Sunday, March 11, 2012

TRÍ THỨC GỐC TRUNG THÀNH (Phạm Kỳ Đăng)



Phạm Kỳ Đăng
11-3-2012

Người trí thức lên tiếng, phản tỉnh và dấn thân? Điều ấy thuộc về cuộc sống thường hằng như mưa nguồn chớp biển. Xã hội nhân quần chỉ sôi nổi bàn rộ khi trí thức vắng hẳn tiếng nói trong xã hội nan nguy ầm ầm lao như một cỗ xe tuột dốc không phanh, không cơ chế số lùi trong thiết kế.

Tôi thuộc diện không mấy thiết tha với biệt nhãn nhìn họ ở vị trí được nâng cao hơn tầm xứng đáng với họ. Trí thức khai sáng văn minh, cũng từng xây dựng học thuyết bao biện cho độc tài và những thể chế tàn bạo, từng truy nã tận diệt tư tưởng đối kháng và, ghê rợn nhất, từng có những phát minh công xưởng hoá, dây chuyền hoá sự giết người hàng loạt.

Nếu tôi không lầm, trí thức – nâng tầm văn hoá và cả tận diệt nhân văn – bao gồm rất nhiều giới, hay nói đúng hơn rất nhiều giới làm nên trí thức. Ở nước Nga của Tolstoi và Dostojevski vĩ đại cùng cự tuyệt bạo lực chuyên chính, chính Lênin là một trong những lãnh tụ đầu tiên đòi hỏi cải tạo và xây dựng giới trí thức thành một giới chuyên dụng sau này cho nhà nước, đương nhiên coi trí thức là công cụ – như một hệ quả logic của tham vọng cấy trồng người tương lai. Để rèn giũa người, mọi phương tiện giao dịch đều được huy động hết công suất liên thanh “nổ” khẩu hiệu và giáo điều. Người đứng máy nổ đó, là trí thức, còn ai vào đấy nữa. Như vậy, cùng với thảm hoạ đốt sách hoặc thuần hoá trí thức bằng trại tập trung hay trại cải tạo, đã từng xảy ra vụ thông đồng hủ lậu kéo dài nhiều thập kỷ giữa người cầm quyền và trí thức. Lãnh tụ ban đầu, e dè và khinh thị, còn coi trí thức bằng hoặc không bằng cục phân. Sau này lãnh tụ của nhà nước Angkar còn không cần phân nữa.

Trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít, nhiều văn nghệ sĩ, triết gia, khoa học gia đã chẳng chần chừ hoà mình vào tổ chức chính trị. Gia nhập đảng cộng sản, hậu thế không nên quên những gương mặt chói sáng: Louis Aragon, Joliot–Curie, Pablo Neruda, Pablo Picasso, Paul Eluard, Albert Camus, Jean–Paul Sartre, Yvest Monstand, v.v. Aragon tha thiết vì “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”. Pablo Picasso vào đảng vì như ông nói, Đảng Cộng sản Pháp đã mang lại quê hương cho đời nghệ sĩ lưu vong như ông. Và còn cả rất nhiều trí thức, trước hiểm hoạ diệt vong nhân loại, đã cùng đồng hành, kề vai sát cánh gắn bó từng chặng hoặc cả đời với Đảng cộng sản.

Cũng từ bên ngoài, là khách mời tới thăm quê hương Cách mạng tháng Mười hiện hữu sức mạnh đảng chuyên chính công nông, André Gide viết phóng sự “Trở về từ Liên bang Xôviết”. Picasso, nhiều năm từ chối lời mời, khi lãnh tụ qua đời mới thể theo lời yêu cầu của đảng vẽ chân dung lãnh tụ. Một chân dung mang vẻ vô thường vô phạt của bác nông phu, bác hàng thịt vô danh, cơ bản nhất thiếu hẳn đi vẻ nhân từ của cha già dân tộc. Rồi Sartre lên án việc xe tăng Xôviết vào Hungary. Cũng từ bên trong hệ thống của xã hội chủ nghĩa hiện thực, nơi đảng đã độc tôn tiếm quyền và đắc ý độc quyền, nhiều trí thức đã phản tỉnh, phê phán Đảng lại cũng bởi chủ nghĩa cộng sản mang lại đời vong quốc trên chính quê hương của họ. Danh sách này nhiều vô kể.

Gia nhập ở lại hay ly khai khỏi Đảng đều là những hoạt động dấn thân và tự nguyện của những đầu óc độc lập. Chủ nghĩa cộng sản đã từng là mơ ước, đã từng là lời kêu gọi lương tri, là thuốc phiện và mốt của người trí thức, ở nhiều thời điểm lịch sử như sau Cách mạng tháng Mười, Nội chiến Tây Ban Nha, Thế chiến II và Chiến tranh Việt Nam. Trong tương quan cho phép so sánh sòng phẳng, sự phản ứng của những người Nhân văn Giai phẩm, và “Chống Đảng” không kém phần gay gắt, dẫu cho người bị nạn – như các nạn nhân chung của chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực – đều xác quyết một lòng trung tín. Vì vậy tôi không xếp Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Nguyễn Hộ hay Trần Độ vào đối lập trung thành. Phản ứng của họ quyết liệt và trung thực trong thời điểm chủ nghĩa cộng sản đang còn là kỳ vọng. Ít nhất vào thời điểm này, nếu còn sống, họ sẽ không đưa ra thông điệp thất vọng.

Thất vọng vì nó tiêm liều tê liệt cho mọi vận động, nỗ lực từ mọi tầng lớp đang cố gắng hướng đến giải độc quyền, xây dựng xã hội dân sự. Chỉ trong một xã hội dân sự xây dựng trên cơ sở nhà nuớc pháp quyền, thay thế cho cho một bộ máy nhà nước toàn trị như quái vật chà đạp thần dân, mới có sự tồn tại thật sự của nhà nuớc và công dân. Khi đó can đảm công dân sẽ thôi là đặc quyền hoặc là một thách thức dành cho một thiểu số nào đó nói lời phê phán.

Khi một đảng thôi độc tài, đòi hỏi độc đoán tác quyền bị xoá bỏ, điều kiện khung cho sân chơi sẽ được xác lập cho mọi người dân đều tham gia vào quyền lực và chắc hẳn họ sẽ cử ra người đại diện. Các trí thức, cũng như mọi công dân đều có cơ may tham gia vào sự ủy nhiệm quyền lực đó.

Trong tình thế Đảng vẫn loay hoay cố công chỉnh đốn, liệu người trí thức có thể an ủi vai trò mình là người tạo ra sản phẩm trí tuệ tinh thần, mà không chú trọng vào cân nhắc công và tội. Việc làm của họ phỏng đi đến một kết quả gì nếu người trí thức quên đòi hỏi của một chút gì đó tựa lương năng và khai sáng?

Nhân dân kỳ vọng thì không phải là không chính đáng, đáng ghi nhận hơn là lời dè bỉu eo sèo rất chính đáng về người trí thức có thể tự do nghĩ ngợi, tự đi đứng được mà vẫn chịu áp tải, không giải thoát được ra khỏi tình trạng giám hộ.

Nói ra một câu phân trần cũng là một thỏa hiệp. Sẽ là ngây thơ nếu cho rằng trí thức cần sự lãnh đạo của Đảng bằng pháp luật. Làm gì có điều này, nếu như Đảng nằm trên vòng cương tỏa của luật pháp.

Như vậy băn khoăn vì chưa xuất hiện một giới trí thức ở Việt Nam sẽ không chính đáng bằng tự vấn về sự a dua, về các cuộc thanh trừng và khủng bố trí thức trong thế kỷ qua. Cũng không phải lo lắng vì có thể bơ vơ đứng đường khi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo. Những “trăn trở” này tố giác suy tư của lớp người trí thức công cụ-thư lại. Đây là lối tư duy của người bị điều kiện hoá, không có khả năng tri nhận độc lập và tất nhiên còn cách xa mọi sự phản tỉnh.

Sự đau đớn trải nghiệm, lẽ dĩ nhiên là cái giá của mọi người phải trả. Thú nhận sự đau đớn còn khó khăn hơn nhiều. Tài năng và danh vọng cực phẩm không làm thay đổi một Günter Grass hầu như suốt đời lên tiếng phản bác đường lối chính trị của nhà nước CHLB Đức. Gần đây báo chí phanh phui quá khứ ông đã từng là người của SS khi còn trai trẻ. Hẳn nhiên vậy, đã trong xã hội toàn trị ai cũng phải can dự cả, có gì đáng gây mặc cảm đụng chạm khủng khiếp lắm đâu. Giá như ông công bố sớm thì người ngưỡng mộ đỡ tiếc cho ông cơ hội bạch hoá đời mình.
Điểm lại dữ kiện và một số hiện tượng từng xảy ra cho cuộc thảo luận, người trí thức có thể thấy nhiều hơn khả năng dung nạp nhau về quan điểm, và viễn tượng hoà giải để đồng tâm hiệp lực ở nhiều phương diện vẫn đợi chờ cũng như còn bỏ ngỏ.

Bài viết của nhà văn Phạm Thị Hoài, đích đáng khắc hoạ chân dung, đặc sắc về văn phong, đã chụp cắt, quét lớp một nhóm, nhà văn gọi là đối lập trung thành. Khái niệm đối lập trung thành tuy nhiên không cho ta cách nhìn phân liệt hơn về nhiều trí thức và thái độ, mức độ chống đối hoặc phản biện. Cũng như đánh giá không có nghĩa là đưa ra chuẩn xếp hạng cho người trong và ngoài lớp cắt đó. Đã và còn có rất nhiều trí thức quan phương a dua, trùm chăn, phò chính thống nhưng, quý giá vậy thay, có sự hiện diện của những trí thức dấn thân vốn trung thành, xa rộng ra là đối lập vốn chung lý tưởng – bao gồm cả cựu đảng viên, tướng lĩnh, phục viên, lão thành, viên chức hưu trí. Mọi ý kiến phản tư, phản biện của họ đều đáng đựợc nghiêng mình lắng nghe. Xã hội còn trông chờ vào những ai khác nữa. Dưới góc độ đó, công lao của người trí thức, nhân sĩ xuống đường biểu tình chống cắt cáp, chống xâm lược lãnh hải, chủ quyền, Biển Đông trong năm 2011 thật không hề nhỏ chút nào. Sức cổ vũ, thức tỉnh và khai phóng tiềm năng từ tiếng nói phản tỉnh và phản biện của trí thức vốn trung thành đã làm được nhiều việc và hiện cần thiết hơn bao giờ hết.

P.K.Đ.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

--------------------------------

Phạm Thị Hoài
17-1-2012

Ông Chu Hảo là mẫu mực của một người đối lập trung thành.

Đối lập trung thành tại Việt Nam là ai? Theo quan niệm của tôi, họ là những người không hài lòng với hệ thống chính trị trong nhiều vấn đề lớn, công khai phản biện và tìm giải pháp thay đổi trong phạm vi các vấn đề đó, nhưng không đụng chạm, hay tránh đụng chạm đến nền tảng tồn tại của hệ thống. Họ gắn bó với hệ thống vì xác tín, vì thói quen hoặc vì không có, hay không biết đến lựa chọn nào khác. Họ góp phần tích cực xây dựng và duy trì hệ thống, và qua đó có địa vị, uy tín và những quyền lợi nhất định trong hệ thống. Mong muốn của họ là cải tạo hệ thống nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của nó. Sự sụp đổ này đồng nghĩa với sự phủ định họ ở một số phương diện căn bản. Điều đó chắc chắn là đau đớn.

Họ thường là đảng viên Đảng Cộng sản, lực lượng chính trị duy nhất độc quyền cầm quyền và độc quyền xác quyết sự độc quyền của mình trong Hiến pháp Việt Nam. Giới hạn xa nhất mà họ có thể đi là thỉnh cầu Đảng của họ nhượng cho những lực lượng chính trị khác thuê vài mét vuông để ngụ cư trong lãnh địa mênh mông của Đảng mà hợp đồng thuê đương nhiên do Đảng soạn thảo. Như thế là đã quá nhiều hào phóng.

So với một số nhà đối lập trung thành đi trước, ông Chu Hảo còn đứng vững ở bên này giới hạn cho phép. Thay vì bị trừng phạt như Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Hộ hay bị thanh lí như Trần Độ, bị vô hiệu hóa như Trần Xuân Bách, những người đã đặt ít nhất là một nửa bàn chân sang phía bên kia hoặc ở giai đoạn cuối đã đoạn tuyệt hệ thống, ông Chu Hảo còn được đảm đương những chức vị tuy không có thực quyền nhưng có một bục đứng để phát ngôn trong một không gian nhất định, còn được phép dấn thân vào những dự án tâm huyết chừng nào chúng chưa bị hệ thống coi là nguy hiểm, còn được xuất hiện như một nhân vật của công chúng chừng nào ông biết làm cho hình ảnh của mình giống một bông hoa cài lên ve áo chế độ hơn là một cái gai. Ông cũng còn được yên ổn sau khi phát biểu trên những cơ quan truyền thông ngoại quốc như BBC hay RFA Việt ngữ, chừng nào ông vẫn đủ cảnh giác trước nguy cơ “các thế lực thù địch có thể lợi dụng” “thông tin sai lệch”, như mới đây ông đã cảnh báo. Lê Công Định và Cù Huy Hà Vũ cũng phát biểu trên những cơ quan truyền thông này và họ đang ngồi sau song sắt.

Đối lập trong một chế độ toàn trị tất nhiên là phải trả giá. Tuy những người cộng sản nổi tiếng về sự thanh trừng nội bộ trong chính hàng ngũ của mình không thua gì sự đàn áp kẻ thù bên ngoài, nhưng cái giá của đối lập trung thành chưa bao giờ cao chạm trần và có thể thỏa thuận, tùy ở tài mặc cả của những người trong cuộc và cũng tùy thời giá. Thời giá hôm nay, theo tôi, thuận lợi cho những người đối lập trung thành hơn hẳn các đồng chí của họ vài thập kỉ trước. Cái giá duy nhất mà họ phải trả, như ông Chu Hảo phàn nàn, là tiếng nói phản biện của họ không có hồi âm. Tôi nghĩ, đó là một cái giá rất mềm, so với những ví dụ chúng ta được biết từ hơn nửa thế kỉ qua. Thay vì bị trừng phạt, bị thanh lí, bị vô hiệu hóa, họ chỉ không được đếm xỉa. Dĩ nhiên không có chuẩn để so sánh nỗi đau tâm lí. Ở người không được đếm xỉa, nó có thể lớn hơn ở người bị trừng phạt.

Từng là một quan chức nhà nước tương đối cao cấp, dù chỉ ở một chức vụ không có nhiều quyền bính, ông Chu Hảo hiểu rõ hơn hàng chục triệu người, vì sao số phận của phản biện ở Việt Nam lại hẩm hiu như thế. Được hỏi, vì sao các trí thức phản biện chỉ phản biện khi đã về hưu, ông giải thích rằng khi đang còn chức quyền, “họ là con người của guồng máy đó nên phải tôn trọng những kỉ luật của guồng máy” đã được xác lập. Tình thế thực ra quá rõ ràng. Hoặc là bạn đứng trong guồng máy và tôn trọng kỉ luật của nó, bạn chẳng phản biện gì hết và cũng không buồn nghe ai phản biện. Hoặc là bạn vẫn đứng trong guồng máy và thử giới hạn khoan dung của nó cũng như giới hạn chịu đựng của bạn, bạn hơi phản biện một chút và nó khạc bạn ra như một miếng đờm. Hoặc là bạn tự nguyện ra khỏi guồng máy và xắn tay lên phản biện, nhưng xin đừng gửi về địa chỉ của guồng máy và cũng đừng trách nó dửng dưng với bạn. Với nó, bạn đã không còn tồn tại và bạn nên lấy đó làm mừng, đừng gửi gắm nốt phần đời vừa được giải phóng của bạn vào chính cái cũi đã nhốt bạn chừng ấy năm trời.

Ra khỏi guồng máy dễ hơn thoát khỏi hệ thống. Hệ thống bủa vây những người đối lập trung thành trong tư duy, trong diễn đạt, trong cả vốn từ vựng của họ.

Vì sao cùng một người, ở đây là ông Chu Hảo, vừa có thể phàn nàn rằng Việt Nam không có tầng lớp trí thức đích thực theo ông định nghĩa, tức những người có một số phẩm chất, trong đó nổi bật là năng lực tư duy độc lập, lại vừa có thể nhận định rằng cái giới trí thức (chưa có) đó tiếp tục cần đến sự lãnh đạo (có thực) của Đảng Cộng sản Việt Nam, như trong phát biểu mới đây của ông trên BBC?  Tôi xin thử một câu trả lời: nửa thế kỉ qua, hệ thống toàn trị của Đảng đã biến đổi thành công bộ nhiễm sắc thể của các đảng viên, “sự lãnh đạo của Đảng” đã ăn vào gen trong cơ thể họ và tự động phát tiết, trong cả những tình huống không phù hợp nhất. Năm 2012 mở đầu với nhiều tin xấu: vụ bắt giữ nhà báo Hoàng Khương, vụ xung đột ở Tiên Lãng, vụ xét xử Lê Văn Luyện, những vụ xe cứ cháy người cứ chết từ cuối năm ngoái chưa dứt… Với tôi, phát ngôn của ông Chu Hảo, rằng “chưa nhất thiết giải thể sự lãnh đạo của Đảng với tầng lớp trí thức ở trong nước”, là thông điệp tệ nhất. Nếu nó đến từ ông Đinh Thế Huynh, sếp tư tưởng đương chức của Đảng, thì tôi có chút cảm thông. Ông ấy cần công ăn việc làm, vì chắc chắn không được đâu mời làm trưởng thôn như Bộ trưởng Đinh La Thăng nếu mất chức, mà cũng không làm thơ hay như ông Nguyễn Khoa Điềm, người tiền nhiệm của ông hai khóa trước, để cuộc sống tiếp tục có ý nghĩa. Hơn hai mươi năm trước, các nhà lãnh đạo tư tưởng Đông Đức cũng rất bế tắc khi bỗng nhiên không ai cần đến sự lãnh đạo của họ nữa. Nhưng thông điệp nói trên đến từ vị giám đốc, linh hồn và trụ cột của Nhà xuất bản Tri Thức, cái nôi quý giá cho những tác phẩm quan trọng của tri thức nhân loại có thể lọt lòng tại Việt Nam. Tinh thần toát lên từ khối tri thức mà ông Chu Hảo tổ chức truyền bá bằng một sự dấn thân đáng khâm phục ấy là tình yêu, ý thức và khát vọng tự do, trước hết là tự do tư tưởng. Vừa cổ vũ cho tự do tư tưởng, vừa biện minh cho sự cần thiết của chiếc gông tròng vào cổ trí thức Việt Nam và đè nặng lên họ, khiến họ chỉ còn nhận thức độ cao trí tuệ bằng khoảng cách từ cổ xuống đất chứ không bằng khoảng cách từ đầu lên trời? Nghịch lí, những điều chỉ có ở Việt Nam, cũng không chừa ông Chu Hảo.

Nghịch lí ấy hẳn có tên khác, “biện chứng cách mạng”, trong từ vựng chính thống. Không để ý tên tác giả, có thể nhầm phát biểu của ông Chu Hảo với phát biểu của nguyên Tổng Bí thư Đảng CSVN Lê Khả Phiêu đăng trên Quân đội Nhân dân hay phát biểu của đương kim Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người mà ông Chu Hảo thiết tha đặt kì vọng, vì cả ba ông đều sử dụng vô tư và vô trách nhiệm vốn từ vựng sáo mòn đang từng ngày làm tổ trong năng lực ngôn ngữ, công cụ và thành quả của tư duy, của cộng đồng. “Đổi mới” thì luôn đi kèm “quyết tâm” như thuở nào và hai thứ này cộng lại luôn phải “triệt để và sâu rộng” cũng như “chỉ đạo” thì cần “quyết liệt”, “sửa đổi” thì phải “căn bản”, “thực hiện” thì “nghiêm túc”; các “thảo luận” thì không tránh khỏi “thẳng thắn, dân chủ” và chỉ có cách “ưu tiên, mở rộng” chúng; “hạn chế, yếu kém” thì Đảng cần “khắc phục” và “chủ nghĩa cá nhân” thì cần “đấu tranh triệt để”. Lại “triệt để” rồi. Có doping “triệt để” lên nữa và lên nữa cũng vô ích, nhờn ngôn từ không khác nhờn thuốc kháng sinh. Không một nội dung cụ thể nào có thể sờ được trong cái cẩm nang từ vựng chính trị lười biếng đó.

Nếu cách tư duy, cách diễn đạt, nếu ngôn ngữ chính thống này hoàn toàn thắng thế thì trong vòng ba thế hệ tới, sẽ không còn ai đọc và hiểu những cuốn sách do Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành.

Nhiều người đối lập trung thành tin rằng mình phải đứng trong hệ thống, phải thuộc về nó mới có cơ hội thay đổi nó, hay ít nhất mới có điều kiện để “làm một cái gì đó có ích” như cách nói nôm na. Những cống hiến của ông Chu Hảo và nhiều trí thức đứng trong hệ thống nhưng đứng ngoài guồng máy đủ lớn để bỏ qua sự xỉa xói vô liêm sỉ từ phía những người thường xuyên đem họ ra dè bỉu, trong khi mình thì đóng tất cả các vai, từ vai em ngoan biết phận qua vai đàn anh đàn chị khinh bạc, chưa kể vai chỉ điểm, chỉ trừ vai bồi bàn trong đại tiệc thủ lợi khổng lồ của các cá nhân do hệ thống đẻ ra. Và cũng đủ lớn để bỏ qua sự mạt sát bạt mạng từ những người hùng Việt kiều ẩn danh trên mạng, những kẻ thừa khí phách để chê bai giới trí thức trong nước xu phụ quyền lực, trong khi mình thì chỉ thiếu một giọt can đảm để chính danh. Tôi kính trọng những cống hiến của ông Chu Hảo, nhưng không chia sẻ tọa độ chính trị của ông. Tôi cũng tin rằng những lựa chọn đối lập khác có thể có ích không kém, nếu không muốn nói là càng ngày càng cần thiết hơn. Song mỗi lựa chọn đều là một thực đơn trọn gói chứ không phải một buffet trong tiệc đứng để ta lẩy riêng những món vừa miệng. So với các lựa chọn đối lập khác, vị đắng trong gói đối lập trung thành còn là ít hơn cả.

Tôi biết rằng mình đứng từ xa, không thể nhìn thấu những họa tiết đang từng ngày biến hóa trong bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam, nơi vài thập niên trước có nằm mơ cũng không thấy những cánh cửa đã mở của hôm nay. Những bước đi rất nhỏ, rất chậm, rất vất vả, đã gộp thành một chặng đường. Tôi biết rằng từ một vị trí ưu đãi, không có gì để mất trừ hi vọng gặp lại quê hương và gia đình, mình dễ bất công hay dễ đánh mất sự cảm thông với những thỏa hiệp không tránh khỏi của những người phải tồn tại trong một chế độ toàn trị. Nhưng từ vị trí nào thì cuối cùng chúng ta cũng đứng trước câu hỏi phải làm gì với nó. Phẫu thuật thẩm mĩ cho một chế độ toàn trị là giúp nó tồn tại mĩ miều hơn.

Đến tận những ngày cuối cùng của Cộng hòa Dân chủ Đức, một số trí thức và văn nghệ sĩ hàng đầu của quốc gia này còn theo đuổi mô hình một chủ nghĩa xã hội nhân đạo. Họ cũng là những nhà đối lập trung thành, muốn cải tạo chứ không phá bỏ hệ thống. Sứ mệnh không thành của họ, ở thời lịch sử sắp cáo chung, còn dễ định nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam nay chỉ còn trên giấy tờ, trong sách giáo khoa và trong tâm tưởng của thế hệ những người từng coi nó là lí tưởng sống. Các nhà đối lập trung thành ở Việt Nam phải theo đuổi một chủ nghĩa xã hội hồng có bộ mặt người trên lí thuyết và đối diện với một chủ nghĩa tư bản đỏ có bộ mặt rừng rú trong thực tế. Sứ mệnh của họ là cải tạo hệ thống nào để ngăn chặn sự sụp đổ của hệ thống nào, thật không dễ trả lời, chưa nói tới việc thực hiện.

Nhưng ông Chu Hảo là người lạc quan. Lạc quan vô tận. Tạp chí Xây dựng Đảng Xuân Nhâm Thìn này có bài “Tết đến rồi…!” của ông. Cứ từ từ, “tất cả mọi sự tốt đẹp bao giờ cũng ở phía trước”, như ông tuyên bố.


.
.
.

No comments: