Nguyễn Quang Dy
Viet-studies 10-7-2015
Ngày nay, các bác sỹ thường khuyên chúng ta phải kiểm
tra sức khỏe định kỳ nếu không muốn bị đột tử (vì tim mạch) hay mắc các bệnh
nan y (như ung thư). Trong “thế giới phẳng”, Tom Friedman cũng khuyên các doanh
nghiệp phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên, nếu muốn tồn tại và phát triển.
Không biết giới trí thức Việt có kiểm tra sức khỏe và khám bệnh thường xuyên
không, và có thừa nhận bệnh tật của mình không?
Có lẽ việc này cần hơn là “định nghĩa lại trí thức”.
Tại sao phải định nghĩa lại? Chẳng lẽ lâu nay chúng ta không biết trí thức là
gì, là ai, và làm gì. Đã qua rồi cái thời ông Mao điên rồ và xảo quyệt nói bậy:
“trí thức không giá trị bằng cục phân”, hay cái thời mấy ông Việt Minh ngây ngô
và cuồng tín, bắt chước ông Mao: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Họ
không hiểu vùi dập trí thức là đồng nghĩa với tự sát quốc gia.
Tuy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, bởi căn
nguyên là cực đoan và cuồng tín chưa chết, vẫn còn lẩn khuất trong chính chúng
ta. Nếu chịu khó quan sát, ta có thể nhận diện một số căn bệnh mãn tính điển
hình của giới trí thức và văn nghệ sĩ Việt. Họ là thành phần ưu tú của quốc
gia, làm đầu tàu thúc đẩy tiến bộ xã hội, nên cần quan tâm và khám bệnh, cả
nghĩa bóng lẫn nghĩa đen (mấy ông này uống và hút dữ lắm!).
Những nhận xét dưới đây có thể đúng, có thể sai, có
thể bổ sung, có thể tranh luận, nhưng là cần thiết. Đừng vội phủ định hay khẳng
định ngay.
Hay
định kiến và chia rẽ
Người ta hay nói (nửa đùa nửa thật) rằng một người
Việt thì không thua kém một người nước khác, nhưng ba người Việt thì chắc thua
kém một người nước khác. Bởi vì ba người Việt thường không hợp sức mà còn chia
rẽ, tự phân hóa và vô hiệu hóa nhau. Không hiểu vì sao tính cá thể của người Việt
rất cao, nhưng tính cộng đồng rất thấp. Đây là một nghịch lý mang bản sắc Việt
Nam (không giống người Trung Hoa). Cũng chưa thấy tài liệu nghiên cứu nào phân
tích xem đây là do tính bản địa, hay là do ảnh hưởng của văn hóa Pháp (xin lỗi
mấy ông tây nhé!) Chỉ biết rằng người Việt có tiếng là hay định kiến và chia rẽ,
hay cãi nhau không ai chịu ai. Càng trí thức, càng hay cố chấp và chia rẽ khỏe.
Chưa thể lý giải ngay được, nhưng có thể do cực đoan và bảo thủ. Làm việc nhóm
rất khó, không phát huy được nội lực và không kết nối được năng lượng
(synergy). Rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Có lẽ vì biết như vậy nên
cụ Hồ mới nhấn mạnh đoàn kết “như con ngươi của mắt mình”, nghĩa là không đoàn
kết thì mù luôn. Hy vọng Việt Nam không phải là một “thung lũng mù”!
Gần đây, đáng mừng là đã xuất hiện một số hội đoàn độc
lập theo hướng dân chủ hóa và cởi mở hơn, như xã hội công dân. Nhưng đáng buồn
là các hội đoàn mới này cũng khó phát triển nhanh và mạnh được. Không phải chỉ
vì số lượng ít, nguồn lực thiếu thốn, bị chính quyền ngăn cản, mà bản thân nội
bộ cố chấp và chia rẽ, rất khó đồng thuận để có tiếng nói chung. Nghe nói vừa mới
hình thành đã cãi nhau rồi. Chưa cần bên ngoài phá, bên trong đã tự phân hóa rồi.
Có lẽ cũng vì vậy mà hòa hợp và hòa giải dân tộc mới khó thế. Khi nói đến dân
trí, người ta thường hiểu theo nghĩa cộng đồng chứ không phải từng cá thể. Nếu
cứ định kiến và chia rẽ như vậy thì làm sao có thể nâng cao dân trí, làm sao có
thể “thoát Trung”?
Không
chịu lắng nghe
Theo nguyên lý truyền thông, lắng nghe quan trọng
hơn cả nói, để thu lượm và sàng lọc thông tin cần thiết. Phải bình tâm mới lắng
nghe được người khác, để hiểu được cả những điều người khác không nói ra. Điều
này càng quan trọng trong thời đại bùng nổ truyền thông kỹ thuật số. Muốn lắng
nghe phải khiêm tốn, chân thành, nhạy cảm. Người ta nói xã hội càng “high-tech”
thì con người càng phải “high-touch”. Ta thường làm ngược lại. Gần đây, Việt
Nam được xếp vào nhóm nước vô cảm nhất thế giới (trong khi chưa “high-tech”).
Đa số người Việt, nhất là giới trí thức, chỉ thích nói cho người khác nghe, mà
không chịu lắng nghe người khác nói. Một số người còn hay “xoa đầu” và dạy bảo
người khác (nhất là đối với lớp trẻ). Họ thường vô cảm, không hiểu được người
khác muốn gì, nghĩ gì. Thế hệ già không hiểu thế hệ trẻ. Bắc-Nam, trong-ngoài,
không hiểu được nhau. Thói quen không chịu lắng nghe có thể do thái độ ngạo mạn,
coi thường người khác, luôn cho mình là đúng, ai không giống mình là sai.
Trong bộ máy công quyền trước đây, người ta quen độc
quyền thông tin theo cấp bậc. Có một thời, chỉ có lãnh đạo mới được đọc “bản
tin tham khảo” (lấy từ các hãng thông tấn nước ngoài). Thời ấy đã qua rồi,
nhưng hệ quả của nó vẫn còn, vì hệ tư tưởng cũ chưa thay đổi. Một khi trong đầu
đã chứa định kiến gì, thì người ta hay cố chấp, luôn phủ định hoặc khẳng định,
mà không cần lắng nghe để tìm hiểu sự thật. Không chịu lắng nghe và chia sẻ
thông tin thường dẫn đến định kiến và chia rẽ. Điều đáng nói là không phải chỉ
có những người cộng sản (cuồng tín) mà cả những người chống cộng (cực đoan) đều
mắc phải căn bệnh mãn tính này. Trí thức mà định kiến và cực đoan thì còn nguy
hiểm hơn cả người khác.
Học
giả nhiều hơn học thật
Chưa thấy ở đâu người ta coi trọng bằng cấp và học
hàm học vị một cách cực đoan như ở Việt Nam. Giới thiệu ông trí thức nào mà thiếu
cái tít “GSTS” là toi. Trong khi đó dân chúng gọi GSTS là “gà sống thiến sót”
(xin lỗi không phải tôi nói!). Vì vậy, nhu cầu “học giả” và làm “bằng giả” trở
thành một thị trường ngầm phát đạt, như một khối u mãn tính, làm mấy đời bộ trưởng
giáo dục đành chào thua. Điều đáng nói là nó không chỉ phổ biến trong nhà trường
mà còn trong giới công chức và trí thức. Một quốc gia có trên 90 triệu dân (một
nguồn tài nguyên quý mà chắc nhiều nước thèm muốn) nhưng chất lượng nguồn nhân
lực đang khủng hoảng đến mức báo động. Chúng ta không lo giới trí thức Việt nhỏ
bé, nhưng rất lo chất lượng dân trí còn thấp, bị phân hóa và vô hiệu hóa quá
nhiều và quá lâu. Vì vậy, trí thức thật thì ít, trí thức giả thì nhiều. Giới
trí thức Việt giống như một bức tranh “mosaic” nhiều màu sắc khó tả, rất đặc
thù chẳng giống ai, mang đậm “bản sắc” Việt Nam.
Nguồn gốc trí thức Việt đại khái có mấy thế hệ. Thế
hệ những người “học tây” thời trước (cả Bắc lẫn Nam) là trí thức thật, nhưng vừa
quá ít vừa “quá date” (passé rồi), nếu chưa chết hoặc không nhanh chân ra nước
ngoài thì cũng đã bị vô hiệu hóa bởi thời thế hoặc thời gian. Thế hệ “thiếu
sinh quân” (thời chống Pháp) được chọn đi học Trung Quốc/Liên Xô, đa số đã trở
thành quan chức, một số khác có tài đã trở thành trí thức thật, nhưng nay đã về
hưu. Thế hệ “học Đông Âu” (thời chiến tranh với Mỹ), tuy đông nhưng bị phân
hóa, đa số thực dụng buôn bán kinh doanh giàu lên nhanh như “tướng soái”, một số
trở thành tư bản đỏ (đang lũng đoạn thị trường), nhưng vẫn giữ cái mũ phó tiến
sĩ hoặc tiến sĩ dổm, một số khác có tài theo đuổi khoa học nghệ thuật, thường bị
vô hiệu hóa, hoặc phải nhập quốc tịch nước khác. Thế hệ đi học các nước “phương
tây” (sau chiến tranh) ngày càng đông và đa dạng, đa số kinh doanh, một số làm
công chức, một số khác làm cho nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài. Trí thức người
Việt sống ở nước ngoài là một nguồn nhân lực quan trọng, có nhiều nhân tài, có
lòng ái quốc, có thể đóng góp nhiều hơn cho đất nước và làm cầu nối với thế giới,
nhưng chưa được thực sự trân trọng.
Im
lặng trùm chăn
Trong bối cảnh xã hội chuyển đổi, đầy biến động và rủi
ro, giới trí thức thường là đội ngũ tiên phong dẫn dắt xã hội đổi mới và phát
triển. Nhưng đáng tiếc, giới trí thức văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những
kinh nghiệm đau buồn như “cải cách ruộng đất” và “nhân văn giai phẩm”, nên đa số
thường “trùm chăn”, không dám lên tiếng, vì sợ. Đây là cái sợ tiềm tàng đã đi
vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ, nên muốn thoát khỏi nó phải cam đảm để phản tỉnh.
Đến nay, hệ thống kiểm soát và kiểm duyệt (văn hóa tư tưởng) về cơ bản vẫn chưa
thay đổi, với hồ sơ nhân quyền đang là vấn nạn trong quan hệ với Mỹ và phương
Tây (giống như vấn đề MIA trước đây). Trong bối cảnh đó, giới trí thức văn nghệ
sĩ “trùm chăn” là dễ hiểu. Quá trình phản tỉnh để thoát khỏi nỗi sợ không đơn
giản, tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người. Có những người đến cuối đời mới dám
lên tiếng nói ra sự thật (như tác giả “Đèn Cù”).
Bên cạnh đa số im lặng trùm chăn (silent majority),
có một thiểu số lớn tiếng (vocal minority). Những người đã định cư ở nước ngoài
thường “dũng cảm” hơn và “lớn tiếng” hơn những người trong nước. Một số quá
khích và nôn nóng muốn thay đổi ngay. Một số khác trong lòng còn nặng hận thù
và cố chấp, chỉ thích chửi nhưng không đề ra được giải pháp. Ai cũng muốn thay
đổi, nhưng nếu không có giải pháp khả thi, thì thành viển vông. Vì vậy, cần
tránh cả khuynh hướng “trùm chăn” lẫn “quá khích”. Nếu bình tâm nhìn kỹ thì quá
trình dân chủ hóa trên thế giới tuy đa dạng và phức tạp, nhưng có quy luật, cần
thời gian. Qua kinh nghiệm nhiều nước đã chuyển đổi (trong 40 năm qua) người ta
thấy cách tốt nhất là đấu tranh ôn hòa, thông qua “Bất tuân Dân sự”. Phong trào
dân chủ gần đây tại Hong Kong là một ví dụ, khác nhiều so với thời Thiên An
Môn. Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật số, muốn đấu tranh hiệu
quả phải có dân trí cao, ứng dụng công nghệ cao, dùng “sức mạnh mềm” đối phó với
“sức mạnh cứng”, biết kết nối quốc tế để vận dụng sức mạnh toàn cầu (global
synergy).
Hội
nhập quốc tế chậm
Trong thời đại toàn cầu hóa, giới trí thức đáng lẽ
phải hội nhập quốc tế nhanh hơn những nhóm người khác, để dẫn dắt họ trong quá
trình đổi mới và phát triển. Đáng tiếc, giới trí thức Viêt hội nhập quốc tế hơi
chậm so với các nước khác đang chuyển đổi. Có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất,
chính sách kiểm soát và kiểm duyệt chặt chẽ với các quy định lạc hậu, không
khuyến khích và tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập quốc tế. Thứ hai, bị đóng
cửa quá lâu nên giới trí thức bị “nội địa hóa” quá nhiều, một số mang tâm lý
bài ngoại, không quen hội nhập. Thứ ba, hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cũng làm
cho việc giao lưu, hội nhập của trí thức với thế giới bên ngoài khó khăn. Tuy
nhiên, thế hệ trí thức trẻ học tại các nước Phương Tây sau này ngày càng đông,
riêng học tại Mỹ đến nay là 16.500 người (sau 20 năm). Họ không bị hàng rào
ngôn ngữ và văn hóa cản trở, giao lưu và hội nhập dễ dàng. Đây là một nguồn
nhân lực và một lớp trí thức mới quan trọng, nhưng chưa được coi trọng đúng mức.
Trong thời đại toàn cầu hóa và truyền thông kỹ thuật
số, liên kết và giao lưu quốc tế vô cùng quan trọng, giúp cho những người trí
thức mở rộng tầm nhìn, không kỳ thị dân tộc, ngăn ngừa xu hướng dân tộc cực
đoan và bạo lực giữa các quốc gia. Theo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước,
chỉ khi nào giới trí thức trưởng thành như một thế lực mạnh trong xã hội, và
nhân tài được trọng dụng như tài sản quốc gia, thì đất nước đó mới thực sự phát
triển. Nhưng trước hết, giới trí thức Việt cần chữa trị các bệnh mãn tính nói
trên.
NQD. 7/7/2015
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 10-7-15
No comments:
Post a Comment