05/12/2015
Từ
hai vụ án của ông Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn đã thực tế chứng minh được
sai phạm của cơ quan điều tra gần đây, đến những vụ án dang dở còn nhiều nghi vấn
của tử tù Lê Văn Mạnh, Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng, hay vụ án của blogger Ba
Sàm – Nguyễn Hữu Vinh đang chờ xét xử, chúng ta thường nghe nói đến hiện tượng
vi phạm tố tụng ở cơ quan tiến hành tố tụng. Vậy, những vi phạm tố tụng nào
đang diễn ra trong các vụ án này?
Thuật
ngữ “due process” là một khái niệm quan trọng trong quy trình tố tụng của hầu hết
các quốc gia trên thế giới, tiếc rằng ở Việt Nam, nó vẫn còn mới mẻ, chưa được
chính thức hóa. Khi chuyển ngữ sang tiếng Việt, có người gọi due process là
“pháp trình chính đáng”, cũng có người dịch thành “trình tự tố tụng chuẩn”, “tiến
trình tố tụng chuẩn”; bài này tạm thống nhất cách gọi là “chuẩn mực tố tụng”.
Chuẩn
mực tố tụng – điều không thể thiếu để tránh oan sai
Tố tụng
theo chuẩn nghĩa là tố tụng tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc, trình tự và
thủ tục đã được thiết lập sẵn, nhằm đảm bảo bị can, bị cáo nào cũng luôn được
xét xử công bằng. Theo đó, không một bị cáo nào bị trừng phạt, xử lý hình sự mà
không thông qua những thủ tục chặt chẽ và thích đáng, áp dụng đồng nhất cho tất
cả các vụ án. Về nguyên tắc, mọi nghi phạm đều:
– có quyền
được xét xử bởi một tòa án công bằng, vô tư, không thiên vị, không định kiến;
– có
quyền được thông báo trước về mọi diễn biến trong tiến trình xét xử;
– có
quyền được trình bày (kể cả quyền đưa ra bằng chứng, quyền mời nhân chứng), được
lắng nghe, được tự bảo vệ mình;
– có
quyền được luật sư bào chữa; quyền được đối chất và kiểm tra chéo nhân chứng;
– quyền
bác bỏ/ phủ nhận/ không phải khai những điều bất lợi cho chính mình (tức là những
lời khai chống lại chính mình, những lời tự nhận tội, thú tội);
– và nếu
bị kết tội thì tội đó phải được chứng minh bằng những bằng chứng vượt khỏi sự nghi
ngờ hợp lý (tức lý lẽ, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội hoàn toàn
đầy đủ, thuyết phục, khiến cho không còn “nghi ngờ hợp lý” nào về sự vô tội của
bị cáo).
Sở dĩ
phải có chuẩn mực tố tụng, là bởi vì nền tư pháp phương Tây mặc định rằng tòa
án không bao giờ có thể đảm bảo không ra phán quyết sai lầm. Trong mọi vụ án, kết
quả tốt nhất luôn là kẻ có tội sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, công
lý được thực thi; nhưng nếu không làm được điều đó thì tòa cũng phải đạt được
giải pháp tối thiểu, là không để xảy ra oan sai. Do vậy, cơ quan tiến hành tố tụng
(gồm cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc công tố, tòa án) phải đảm bảo chuẩn mực
tố tụng, “due process”.
Chuẩn mực
tố tụng thường được cụ thể hóa trong luật pháp của mỗi nước. Ở Mỹ, Tu chính án
số 5 và số 14 của Hiến pháp Mỹ quy định: “Không ai có thể bị tước đoạt mạng sống,
tự do thân thể, hay tài sản, mà không thông qua chuẩn mực tố tụng trong luật
pháp…”, “Nhà nước cũng không được phép tước đoạt mạng sống, tự do thân thể, hay
tài sản của bất cứ ai mà không thông qua chuẩn mực tố tụng trong luật pháp…”.
Dù chưa
có khái niệm tương ứng trong tiếng Việt, nhưng chuẩn mực tố tụng cũng được học
tập và thể hiện khá rõ ràng trong luật pháp Việt Nam, thông qua Bộ luật Tố tụng
Hình sự.
