng ta phải phân định rạch ròi hai vấn đề: Tự do tôn giáo và trách nhiệm của Nhà nước đối với tôn giáo. Nhà nước có trách nhiệm đối với tôn giáo chẳng khác gì Nhà nước có trách nhiệm với sự chấn hưng giáo dục, chấn hưng kinh tế. Rõ ràng là Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã có nhiều trách nhiệm hơn, có nhiều tiến bộ hơn về những việc này. Đây là một sự thật không thể phủ nhận. Nhưng có điều cũng rất đáng phải làm rõ là việc thực thi trách nhiệm khác xa với thực thi quyền tự do. Có thể nói không hề sai, tự do tôn giáo ở Việt Nam mới đạt được ở mức là tự do trong khuôn khổ của Nhà nước qui định. Thử hỏi tự do mà lại phải đặt trong khuôn khổ thì còn lại được bao nhiêu là tự do nữa. Trước khi vào vấn đề này, hãy thử nhìn vào mấy quyền tự do cơ bản khác mà nhiều thập kỉ rồi người dân đòi hỏi đã được Nhà nước đáp ứng đâu!

Một chút về tự do sáng tác:

Các văn nghệ sĩ hết sức bất bình trước qui định của Đảng: Văn hoá văn nghệ - văn học nghệ thuật phải phục vụ chính trị, phải có Đảng tính! Sau năm 1954, các văn nghệ sĩ rầm rộ đòi hỏi quyền tự do sáng tác. Đáp trả lại là vụ án xét xử bọn phản động trong nhóm nhân văn giai phẩm. Người đòi tự do sáng tác tuy đầu không rơi, máu không chảy những chết vô khối đấy. Có cái chết về thân xác, có người tuy không chết về thân xác thì cũng chết mỏi mòn vì cô đơn, vô vọng trong lao tù, trong phân biệt đối xử, trong tình trạng "Giấy bút của tôi bị người ta giằng mất!?" (Phùng Quán). Thật đáng buồn thay về cơ bản văn nghệ sĩ đã từng phải chấp nhận cúi đầu làm những kẻ minh hoạ xoàng xĩnh cho chính trị. Cuối cùng đến 1987 vì thời thế Đảng bất ngờ cởi trói cho văn nghệ sĩ. Như thế thử hỏi văn nghệ sĩ đã từng bị "Trói gô" thì còn đâu là tự do để sáng tác ra những kiệt tác xứng tầm thời đại, xứng tầm dân tộc. Chẳng trách nhà văn Nguyễn Khải một quan chức văn học, ĐBQH nhiều nhiệm kỳ trước phút lâm trung đã để lại những dòng chữ thật đớn đau:

"Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chẳng ai còn nhớ đến mình nữa. Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn chương phải chết. Tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân" (Đi tìm cái tôi đã mất- Nguyễn Khải). Bức tranh về tự do sáng tác cuối cùng lại là những dòng đau xót đến như vậy đấy.

Một chút về tự do ngôn luận và báo chí:

Không nói gì xa xôi, sau cú phản đòn PMU 18 được khởi động, khi ông lớn Bùi Tiến Dũng cùng đồng bọn thoát khỏi khung tham nhũng chỉ còn là những gã đánh bạc và thích sống thác loạn, sau khi ông lớn Nguyễn Việt Tiến sang trọng trong bộ comple đắt tiền bước lên xe hơi tiền tỷ lăn bánh ra khỏi nhà tù và nhanh chóng nhận lại thẻ đảng lại còn khụng khiệng đòi trả lại toàn bộ các chức danh!... thì sao quả tạ ập tới các nhà báo, các anh hùng chống tham nhũng. Nguyễn Việt Chiến báo Thanh Niên, Nguyễn Văn Hải báo Tuổi Trẻ lập tức xộ khám cùng lúc không dưới 7 ký giả khác bị tước thẻ hành nghề, nhiều tổng biên tập, phó tổng biên tập bị huyền chức, cách chức, người thì bị cảnh cáo như một anh binh nhì ngờ nghệch và dại dột (Tướng Phạm Xuân Quắc), người thì vào ngục thất như một gã tội phạm tầm thường (Thượng tá. Đinh Văn Huynh)… Tất cả cũng chỉ vì đã chót "Sớ rớ" vào những vụ việc chống tham nhũng ở cấp chóp bu. Khi vụ bắt giam vừa xảy ra, đọc những dòng tít cỡ lớn trên 2 tờ Thanh Niên và Tuổi Trẻ như: Phải trả tự do ngay cho những người vừa bị bắt giữ! Tôi cứ tưởng mình đang ngồi đọc báo dưới tượng thần tự do ở Mỹ quốc, hay lững thững thả bộ ở OasintonDC. Thật buồn chẳng lâu la gì ban tuyên giáo TW đã thổi còi với Chỉ thị: Báo chí phải đi đúng lề đường bên phải. Tức là nhà báo phải nhớ rằng các anh chỉ có mỗi một nhiệm vụ phục vụ Đảng, các anh là công cụ của chính quyền. Cũng thật đáng buồn hầu như toàn bộ giới cầm bút đã câm nín tức thì. Thật đúng là cảnh:
"Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Văn chương liều lĩnh đấm ăn sôi"
Dạ thưa chính cái mặt bằng tự do báo chí của chúng ta ở mức độ này nên chẳng ai còn có thể "Húng hắng" gì được nữa khi thế giới người ta xếp hoạt động báo chí, tự do báo chí của Việt Nam nằm ở tốp đội sổ về Đệ tứ quyền (thứ 169/173 tức là chỉ có trên được Congo, Camerun, Cu Ba và Myanma).

Một chút về tự do biểu tình:

Rõ ràng điều 69 đã qui định công dân Việt Nam có quyền biểu tình đấy nhưng nhớ là phải theo đúng qui định của Nhà nước. Biết rõ là như vậy ba chiến sĩ dân chủ ở Hải Phòng gồm Cựu chiến binh Vũ Cao Quận, Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nữ thanh niên Phạm Thanh Nghiên đã làm đơn xin UBND Hà Nội cho phép tổ chức một cuộc biểu tình ôn hoà nội dung chống tham nhũng, chống lạm phát và tăng giá. Nhà nước đã từ chối và không đưa ra một qui định nào. Ba chiến sĩ dân chủ làm đơn kiện UBND Hà Nội. Toà án cũng chối bỏ trách nhiệm phân xử. Một thời gian sau nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa bị tống giam ở B14, cháu Phạm Thanh Nghiên sau những ngày toạ kháng tại gia dưới 2 khẩu hiệu: "Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam" và "Phản đối công hàm 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng" đã bị bắt giam tại đề lao Hải Phòng. Cựu chiến binh Vũ Cao Quận vì bất đắc chí mà đột ngột ngã bệnh và đang được công an "Săn sóc" tại gia. Thế là: "Chút lòng khao khát… từ nay xin chừa".
Như vậy là tự do mà lại phải theo qui định là thứ tự do đồng nghĩa với số không tròn trĩnh.

Một chút về tự do tôn giáo:

Trước hết xin đặt ra một câu hỏi: Tự do tôn giáo là gì? Để tránh cái gọi là tự do vô chính phủ, quyền tự do nào cũng phải tuân thủ và tôn trọng những chuẩn mực đã ghi trong hiến pháp và pháp luật. Ở Việt Nam, người ta le lói nó ở cụm từ: Theo đúng qui định của Nhà nước. Vấn đề ở đây là qui định của Nhà nước có hợp với những chuẩn mực của thế giới văn minh không? Theo tôi tự do tôn giáo mà phải theo qui định như ở Việt Nam hiện nay thì sớm muộn lại quay về điểm xuất phát thôi. Điểm xuất phát đó là chẳng có gì, nếu có chút nào thì cũng là thứ tự do trong khuôn khổ nhất định. Một xã hội gọi là có tự do tôn giáo là xã hội biết tôn trọng các hoạt động thuần tính tôn giáo và phải coi tôn giáo là một thành phần không thể thiếu góp phần cấu thành nên đời sống tinh thần của cả dân tộc. Ngược lại về phía tôn giáo cũng phải biết tự chế theo các qui định của giáo luật, theo các qui định của hiến pháp của dân - do dân - vì dân chứ không phải kiểu qui định văn hoá văn nghệ phải phục vụ chính trị và báo chí phải đi đúng lề đường bên phải. Người có tôn giáo cũng như người không có tôn giáo đều phải biết kiểm soát hành vi của mình theo kiểu "Tôi có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và tôi không làm những gì mà pháp luật đã cấm".

Tự do tôn giáo còn thể hiện ở sự đảm bảo những quyền lợi của tôn giáo trong một đời sống thế tục. Trước khi được hưởng thụ những quyền về tự do tôn giáo, người có tôn giáo phải được hưởng đầy đủ những quyền đã qui định trong tuyên ngôn nhân quyền liên hiệp quốc, đã qui định trong các điều luật của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.

Trên đây chỉ là những lập lý mang tính lý thuyết mà:
"Mọi lý thuyết đều là màu xám
Còn cây đời là mãi mãi xanh tươi"
(Gớt)

Chúng ta cùng thử xem cây đời tự do tôn giáo ở Việt Nam qua một số hiện tượng gần đây.

Có thể gọi là có tự do tôn giáo được không khi các Hoà thượng và các Tăng sĩ của giáo hội PGVNTN thực thi Đức từ bi, thực thi Hạnh bố thí theo lời dạy của Đức phật trong việc cứu trợ dân oan mất đất, mất nhà vô lý đang gặp phải bao khốn khó trên con đường đấu tranh đòi công bằng…lại bị chính quyền và truyền thông kết tội phạm pháp và kích động dân oan! Thật khó mà chấp nhận được một xã hội dân sự, một xã hội công dân mà hành vi "Lá lành đùm lá rách", "Lá rách đùm lá nát" là độc quyền của Nhà nước! Các cá nhân, các tổ chức tôn giáo xin hãy vô cảm đứng ngoài. Nếu có động lòng trắc ẩn xin phải nhờ cậy qua cơ quan mặt trận.

Có thể gọi là có tự do tôn giáo được không khi nhìn vào những hiện thực u buồn đã từng diễn ra ở Toà khâm sứ cũ 42 Nhà Chung Hà Nội và giáo sứ Thái Hà những ngày vừa qua:

Nghĩ gì đây khi giáo dân tập trung cầu nguyện một cách ôn hoà ở những địa điểm còn tranh chấp đã bị chính quyền và truyền thông kết tội là tụ tập đông người gây mất trật tự công cộng! Khắc phục hiện tượng này không phải là đối thoại mà lại là CSCĐ, CS 113, là an ninh chính trị, là các hội đoàn quần chúng, là thanh niên tình nguyện thật - dởm, là dùi cui điện, là lựu đạn cay, là các loại chó nghiệp vụ và con cháu giáo dân bị thầy cô giáo đánh dấu vào sổ để theo dõi!

Nghĩ gì đây khi truyền thông báo chí vì quá say đòn, quá hăng máu, quá mẫn cán với công vụ mà quên cả liêm xỉ và tự trọng để cắt trích câu nói của Đức Tổng giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt chỉ để bảo đảm toàn thắng cho quyết tâm hạ gục các linh mục và giáo dân ở hai vùng đất tranh chấp này. Trong khi đó trước, trong và sau biến cố đất cát… những gì diễn ra cho mọi người thấy vị linh mục đó cũng không hề thua kém ai về lòng yêu nước, về trách nhiệm với giáo dân, trách nhiệm với giáo xứ.

Nghĩ gì đây khi mà 2 vùng đất tranh chấp đã trở thành 2 công viên cây xanh cho toàn dân thụ hưởng thì UBND Hà Nội họp báo quốc tế với những lời kết tội gay gắt giành cho các linh mục và giáo dân còn đức cha giám mục bị ghét bỏ tới mức "Xúc đất đổ đi" khi người ta ra lời kêu gọi đòi trục xuất ông ra khỏi lãnh địa Hà Nội. Chủ tịch thành phố đã hành xử như vậy, mọi người thật sự bất ngờ khi Thủ tướng vì một "Từ lực" nào đó cũng chẳng giám ứng xử khác đi một chút nào!

Nhân dân Việt Nam chưa quên ngày nào Thủ tướng hết sức bình tĩnh và oai vệ đứng bên Đức tổng giám mục Hà Nội cùng với giáo dân ở 42 Nhà Chung và ông đã hứa sẽ xem xét nguyện vọng của mọi người, chưa quên ngày nào ông hết sức lịch lãm trước Đức giáo hoàng lần ông viếng thăm Vatican. Tôi cảm thấy nhà lãnh đạo quốc gia có những dầy vò, trăn trở về những tồn tại đất đai có nguồn gốc lịch sử, nhưng ông cũng không đủ sức để vượt ra khỏi cái vế đối cũng chỉ ở bậc Cao đẳng mà Ngô Thì Nhậm đã mang ra để thanh minh cho việc ông ta bỏ nhà Lê để phò Tây Sơn ngày Nguyễn Ánh lấy lại được Thăng Long:
"Thế chiến quốc, thế Xuân Thu
Tuỳ thời thế thế thời phải thế"

Nếu sự thật là như vậy, hoá ra ngay cả Thủ tướng cũng chưa từng được nếm cái vị ngọt ngào của hai chữ Tự Do. Thủ tướng còn phải "Đi theo lề đường bên phải!" thì thử hỏi giáo dân, dân oan, thảo dân, tiện dân, phó thường dân… làm sao mà được hưởng "Tự do hai tiếng ngọt ngào".

Gần đây tôi thấy chính quyền rất dị ứng với các hoạt động tôn giáo ở ngoài các linh địa thuộc về tôn giáo. Ví dụ: Các hoạt động cứu trợ dân oan của các Hoà thượng Thích Quảng Độ, Hoà thượng Thích Không Tánh cùng các Tăng sĩ GHPGVNTN, các hoạt động thăm hỏi giáo dân ở các linh địa tôn giáo còn tranh chấp. Thực ra không phải chỉ là dị ứng, các hoạt động cứu trợ nhân đạo thuần tính tôn giáo đó đã bị chụp mũ, bị kết tội rất thô bạo là: Đã có những hoạt động tôn giáo không đúng nơi qui định. Thậm chí còn bị hàm oan là có những tham vọng chính trị, là cơ hội, là kích động dân oan, kích động giáo dân đấu tranh với chính quyền.

Vậy sẽ giải thích thế nào về chuyện hoá thân vì đạo pháp giữa đường phố Sài Gòn (năm 1963) của cố Hoà thượng Thích Quảng Đức để phản đối chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm. Hành vi tôn giáo đó rất dữ dội và quyết liệt đâu có diễn ra trong khuôn viên nhà chùa. Tại sao không hề thấy chế độ chính trị nào ngày đó cả miền Bắc cả miền Nam lên án đó là hoạt động tôn giáo không đúng nơi qui định. Hành động tử vì đạo pháp của Hoà thượng Thích Quảng Đức đã góp phần làm sụp đổ chế độ Ngô Đình Diệm lại không phải là tấm gương ngời sáng biểu trưng cho con đường dấn thân nhập thế, con đường tôn giáo đồng hành cùng dân tộc hay sao.

Gần đây tôi thấy người ta rất muốn tôn giáo đứng ngoài các bức xúc đời thường. Họ chỉ muốn tất cả các tôn giáo có mặt ở Việt Nam như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hoà Hảo,… phải cùng đắp chung chiếc chiếu yếm thế, xa rời đời sống thế tục. Vậy chúng ta nghĩ gì về lời dạy của Đức phật:
"Muốn trồng cây Bồ Đề
Hãy năng nhặt loài cỏ dại"


Nói: Tôn Giáo là phải đứng ngoài những chuyện thế thái nhân tình là làm méo mó con đường Bồ Đề, con đường Thánh Giá. Tôi nghĩ rằng nội dung của Thư chung "Sống phúc âm trong lòng dân tộc" đã bị hiểu sai, giải thích sai và vận dụng rất lệch lạc bởi những cái đầu có não trạng không ổn. Sống phúc âm không là sống ù lì, sống yếm thế, sống thụ động, sống vô cảm, sống vô trách nhiệm trước nỗi đau chung của dân tộc. Chính vì vậy có thể nói rằng, quan hệ giữa tôn giáo và chính quyền bấy lâu nay luôn tồn tại những bất ổn theo kiểu "Đồng sàng - dị mộng". Nói rằng: Tự do tôn giáo ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ là rất đúng, song mới đúng được 1/2 sự thật.

* * *

Tôi viết những dòng cuối cùng của ghi chép này vào lúc Đức tổng Giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt sau những ngày ông lội nước đi thăm hỏi dân chúng vùng lụt lội, Ông đã gửi lên mạng thông tin toàn cầu lời kêu gọi tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn vì lụt lội giữa lòng Hà Nội. Không biết chính quyền và truyền thông một chiều bên phải có kết tội Ông là hành đạo không đúng nơi qui định nữa không? Cũng lúc này, ngài UVBCT, bí thư thành uỷ Hà Nội, tiến sĩ Phạm Quang Nghị còn đang bận gửi lời xin lỗi nhân dân vì những phát ngôn quá vội vã và có phần bất nhẫn của Ông.

Xung quanh vấn đề tôn giáo, tôi chưa thể quên những gì mà Nguyễn Ái Quốc đã từng viết khi ông còn đứng vững trên mảnh đất của Chủ nghĩa yêu nước thuần tuý. Khi đó, ông đã từng bộc bạch đại ý: "Thích ca mâu ni, Giêsu, Khổng Tử, Tôn Dật Tiên là các bậc chí thánh. Các vị đó cả đời phấn đấu để mang lại cuộc sống hạnh phúc an hoà, công bằng và yêu thương cho nhân loại. Tôi xin nhận làm học trò nhỏ của các vị". Khi Nguyễn Ái Quốc chính thức trở thành người của Quốc tế Cộng sản, đặc biệt từ khi ông du nhập Học thuyết Mác - Lê vào Việt Nam, người ta không còn thấy ông và những người Mác xít Việt Nam nhắc lại những lời thể tình thật khiêm nhường và chí lý đó nữa.

Hôm nay khi những gì mà tôi nghĩ rất không bình thường đang như một áp lực rất xấu tác động tới đời sống đương đại của chúng ta như: Một nền kinh tế phát triển ở tốp cuối cùng của khu vực và thế giới, một nền tảng đạo đức xã hội đang có nhiều băng hoại, một môi trường sống ngày càng xuống cấp về mọi mặt, một tình trạng tham nhũng tràn lan đến báo động, một lãnh thổ đang bị ngoại bang gặm nhấm và một niềm tin vào con đường mà Đảng Cộng sản lựa chọn đã lung lay… để cứu vãn người ta đã đặt cọc vào những cuộc thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tôi đã thấy những giọt nước mắt của người kể chuyện và cả người nghe chuyện. Tôi đã thấy những nụ cười rạng rỡ của người thắng và cả kẻ thua trong các cuộc sinh hoạt chính trị tư tưởng đặc biệt này. Tôi đã được nghe những lời chúc tụng, những lời động viên biểu dương nhau của các "Nghệ sĩ" phải nói là siêu hạng về kỹ thuật trình diễn, kỹ sảo thể hiện, về các độc chiêu chỉ cần những chuyện hết sức dông dài đời thường họ vẫn có thể làm rúng động lòng người. Người ta muốn kiếm tìm sự giải thoát hiện hữu nhờ hình bóng và hơi hướng của một con người cũng rất trần gian và thế tục đã đi xa. Nhưng than ôi! Chúng tôi chưa quên những sinh hoạt tư tưởng tương tự như thế này đã từng diễn ra trong quá khứ, khi cả nước rỉnh rảng chuyện đón rước và diễu hành đuốc lửa Hồ Chí Minh. Vậy mà cả nước vẫn cứ đắm chìm mãi vào suy thoái và khủng hoảng cho dù "Đổi mới hay là chết" đã được phát động từ hơn hai mươi năm có lẻ rồi. Phải chăng các tư tưởng gia, các nhà tổ chức, các "nghệ sĩ" của chúng ta đã không thành tâm mà trình diễn, đã không thành kính mà đưa rước đuốc lửa được châm từ bàn thờ dòng họ Nguyễn Sinh… ở làng Sen! Phải chăng người ta chỉ muốn các thần dân học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thôi còn họ có quyền dửng dưng, cười khẩy và làm ngược lại.
Hôm nay, sau những gì đã xảy ra với GHPGVNTN, với Toà khâm sứ cũ 42 Nhà Chung và Giáo xứ Thái Hà Hà Nội không biết ở thế giới bên kia cụ Hồ Chí Minh đã nói gì với cụ Các Mác và cụ Lê nin về những hậu duệ của mình đã hành xử với tôn giáo lúc này 2008 mà y trang kịch bản của chuyên chính vô sản, của bạo lực cách mạng, của đấu tranh giai cấp! Tôi tin rằng sẽ đến lúc cụ Hồ Chí Minh sẽ gặp và thể tình tất cả với Thích Ca Mâu ni, với Giêsu, với Khổng Tử, với Tôn Dật Tiên những bậc chí thánh mà ông đã từng tôn vinh là những bậc thầy khi ông là người Việt Nam yêu nước nồng nhiệt.

Nếu điều đó xảy ra, chắc chắn mọi người sẽ được nghe những lời cứu rỗi, sẽ được nhận ơn Từ Bi là vô lượng, Hỉ sả là vô biên của Đức Phật, sẽ được nghe lời của Thiên Chúa "…đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn u sầu" (Kinh Hoà Bình - Thánh Phanxico), sẽ được thụ giáo những bài học làm người của Đức Khổng Tử, sẽ được giáo hoá bởi Chủ nghĩa Tam Dân (Dân sinh - Dân chủ - Dân quyền) của lãnh tụ Tôn Dật Tiên. Với những gì đã diễn ra không biết câu chuyện về tự do tôn giáo ở Việt Nam đến bao giờ mới thực sự là một sự thật mà tất cả mọi người Việt Nam ở trong nước cũng như ở ngoài nước đang chờ mong. Một sự thật tiến bộ đặng góp phần cho Tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam thực sự cất cánh.

Thành phố Hà Đông ngày hiến chương các nhà giáo 20-11-2008.
Nguyễn Thượng Long

- Nguyên giáo viên địa lý thuộc GDĐT Hoà Bình và Hà Tây
- Nguyên Thanh tra GD Sở GDĐT Hà Tây (cũ)
- Chỗ ở: Thôn Văn La - phường Phú La - TP.Hà Đông- HN
- ĐTNR: 04.33 521.066
- DĐ: 095.3298.198
Email: NGUYEN THUONG LONG 571@ gmail.com

No comments: