01.01.2015
Trong
bài “Những ngày cuối cùng của đảng Cộng sản?” (The last days of the Communist
Party?) đăng trên tạp chí World Affairs ngày 23 tháng 12 năm 2014, Michael J.
Totten mở đầu bằng một nhận định: “Việt Nam là một quốc gia độc đảng độc tài trông có vẻ như một xứ
tự do”.
Rất
nhiều người chỉ thấy mệnh đề sau “trông có vẻ như một xứ tự do” mà quên bẵng đi
mệnh đề đầu “độc đảng độc tài” (authoritarian one-party state).
Cách
đây hơn một tháng, tôi được mời giảng dạy một khoá ngắn về ngôn ngữ, văn hoá và
chính trị Việt Nam cho một nhóm sinh viên Úc chuẩn bị sang Việt Nam nghiên cứu
trong mấy tuần. Trong số ấy, có nhiều sinh viên đã từng du lịch sang Việt Nam.
Họ có vẻ thích Việt Nam. Khi tôi hỏi cảm tưởng của họ về không khí chính trị tại
Việt Nam, tất cả đều cho Việt Nam không có vấn đề gì về dân chủ và nhân quyền.
Nó hoàn toàn khác với các quốc gia Hồi giáo hoặc Bắc Hàn hay ngay cả Trung Quốc
mà họ từng biết. Ở Việt Nam, họ có thể đi khắp nơi, nói về mọi đề tài và làm bất
cứ thứ gì họ muốn. Rất hiếm thấy công an hoặc nếu thấy, công an cũng không gợi
lên bất cứ một ấn tượng đe doạ nào. Vào internet, họ cũng không gặp dấu hiệu
nào của sự kiểm duyệt. Theo họ, Việt Nam khá dân chủ. Khi tôi kể kinh nghiệm
của bản thân tôi, một nhà giáo và một người cầm bút tuyệt đối không tham gia
chính trị, bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam hai lần mà không có lý do gì cả, họ rất
ngạc nhiên. Và thú nhận: đó là điều họ không hề biết.
Thật
ra, việc không biết như vậy cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tất cả những người
ngoại quốc cho Việt Nam dân chủ đều là những kẻ cưỡi ngựa xem hoa. Họ chỉ đến
Việt Nam vài tuần hoặc nhiều hơn, vài ba tháng. Họ không thấy được bản chất của
chế độ cũng là điều dễ hiểu. Đáng ngạc nhiên hơn là chính người Việt Nam, chắc
không phải ít, cũng cho là Việt Nam dân chủ hoặc khá dân chủ. Tôi gặp khá nhiều
người, hầu hết thuộc thành phần trí thức, từ Việt Nam sang Úc với tư cách du lịch
hoặc thường trú nhân (do thân nhân bảo lãnh). Phần lớn đều cho Việt Nam không
còn độc tài nữa. Họ nêu lên ba lý do chính: Một, so với trước đây, Việt Nam
càng ngày càng đi xa trên tiến trình dân chủ hoá; hai, ở Việt Nam, ngay trong
lãnh vực chính trị, chính phủ cũng hành xử một cách dân chủ: dân chúng có thể
thoải mái phê phán chính quyền một cách công khai trong các tiệm cà phê hay
quán nhậu, thậm chí, trên các blog hay facebook; và ba, giới hạn trong phạm vi
chính trị, nếu chính phủ thiếu dân chủ thì, tính chất thiếu dân chủ ấy vừa rất
ít vừa có thể “thông cảm” được vì Việt Nam hiện đang đối diện với nguy cơ xâm lấn
từ Trung Quốc.
Tôi
cho nhận định của những người Việt Nam kể trên cũng như những người ngoại quốc
đến Việt Nam một thời gian ngắn ngủi đều xuất phát từ sự mê hoặc trước ảo tưởng
dân chủ mà nhà cầm quyền Việt Nam cố tình tạo nên để đánh lừa mọi người.
Để thoát khỏi sự lừa
dối ấy, cần, nói theo ngôn ngữ cộng sản vẫn thường dùng trước đây, phân biệt bản
chất và hiện tượng.
Hiện tượng: ở Việt Nam, hầu như người ta có thể phát biểu về đủ thứ chuyện. Bản
chất: đàng sau hiện tượng ấy, có một khu cấm: chính trị. Trong chính trị, về hiện
tượng, người ta có thể phê phán chính quyền một cách gay gắt, tuy nhiên, về bản
chất, có hai điều đáng chú ý: Một, chỉ phê phán bằng miệng; hai, nếu viết, người
ta phải biết dừng lại ở một điều cấm kỵ: phê phán giới lãnh đạo. Trước, có ba
điều cấm kỵ: Hồ Chí Minh, đảng cộng sản và giới lãnh đạo đương tại chức. Sau
này, những khu vực cấm kỵ ấy dường như được thu hẹp lại. Phê phán Hồ Chí Minh?
Người ta có thể khó chịu nhưng ít khi có phản ứng quyết liệt. Phê phán đảng Cộng
sản? Dường như có tâm lý: cha chung không ai khóc. Nhưng đừng phê phán cá nhân
những người đang cầm quyền. Đụng đến họ, nếu không phải chính họ thì cũng có
đàn em của họ xúm vào trả thù ngay tức khắc.
Để đánh giá một chế độ
cần nhìn vào cơ chế.
Cơ chế ấy, ở Việt Nam, vẫn độc đảng, không hề có cạnh tranh và đối lập, hai yếu
tố quan trọng nhất của dân chủ. Còn một yếu tố thứ ba nữa: sự minh bạch, Việt
Nam hoàn toàn không có. Mọi chính sách của nhà nước, từ lớn đến nhỏ, đều… bí mật.
Ngay cả đối với một vấn đề ai cũng quan tâm: quan hệ với Trung Quốc, người dân
vẫn không hề biết giới cầm quyền Việt Nam đã cam kết gì với Trung Quốc trong hội
nghị Thành Đô năm 1990 cũng như những kế sách, nếu có, họ đang theo đuổi để bảo
vệ biển đảo của Việt Nam trước các âm mưu lấn chiếm của Trung Quốc.
Không
phải ngẫu nhiên mà, theo các bảng xếp hạng của các tổ chức quốc tế, Việt Nam
bao giờ cũng nằm ở cuối hoặc gần cuối về mức độ dân chủ, đặc biệt dân chủ trong
lãnh vực truyền thông. Căn cứ vào các vụ bắt bớ dân chúng cũng như các biện
pháp trừng phạt những người dân dám lên tiếng phản đối chính phủ được tường thuật
trên báo chí, người ta cũng dễ dàng nhận thấy Việt Nam hoàn toàn không có dân
chủ.
Trong
bài báo dẫn ở đầu bài viết này, Michael J. Totten cho rằng mặc dù nhà cầm quyền
Việt Nam vẫn độc tài nhưng sự độc tài của họ không quá khắc nghiệt như Bắc Triều
Tiên, Cuba hay Trung Quốc. Nó giống hơn với thời kỳ tiền-dân chủ
(pre-democratic) ở Đài Loan hay Nam Triều Tiên trước đây. Với cái nhìn như thế,
ông hy vọng những năm tháng chúng ta đang sống hiện nay là những ngày cuối cùng
của chế độ cộng sản.
Trong
lúc chúng ta mong sự lạc quan của Totten không phải là một ảo tưởng, chúng ta
cũng nên biết một sự thật: Không có chế
độ độc tài nào tự động chuyển sang dân chủ cả. Nói theo cách nói của Tây
phương, tự do không bao giờ miễn phí (freedom ain't free). Tự do bao giờ cũng
là kết quả của các cuộc đấu tranh. Điều đó cũng có nghĩa là tự do không đến từ
chính phủ, từ trên xuống, như một kiểu phân phát hay ban bố. Tự do bao giờ cũng
từ dưới lên, bắt đầu từ dân chúng, những người biết tự do là cái quyền căn bản
của mình và sẵn sàng trả giá để có được cái quyền ấy.
Khi
dân chúng không chấp nhận trả giá, cái gọi là những ngày cuối cùng (last days)
có thể kéo dài, có khi, kéo dài mãi, cả mấy thập niên.
* Blog của Tiến sĩ
Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng
ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment