Wed, 09/30/2015 - 07:28 — tuongnangtien
Võ Phiến (1925 -
2015)
L.T.Đ: Từ California, nhà văn Phạm
Xuân Đài vừa cho biết một tin buồn:
“ Võ Phiến đã qua đời vào lúc 7 giờ tối
ngày 28 tháng Chín, 2015, tại Advanced Rehab Center of Tustin, Santa Ana, thọ
90 tuổi...
Nhà văn Võ Phiến là một tác giả quan
trọng của văn học Việt Nam từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Trước 1975 ông là công chức
thuộc bộ Thông Tin của Miền Nam, và đã cộng tác với tạp chí Bách Khoa cho đến
1975 với bút danh Tràng Thiên (một bút danh chung cho nhiều tác giả, nhưng từ
sau 1965 hầu như chỉ dành cho một mình ông). Ông sang Hoa Kỳ từ 1975 và làm việc
cho tòa Hành Chánh quận Los Angeles, California cho đến ngày về hưu. Tại hải
ngoại, ông vẫn tiếp tục viết sách và cộng tác với các tạp chí văn học. Từ cuối
thập niên 1970 ông đã chủ trương tờ Văn Học Nghệ Thuật, là tiền thân của tạp
chí Văn Học sau này.
Võ Phiến là một tác giả đa dạng. Ông
viết truyện ngắn, truyện dài, tạp luận, tùy bút, lý luận và phê bình văn học.
Các tác phẩm đã xuất bản của ông gồm có, về truyện ngắn và tiểu thuyết: Chữ
Tình, Người Tù, Mưa Đêm Cuối Năm, Về Một Xóm Quê, Đêm Xuân Trăng Sáng, Giã Từ,
Thương Hoài Ngàn Năm, Thư Nhà...; về tùy bút, tạp bút: Tạp bút I, II, III, Đàn
Ông, Ảo Ảnh, Phù Thế, Chúng Ta Qua Cách Viết, Đất Nước Quê Hương, Tùy bút I,
II, Đàm Thoại v.v... Tại hải ngoại, ông đã bỏ công sức trong nhiều năm trời để
soạn bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan nhằm lưu giữ nền văn học miền Nam đã bị Cộng
Sản thiêu hủy từ sau 1975.”
Để tưởng niệm một vì sao vừa khuất, chúng
tôi xin trân trọng giới thiệu một tuỳ bút tiêu biểu của ông. Bài viết
này được trích từ tập Đất Nước Quê Hương, do nhà Lửa Thiêng xuất bản
lần vào năm 1973.
Tưởng
Năng Tiến
*
Ông Bình Nguyên Lộc quả quyết rằng trong một bàn ăn
mười ba người, gồm mười hai người Việt và một người Hoa, đồng vóc dáng, đồng
trang phục, ngồi im không nói, ông cũng phân biệt được kẻ Việt người Hoa.
Như vậy đã là tài, nhưng ông còn đi xa hơn: có thể
nhìn hình dáng mà phân biệt được người Tàu Phúc Kiến với người Tàu Quảng Ðông,
người Tàu tỉnh này với người Tàu tỉnh khác.(1)
Cũng trong quán ăn, trong khi chờ đợi tô hủ tiếu,
tôi có dăm ba lần theo dõi cử chỉ của người làm bếp, và chợt lấy làm ngạc nhiên
về một nhận xét. Không phải ngạc nhiên về chuyện suy tưởng nhân chủng ưa liên
quan với các tiệm ăn quán nhậu. Mà là vì tôi có cảm tưởng đôi khi có thể nhìn
mà phân biệt một người Việt miền Nam với một người Việt miền Trung, tức một đồng
bào ở miền ông Bình Nguyên Lộc với một đồng bào ở miền tôi. Nói cách khác, tôi
có cảm tưởng mình cũng... tài giỏi như ông Bình Nguyên Lộc: cái mới kỳ cục!
Một buổi trưa, tại Cần Thơ, trong ngôi quán ở đầu một
ngõ hẻm gần bến xe Lam, lần đầu tiên tôi chú ý đến điệu bộ có vẻ ngộ nghĩnh của
người chủ quán.
Ngôi quán khá chật và tối. Giữa trưa, trong quán vẫn
có ngọn điện vàng cạch thả toòng teng trên đầu người chủ. Người này mặc mai-ô
quần lính, đầu đội chiếc mũ địa phương quân rộng vành, chân mang đôi giày da
đen, không vớ. Tại sao phải giày và mũ trong một chỗ kín như thế? Có thể chỉ là
một thói quen, hay chỉ là một trường hợp ngẫu nhiên nào đó, tức một chi tiết không
có ý nghĩa gì. Tuy vậy tôi vẫn ghi lại, vì hình ảnh ấy tưởng còn hiển hiện trước
mắt tôi lúc này. Hình ảnh một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, và làm việc hào hứng.
Mỗi người có một cách biểu lộ sự hào hứng. Riêng cái
cách của người chủ quán hôm ấy, trời ơi, trông mà mê. Hai tay ông ta thoăn thoắt:
chặt khúc xương, xắt lát thịt, gắp mớ ớt, múc vá nước từ trong thùng đổ ra tô,
xóc xóc mớ hủ tiếu vừa mới trụng qua nước sôi, rắc một tí tiêu bột v.v. Tất cả
bấy nhiêu cử chỉ đều rập ràng, hơi có vẻ nhún nhẩy. Mỗi cái quơ tay, cái nhấc
lên hạ xuống đều như có gì quá mức cần thiết một chút. Mỗi cử chỉ bao hàm bảy
tám phần cần thiết, lại thêm vài ba phần thừa thãi, chỉ để cho đẹp mắt, để biểu
diễn sự thích thú trong công việc. Ðộng tác nghề nghiệp gần chuyển thành sự múa
men. Một điệu vũ ca ngợi lao động.
Ðứng bên chủ quán là bà vợ, tôi đã tưởng bà làm công
việc chạy bàn. Nhưng không: Lúc một cậu bé gầy gầy cưỡi chiếc xe đạp vụt về trước
cửa, xách vào cục nước đá, thì đã rõ đây mới là người chạy bàn chính thức; người
đàn bà chỉ tạm thời thay thế cậu ta trong chốc lát.
Khi đã đủ một vợ một con bên mình, chủ quán điều động
càng hào hứng:
- Bàn trong. Một nhỏ một lớn. Rồi! Bưng.
- Bàn ngoài, số một. Tô lớn, khô. Rồi! Bưng, bàn số
một.
- Bàn số ba tính tiền. Tám chục với ba lăm là trăm
mười lăm. Trăm mười lăm với tám đồng là trăm hăm ba. Trăm rưởi trừ trăm hăm ba,
còn lại...
Bà vợ nhắc:
- Hăm bảy.
- Hăm bảy. Nè!
Ông ta đưa món tiền lẻ, cậu con mang ra cho khách. Rảnh
tay, ông ta chặt một miếng cánh gà, nho nhỏ, quăng gọn vào mồm, nhai. Lại nhanh
nhẹn chặt luôn miếng khác, trao cho vợ. Người đàn bà thụt né vào sau cánh cửa;
ăn xong lại ló ra, sẵn sàng...
- Tô nước, tô khô. Bàn số hai. Rồi!
Cứ thế, chủ quán làm việc, cắt đặt công việc, điều
khiển vợ con v.v., điệu bộ vẫn lại cứ như có gì thừa thãi một chút. Bảy tám phần
cần thiết, đôi ba phần để bày tỏ sự hài lòng, để biểu diễn sự hoạt động ăn khớp
của một tổ chức hoàn hảo, một bộ máy hợp khuôn rập, chạy đều ro ro.
Vừa rồi có lẽ đã có sự lạm dụng: hầu hết mỗi câu nói
của người chủ quán đều có một tiếng “rồi”. Nếu tôi ghi nhớ sai, ấy là vì đã quá
chú ý đến tiếng đó. Nhưng hay nhất, ngộ nhất lại là cái tiếng “rồi” tưởng tượng
phát ra từ mỗi cử chỉ. Mỗi cử chỉ - ngắt cọng rau, xóc mớ hủ tiếu v.v. - đến chỗ
sau cùng thường được gằn mạnh. Như thể một tiếng “rồi” phát ra bằng động tác
thay vì bằng âm thanh: Một tiếng câm.
Dầu sao lần ấy tôi không có một đối tượng quan sát
im lặng như ông Bình Nguyên Lộc; nhưng các lần sau này thì họ im lặng.
Sau buổi trưa ở Cần Thơ, về Sài Gòn những lần vào
quán hủ tiếu, tôi sực nhớ hình ảnh nọ, và tò mò nhìn theo chủ quán: thỉnh thoảng
lại gặp những điệu bộ ấy. Có khi ở một người đàn bà, có khi ở một người đàn ông
đứng tuổi. Họ nhanh nhẹn, mau mắn; nhưng cái đặc biệt là, trong cử chỉ, họ như
muốn nhấn mạnh vào tính cách toàn hảo của những hoạt động rập ràng mau mắn ấy.
Những người ấy họ có cung cách làm việc giống nhau.
Cung cách ấy, gọi nó ra sao? Tôi tìm một chữ để diễn tả. Tôi loay hoay tìm kiếm...
A! Ðây rồi: “Rụp rụp”! Họ làm việc “rụp rụp”.
Chữ nghĩa sao mà thần tình. Lại chính là một tiếng địa
phương ra đời ở miền Nam này. Thế mới biết sự xuất hiện của một tiếng nói mới
không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên, không lý do. Phải có một thực tại mới, đòi
hỏi được mô tả sát đúng. Phải có một sự cần thiết réo gọi nó, đích danh nó.
“Rụp rụp” là một đáp ứng tài tình cho một đòi hỏi
như thế. Làm rụp rụp không phải chỉ là làm mau mắn, mà còn với một vẻ hứng chí
trong sự mau mắn.
- Nhưng tại sao lại bảo đó là của miền Nam? Ðâu phải
người nào trong Nam cũng làm việc rụp rụp?
- Tất nhiên đó không phải là tác phong của toàn thể.
Cũng không thể nào biết được là tác phong của một tỉ lệ người Nam lớn nhỏ ra
sao. Có điều tác phong ấy không gặp thấy ở các miền ngoài. Vả lại, còn có chuyện
khác...
- Nào, xem chuyện khác có gì rõ rệt hơn chăng.
Trong một bài tục ca của Phạm Duy, có câu: “Người
dân nhìn thoáng hết hồn luôn”, lại có câu: “Lệch đi thì chết, cấm sờ luôn”. Những
tiếng “luôn” dùng kiểu đó không có trong ngôn ngữ các miền
ngoài.
Cũng thế, ở ngoài Trung mỗi khi xe đò dừng lại dọc
đường, hành khách lên xe xong, anh “ết” hô to cho tài xế nghe: “Chạy!”; ở trong
Nam, anh ta hô: “Chạy luôn!”.
Tại sao lại luôn? Những tiếng “luôn” ấy
không có nghĩa, nhưng dĩ nhiên không phải không có công dụng. Trái lại, công dụng
đó thường khi khiến nó còn được xem trọng hơn những tiếng có nghĩa rõ rệt đứng
trước nó. Chẳng hạn trong trường hợp “chạy luôn”: tiếng “chạy” hô phớt qua, tiếng
“luôn” được gằn mạnh. Người ta nghe “Ch... luôn!”; có khi chỉ nghe có một tiếng
“Luôn!”.
Không chừng đó cũng là trường hợp đã xảy đến cho tiếng
“vô”. Mời nhau uống rượu, anh em hô: “Dô!” Có lẽ thoạt tiên là tiếng “nhậu vô”,
“uống vô” chăng? Dần dần tiếng trước bị lướt phớt qua rồi bị bỏ rơi. Chỉ còn lại
tiếng sau; từ một tiếng trợ từ, nó tiến lên nhận lấy cái nghĩa của các tiếng nhậu,
uống.
Trong “chạy luôn”, nghĩa ở tiếng chạy; trong “hết hồn
luôn”, nghĩa ở hết hồn; trong “nhậu vô”, nghĩa ở nhậu v.v. Còn tiếng “luôn”? Nó
thêm vào một thái độ phát biểu, không thêm gì vào cái ý nghĩa đã phát biểu.
Trong “chạy luôn” chẳng hạn, “luôn” là một tiếng kêu hơn là một tiếng nói: nó
phát lên để tỏ thái độ thúc giục, nó không nói gì về cái nội dung của sự thúc
giục ấy. Nó có công dụng về ngữ khí, chứ không phải về ngữ ý.
Như vậy trong cách nói này cái nội dung, cái cần thiết,
đôi khi bị lướt qua; cái phụ, có phần thừa thãi, lại được nhấn mạnh.
Lại cái thừa thãi.
Trong cử chỉ, một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết;
trong lời nói, cũng một chút gì thừa, vượt quá sự cần thiết. Cử chỉ và lời nói
đều được phóng đại lên...
- Vẫn không có gì rõ rệt.
- Không rõ, về mặt nào?
- Một dấu hiệu để phân biệt bản sắc địa phương như vậy
không mấy cụ thể.
- Thực ra ở đây vấn đề không phải là đi tìm một dấu
hiệu phân biệt. Cái đó đâu cần tìm kiếm nữa? Ðã có sự khác nhau thật rõ ràng,
thật cụ thể, ấy là cái chỉ số sọ của ông Bình Nguyên Lộc: cuộc di cư của nhóm
Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Ðịch làm cho đồng bào ta ở miền Nam có xương sọ hơi
dài thêm.(2) Kẻ Nam người Bắc tha hồ yên lặng, ông Bình Nguyên Lộc đo đạc là biết
ngay.
Vậy ở đây không có chuyện tìm một dấu hiệu phân biệt.
Chẳng qua là chộp bắt một nét cá tính phản ảnh trong phong cách, ngôn ngữ. Và
hình như sự phản ảnh không dừng lại ở vài tiếng trợ từ, ở mấy điệu bộ. Hình như
trên sân khấu cải lương, một bộ môn nghệ thuật của miền Nam, chúng ta có cảm tưởng
nhận thấy cá tính ấy xuất lộ ở phong cách diễn xuất...
- Cảm tưởng? Không có gì rõ rệt.
- Quả nhiên.
Võ
Phiến
________________
(1) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 736, 737.
(2) Sđd., trang 453.
________________
(1) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 736, 737.
(2) Sđd., trang 453.
No comments:
Post a Comment