Phạm Khánh Chương
Posted by adminbasam on
06/06/2015
Tất cả lý luận để bênh vực Hồ Chí Minh chỉ là hình
thức đánh lừa vị giác, hay nói cách khác, là tự đánh lừa mình. Biết là sai
nhưng vẫn tự đánh lừa mình thì là ngu, nhưng dùng nó để đánh lừa cả người khác
là bất lương, là tội ác.
Những kẻ biện hộ cho Hồ Chí Minh lý luận rằng ông
ta ảnh hưởng tư tưởng Khổng Giáo nhiều hơn tư tưởng CS, rằng
những việc làm của ông ta lúc trước là do biện pháp tình thế, ngoài
ý muốn, do người khác làm, rằng nhận xết về Hồ Chí Minh phải khách
quan về hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, v,v….Tất cả những lý luận biện hộ đó
đều là ngụy biện.
Hồ Chí Minh xuất thân bần nông, có khuynh hướng dùng
bạo lực để giải quyết vấn đề hơn dùng trí óc để tìm giải pháp. Chính vì thế,
năm 1920, khi ông ta đọc được “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin,
ông ta hoàn toàn bị CS mê hoặc vì CS chủ trương đấu tranh bạo lực để giải phóng
con người, giải phóng XH.
Nếu Cụ Phan Chu Trinh chủ trương nâng cao dân
trí, hội nhập thế giới văn minh, rồi từ đó đấu tranh giành độc lập mà
không cần dùng bạo lực hay cầu viện ngoại bang thì Hồ Chí Minh đã chọn con đường
hoàn toàn trái ngược. Và ông ta đã đi theo, và chỉ theo con đường trái ngược đó
cho tới khi chết.
Tuy bị mê hoặc bởi chủ nghĩa CS và đi theo CS, Hồ
Chí Minh khi ấy cũng không hiểu rõ CS. Chính vì không hiểu CS là gì nên tại Hội
Nghị Quốc Tế Nông Dân năm 1923, Hồ Chí Minh chỉ nêu ra vấn đề thuộc địa (thực
chất là nêu ra vấn đề đàn áp nông dân tại thuộc địa) mà không quan tâm (hay
không biết đến) những vấn đề khác của phong trào CS trên thế giới lúc bấy giờ như
phong trào công nhân, phong trào đấu tranh ở thành thị, v.v… Điều này làm
Stalin không hài lòng, gây khốn khổ cho Hồ Chí Minh đến mãi sau này, cho tới
khi ông ta hiểu biết hơn về CS và “sửa sai tư tưởng” bằng phong trào Cải Cách
Ruộng Đất tại VN.
Sự mơ hồ về chủ nghĩa CS của Hồ Chí Minh còn kéo dài
cho tới khi Trần Phú về triệu tập Hội Nghị Trung Ương tháng 10-1930, đổi tên đảng
CSVN thành đảng CS Đông Dương, nhấn mạnh phải lấy “giai cấp chống giai cấp”
làm trọng tâm cho mọi đường lối đấu tranh chính trị của đảng.
Những tay lý luận biện hộ cho Hồ Chí Minh chụp lấy
cơ hội trên cho rằng khuynh hướng “tả” và “những hành động bạo lực”
sau đó là “ngoài ý muốn” của Hồ Chí Minh, ”do người khác làm” vì lúc đó Hồ Chí Minh đang ở nước ngoài. Đây chỉ là ngụy biện vì đường lối
CS Quốc Tế là đường lối chung, có Hồ Chí Minh khi ấy hay không cũng vậy, Trần
Phú chỉ là người làm sáng tỏ đường lối đấu tranh theo ý thức hệ CS mà những đảng
viên CS, kể cả Hồ Chí Minh, phải tuân theo.
Những kẻ ngụy biện còn cố gán cho Hồ Chí Minh ảnh hưởng
Khổng Giáo để làm giảm bản chất CS của ông ta, nhưng ai học sách Nho ngày xưa
mà không ảnh hưởng Khổng Giáo? Thật ra, Hồ Chí Minh cũng có ảnh hưởng bởi Khổng
Giáo và một số tư tưởng dân chủ Âu Tây, ông ta từng viết “Khổng tử, Jésus,
Marx, Tôn Dật Tiên,… đều có những điểm chung giống nhau, đó là cùng mưu cầu hạnh
phúc cho loài người. Tôi cố gắng là người học trò nhỏ của các vị ấy”,
nhưng những bài viết, văn kiện của Hồ Chí Minh cho thấy ông ta chịu ảnh hưởng
rất nặng tư tưởng CS của Lenin. Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh tuy mơ hồ về lý
thuyết CS nhưng ông ta không mơ hồ về con đường mình đi và quyết tâm chọn con
đường đó vì nó phù hợp với bản chất của ông ta.
Chính vì ảnh hưởng rất nặng tư tưởng của Lenin và
quyết tâm theo con đường CS, Hồ Chí Minh đã dể dàng chấp nhận lấy quan điểm “giai
cấp đấu tranh giai cấp” bạo lực của Stalin và Mao làm con đường đấu tranh
duy nhất để “lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội
chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản” (cương lĩnh của Đệ Tam Quốc Tế do
Lenin lãnh đạo).
Việc Hồ Chí Minh có phải là người đem CNCS hay thành
lập đảng CS tại VN hay không không thành vấn đề, ông ta vẫn là một trong những
đảng viên tiên phong của phong trào CS tại VN. Đảng CS do ông ta lãnh đạo và kế
thừa đã tích cực áp dụng phương pháp đấu tranh bạo lực, “giai cấp chống giai
cấp” của Stalin và Mao để giải quyết vấn đề đất nước.
Ngoài ra, nếu nói sự chọn lựa đó “ngoài ý muốn”
thì tại sao năm 1941, khi ban Trung Ương củ do Trần Phú dựng lên và những người
theo ông ta bị bắt và hy sinh gần hết, Hồ Chí Minh về làm lãnh tụ tối cao của đảng,
ông ta không thay đổi quan điểm đấu tranh của đảng?
Hồ Chí Minh và đảng CS có rất nhiều cơ hội để thay đổi
đường lối đấu tranh hòa bình hơn, nhân bản hơn theo hướng những đàn anh đi trước
và trí thức hơn ông ta như Cụ Phan Chu Trinh, nhưng ông ta và đảng CS đã không
làm, vì đó không phải chủ trương của đảng CS nói chung. Nói tới Cộng sản,
Việt Minh hay sau này là Việt Cộng, là nói tới thanh trừng, khủng bố và dối
trá. Bạo lực và dối trá nối tiếp bạo lực và dối trá.
Hồ Chí Minh đã khéo léo dùng chiêu bài “dân tộc“,
“yêu nước” để che giấu bộ mặt thật Việt Minh-Cộng Sản với nhân dân VN,
nhưng không thể qua mắt được người Mỹ. Người Mỹ và các nước Tây phương biết rõ
Hồ Chí Minh không phải là “nhà ái quốc” hay người theo “chủ nghĩa dân
tộc” (dù có vài người tin như vậy!), Hồ Chí Minh chỉ là một đảng viên đảng
CS Quốc Tế dưới sự lãnh đạo của CS Xô-viết.
Tình hình VN lúc bấy giờ rất phức tạp (Pháp, Nhật,
Tàu, phe phái, v.v…), nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh của đảng CS do Hồ Chí Minh
lãnh đạo có thay đổi nhưng quan điểm đấu tranh hoàn toàn không thay đổi. Kết quả,
tháng 8-1945, thay vì kết hợp với chính phủ Trần Trọng Kim để xây dựng một nhà
nước dân chủ, đa đảng, Hồ Chí Minh chọn việc cướp chính quyền, loại bỏ chính phủ
đầu tiên của VN, một chính phủ hợp hiến của một quốc gia độc lập, độc lập không
đổ máu.
Tháng 5-1946, Hồ Chí Minh qua Pháp dự Hội Nghị Fontainebleau,
thực chất là tránh mặt cho Võ Nguyên Giáp thủ tiêu các đảng phái khác như Quốc
Dân Đảng, Việt Cách, Việt Quốc, Đại Việt và những người Trotskist, tức là thủ
tiêu những người không cùng đường lối, không cùng ý thức hệ CS.
Thật ra, dù Hiệp Ước 1946 thành công hay thất bại,
dù Pháp có phá vỡ Hiệp Ước hay không, Hồ Chí Minh và đảng CS cũng sẽ sử dụng vũ
lực vì tư tưởng sử dụng bạo lực để cướp chính quyền đã có từ trước. Ngày
19-5-1941, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII, Hồ Chí Minh
đã khẳng định, trích: “cuộc cách mạng Đông Dương sẽ kết liễu bằng một cuộc
khởi nghĩa vũ trang” và “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc
khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương giành thắng lợi mà mở đường cho một
cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”. Tư tưởng bạo lực của QTCS luôn chi phối mọi
suy nghĩ và hành động của ông ta.
Tháng 3-1947, lấy lý do Pháp phá vỡ Hiệp Ước, Hồ Chí
Minh kêu gọi tiêu thổ, trường ký kháng chiến. Năm 1951, tình hình thuận lợi cho
phép Hồ Chí Minh lộ mặt, đưa đảng CS ra hoạt động công khai trở lại, lấy tên là
đảng Lao Động VN.
Lê Diễn Đức viết trong “Hồ Chí Minh và di sản của
ông”, trích: “Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp định Geneva năm 1954….
Ngay lập tức Hồ Chí Minh đã phản bội lại chính mình, phản bội lại tất cả những
điều mà ông ta sử dụng nó để đưa người dân vào 9 năm kháng chiến trường kỳ“.
Không! Hồ Chí Minh không phản bội lại ông ta, ông ta chỉ không cần phải giấu mặt
thật nữa thôi!
Không thể nào nói một người như Hồ Chí Minh không hiểu
rằng nếu sử dụng bạo lực là sẽ có đổ máu. Kéo cả dân tộc vào đấu tranh bạo lực
thì máu sẽ thành sông, xương thành núi, nhưng ông ta vẫn bất chấp, không những
thế, còn tìm mọi cách để thực hiện (đấu tranh bạo lực). Rất nhiều nước thuộc địa
đã giành được độc lập, tự do mà không cần phải mất nhiều xương máu như vậy.
Một người ái quốc hay theo chủ nghĩa dân tộc, lấy
dân làm gốc, không bao giờ lấy xương máu nhân dân để làm phương tiện cho mục
đích chính trị của đảng phái mình, trừ khi người đó bị lôi cuốn bởi một quyền lực
u mê vô hình nào đó. Quyền lực u mê vô hình ở đây là chủ nghĩa CS mà Hồ Chí
Minh suốt đời “không chỉ là một người cộng sản Việt Nam mẫu mực, Người còn
là chiến sĩ cộng sản quốc tế trong sáng, thuỷ chung, luôn quan tâm đến sự phát
triển chung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”.
Một số người bênh vực Hồ Chi Minh cho rằng, trong
giai đoạn phức tạp của lịch sử lúc đó, do tình thế bắt buộc, Hồ
Chí Minh không thể chủ động lựa chọn mà phải chấp nhận
(khi không còn con đường nào khác). Đây là cách ngụy biện nguy hiểm nhằm mục
đích đổ lỗi cho người khác. Những tay ngụy biện còn đi xa hơn cho rằng, xét
công-tội của Hồ Chí Minh phải xét tới hoàn cảnh lịch sử phức tạp lúc ấy.
Hoàn cảnh lịch sử phức tạp lúc ấy đã cho phép Cụ Trần
Trọng Kim thành lập chính phủ VN đầu tiên mà không cần phải đổ máu (dù vẫn chịu
sự bảo hộ của quân dội Nhật – lúc đó đã thất trận, giải giáp và chuẩn bị rút về
nước).
Vậy, hoàn cảnh lịch sử phức tạp nào lúc ấy khiến Hồ
Chí Minh và Việt Minh bắt buộc phải thủ tiêu đối lập? Hoàn cảnh phức tạp nào
lúc ấy khiến Hồ Chí Minh chỉ có thể làm “cuộc cách mạng Đông Dương…..bằng một
cuộc khởi nghĩa vũ trang” , phát động cuộc “trường kỳ kháng chiến”
kéo dài 9 năm làm chết hàng vạn người?
Hoàn cảnh phức tạp nào lúc ấy, bắt buộc Hồ Chí Minh
phải viết thư nặc danh vu cáo
bà Nguyễn Thị Năm, một người địa chủ có công với đất nước? Hoàn cảnh phức tạp
nào lúc ấy bắt buộc Hồ Chí Minh phải tiến hành Cải Cách Ruộng Đất làm chết cả
trăm ngàn người, trong đó hơn 70% là vô tội?
Hoàn cảnh phức tạp nào lúc ấy, ép Hồ Chí Minh và đảng
CS do ông ta lãnh đạo phải tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam kéo dài
hơn 20 năm với hàng triệu người chết mà ruốt cuộc, sau 40 năm thống nhất, đất
nước càng ngày tụt hậu, nghèo nàn và lệ thuộc vào Tàu?
Tất cả chỉ vì Hồ Chí Minh là đảng viên trung kiên của
đảng CSQT, suốt đời sống là làm việc theo chỉ thị của đảng CSQT (nay là đảng CS
Tàu). Những kẽ kế thừa ông ta hiện nay vẫn đang “tiếp tục kế thừa tư tưởng
và phát huy sự nghiệp” của ông ta.
Một người tự trọng sẽ không cho phép mình đổ thừa
hoàn cảnh để chạy tội. Không có dân tộc nào trên thế giới muốn có một lãnh đạo
như Hồ Chí Minh để bị dẫn dắt đi hết chỗ chết này tới chỗ chết khác.
Người VN nào vẫn xem ông ta là “cứu tinh dân tộc“,
hãy nhìn lại chặng đường hơn 80 năm qua của dân tộc, của đất nước từ khi có đảng
CS dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đề suy nghĩ lại. Những trí thức VN hãy có đủ
bản lĩnh trí thức để thoát khỏi sự nô lệ của cái bóng ma quái Hồ Chí Minh, trí
thức bị nô lệ tư tưởng không phải là trí thức.
Lịch sử VN đời đời lên án Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc
là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà“, “rước voi về giày mả tổ“,
bất chấp hoàn cảnh lịch sử lúc ấy như thế nào. VN này nay bị mất đất, mất biển,
đất nước bị lệ thuộc Tàu cộng, tất cả chỉ vì Hồ Chí Minh là “chiến sĩ cộng sản
quốc tế thuỷ chung”.Hồ Chí Minh rồi đây cũng sẽ bị lịch sử phê phán như vậy
Hồ Chí Minh là “nhân vật lịch sử“, Hồ Chí Minh không phải là “thánh”
để mà tôn thờ và Hồ Chí Minh hoàn toàn không phải là “cha già dân tộc“.
Những kẻ gọi Hồ Chí Minh là “cha già dân tộc” là những kẻ đang sĩ nhục tổ
tiên và phĩ báng dân tộc.
Ngày sau dù chế độ nào cầm quyền đi nữa thì người ta
cũng sẽ học về Hồ Chí Minh, nhưng học về Hồ Chí Minh không phải để làm theo mà
để tránh vết xe đổ của lịch sử, tránh những nguy cơ gây tổn thất, mất mát, đau
khổ cho dân tộc và cả nguy cơ mất nước mà Hồ Chí Minh và những kẻ CS kế thừa của
ông ta đã và đang làm hiện nay.
_____
Tham
Khảo
No comments:
Post a Comment