Tuy
nhiên, dù các quy định pháp lý xây dựng chuẩn mực tố tụng tương đối đầy đủ, hầu
hết các vụ án oan sai tồn tại ở Việt Nam vẫn do cơ quan điều tra và cơ quan
công tố đã không tuân thủ đúng chuẩn mực đặt ra, chẳng hạn: Không cho bị can, bị
cáo gặp luật sư sớm; sử dụng bức cung, nhục hình; kết tội chỉ dựa vào lời khai
(do bị ép cung) của bị can, bị cáo… Nói cách khác, hầu hết các án oan sai được
phát hiện xuất phát từ việc cơ quan tiến hành tố tụng vi phạm chuẩn mực tố tụng
quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Làm
sai lệch hồ sơ vụ án – từ vụ án Nguyễn Thanh Chấn đến vụ án Hồ Duy Hải
Sau hơn
10 năm phải ngồi tù oan vì tội danh giết người, ông Nguyễn Thanh Chấn đã chính
thức được trả tự do vào năm 2014. Trước đó, cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát
Nhân dân Tối cao vào cuộc và xác nhận hai cá nhân trực tiếp thực hiện quá trình
điều tra – ông Trần Nhật Luật, nguyên Phó trưởng Công an huyện Việt Yên, người
trực tiếp điều tra vụ án và ông Đặng Thế Vinh, Kiểm sát viên, trực tiếp thực
hành quyền công tố kiểm sát điều tra vụ án – đã làm sai lệch hồ sơ vụ án. Cụ thể
hành vi làm sai lệch hồ sơ vẫn còn đang được xác minh.
Trong vụ
án Hồ Duy Hải, vấn đề về sai lệch hồ sơ vụ án cũng được giới chuyên gia đánh
giá là nghiêm trọng.
Ảnh: Hoàng Phương/ Thanh Niên.
Biên bản
giám định của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Long An kết luận: “Các dấu vết
vân tay thu được tại hiện trường vụ án ngày 14/1/2008 tại Bưu cục Cầu Voi…
không phát hiện trùng với điểm chỉ 10 ngón in trên chỉ bản của Hồ Duy Hải”. Những
dấu vân tay đó của ai thì cơ quan điều
tra không xác minh được.
Cái mà
cơ quan điều tra cho là hung khí cũng biến mất khỏi hiện trường vụ án. Nhân chứng
Nguyễn Văn Thu ra chợ mua một con dao nộp
cho Ban Công an xã và khẳng định “nó giống với con dao đã mất” tại hiện trường
(21/3/2008). Về sau, con dao này được Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Long An sử dụng
để truy tố Hồ Duy Hải về hành vi giết người.
Đó là sự
vi phạm quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, ngay từ định nghĩa về vật chứng
(Điều 74).
Bức
cung, nhục hình: Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Văn Chưởng
“Người
tù thế kỷ” Huỳnh Văn Nén vừa được trả tự do trong tháng 10 năm 2015 sau 17 năm
tù tội là một minh chứng rõ ràng cho vấn nạn bức cung nhục hình trong phương
pháp chứng minh của cơ quan điều tra Việt Nam. Trong vụ án này, việc thu thập
chứng cứ bỏ qua quá nhiều chứng cứ quan trọng; thậm chí lời khai nhận tội của
ông Nén không hề trùng khớp với hiện trường và biên bản khám nghiệm tử thi; mâu
thuẫn hoàn toàn với lời khai của các nhân chứng. Có lần ngay tại phiên tòa, ông
Nén đã cởi áo để chỉ các dấu vết ông bị đánh đập để ép buộc nhận tội.
Vụ án của
tử tù Nguyễn Văn Chưởng cũng phát sinh những vấn đề tương tự. Năm 2009, anh Chưởng
đã gửi thư cho mẹ và gia đình, tường thuật lại toàn bộ vụ việc, khẳng định Chưởng
đã bị tra tấn, ép cung nên mới phải nhận tội.
Không
chỉ có tử tù Nguyễn Văn Chưởng cáo buộc bị cơ quan điều tra đánh đập, mà nhân
chứng Trần Quang Tuất – người từng xác nhận Chưởng có bằng chứng ngoại phạm –
cũng phản ánh việc bị công an tra tấn, ép cung: “Tôi bị các anh công an dọa nạt,
chửi bới, có lúc khóa tay vào ghế, đấm vào đầu, dọa bắt giam tôi… suốt cả ngày
làm việc các anh công an luôn bắt ép tôi phải viết là: Không nhớ rõ thời gian gặp
Chưởng, và việc tôi làm giấy xác nhận để gửi cho cơ quan công an [trước đó] là
do tôi nhớ nhầm…” (18/4/2013).
Trong
khi đó, một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng Hình sự đã là
“nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình” (Chương II), vốn vô cùng cơ bản
trong chuẩn mực tố tụng.
Kết
tội chỉ dựa vào lời khai – tiền lệ điều tra cho đến vụ án Lê Văn Mạnh
Mẹ và con trai tử tù Lê Văn Mạnh với chiếc áo
in lá thư mà Lê Văn Mạnh gửi từ trong tù ra. Nguồn: Facebook Vụ án tử tù Lê Văn
Mạnh.
Nguồn
ảnh: FB tử tù Lê Văn Mạnh
Việc cơ quan điều tra tại Việt Nam kết luận hành vi phạm tội của một bị cáo dựa trên lời khai của bị cáo này, sau đó vẽ lại tiến trình thực hiện hành vi mà ít khi được củng cố bởi các chứng cứ hiện vật, khoa học, đã trở thành một tiền lệ quen thuộc đến nguy hiểm tại một số cấp điều tra, biểu hiện ở hầu như tất cả các vụ án đã được nhắc đến ở trên.
Trong vụ
án Lê Văn Mạnh (2005), tất cả chứng cứ kết án Lê Văn Mạnh đều là lời khai của bị
cáo cùng một bức thư “nhận tội” bị cáo gửi ra ngoài cho gia đình trong thời
gian bị tạm giam. Điều này vi phạm quy định tại Điều 72 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
“Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội”.
Vụ
Ba Sàm: Sai phạm trong quy trình khám xét, thu thập vật chứng
Hai
blogger Nguyễn Hữu Vinh (tức Ba Sàm) và Nguyễn Thị Minh Thúy đang chờ xét xử.
Đây cũng là một vụ án mà cơ quan điều tra – một bên tham gia tiến trình tố tụng
– có nhiều sai phạm, vi phạm chuẩn mực tố tụng.
Nguyễn Hữu Vinh (tức Ba Sàm)
Chẳng hạn,
ngay việc “bắt khẩn cấp” ông Vinh và bà Thúy vào ngày 5/5/2014 đã có vấn đề. Bộ
luật Tố tụng Hình sự chỉ cho phép bắt khẩn cấp khi:
a) có
căn cứ để cho rằng người bị bắt đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
b) Khi
người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và
xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc
người đó trốn.
c) Khi
thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện
tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng
cứ.
Trên thực
tế, ông Vinh và bà Thúy bị cáo buộc vi phạm Điều 258 Bộ luật Hình sự, đây không
phải là tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Hai người bị bắt khi
đang ở nhà, không có ai trông thấy, và cả hai cũng không hề có hành vi bỏ trốn.
Nguyễn Thị Minh Thúy
Do vậy,
có thể cho rằng ông Vinh và bà Thúy bị bắt khẩn cấp vì rơi vào trường hợp c), tức
là “có dấu vết của tội phạm ở người hoặc chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội
phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ”.
Nhưng chứng cứ để cáo buộc lại là những bài viết trên Internet, do Cơ quan An
ninh Điều tra truy cập và in ra từ máy tính của ông Vinh khi… không có mặt ông
hay người nhà của ông ở căn phòng đó. Việc này vi phạm Bộ luật Tố tụng Hình sự
(liên quan đến thu thập, xử lý, bảo quản vật chứng), vì thế, chứng cứ ấy cũng
không hợp lệ.
Câu hỏi quan trọng đặt ra là, vì sao với những
chuẩn mực tố tụng trong pháp luật hình sự Việt Nam được quy định chi tiết, các
sai phạm vẫn lọt qua được sự kiểm tra của viện kiểm sát, tòa án và từ đó dẫn đến
oan sai. Có thể là sự thiếu vắng luật sư ngay từ khi can phạm bị khởi tố, sự bị
động của tòa trong suốt tiến trình diễn ra vụ án và còn quá lệ thuộc vào hai cơ
quan công tố cũng như hậu quả của việc vi phạm chuẩn mực tố tụng đối với các cá
nhân thực hiện còn ở mức “rung cây nhát khỉ”. Đây là những điều mà pháp luật Việt
Nam đang dần buộc phải sửa đổi, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến bị cáo, mà còn
đe dọa nghiêm trọng đến niềm tin của công chúng vào hệ thống tư pháp.
No comments:
Post a Comment