Saturday, February 19, 2011

DẤU CHẤM HẾT CHO KỶ NGUYÊN ỔN ĐỊNH TẠI ĐÔNG NAM Á?

Đăng bởi anhbasam on 18/02/2011

THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Sáu, ngày 18/02/2011
TTXVN (Luân Đôn 12/2)

Nhận định về môi trường an ninh tại khu vực Đông Nam Á, chuyên mục phân tích tháng 1/2011 của Viện Hoàng gia An ninh và Quốc phòng Anh đăng bài của chuyên gia nghiên cứu về an ninh châu Á Brijesh Khemlani từ Trường Đại học Kinh tế Chính trị Luân Đôn (LSE) cho rằng sự hứng thú cũng như sự can dự ngày càng lớn của Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ tại khu vực Đông Nam Á có thể sớm đặt dấu chấm hết cho môi trường an ninh tương đối ôn hoà mà Đông Nam Á đã có đựơc trong 2 thập kỷ qua.

Chạy đua vũ trang trong khu vực

Bộ trưởng Quốc phòng Inđônêxia Purnomo Yusgiantoro hiện đang thực hiện nhiệm vụ tăng cường thực lực cho các lực lượng vũ trang dần già cỗi của quốc đảo này. Với ngân sách quốc phòng 2011 lên tới 6,3 tỷ USD, ông Yusgiantoro đang mường tượng về một loạt các phi đội máy bay chiến đấu Sukhoi thế hệ mới nhất, các tàu ngầm và tàu chiến tân tiến và một thực lực tiếp viện trên không hiện đại cùng với một ngành công nghiệp quốc phòng nội địa được phục hồi. Không muốn bị rớt lại phía sau, các quốc gia khác tại Đông Nam Á có vẻ như cũng đang theo đuổi con đường của Inđônêxia.

Trong bối cảnh một Trung Quốc ngày càng “quyết đoán” hơn và những tranh chấp lãnh thổ, chính trị kéo dài, môi trường an ninh ổn định tại Đông Nam Á đang phải chứng kiến một sự thay đổi âm thầm. Một làn sóng mua vũ khí quốc phòng từ Mianma cho tới Inđônêxia đã thúc đẩy một cuộc chạy đua vũ trang khu vực. Theo số liệu từ Hệ thống Dữ liệu Chuyển giao Vũ khí của Viện Nghiên cứu Hoà bình Quốc tế Stockholm thì số vũ khí chuyển giao tới Đông Nam Á đã tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 2005-2009 so với 5 năm trước đó, trong đó vũ khí chuyển giao tới Malaixia tăng 722%, Xinhgapo tăng 146% và Inđônêxia tăng 84%.

Xinhgapo đã nổi lên trở thành thành viên đầu tiên của ASEAN lọt vào danh sách 10 nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất toàn cầu kể từ Chiến tranh Lạnh. Inđônêxia đã tăng ngân sách quốc phòng năm 2011 của mình lên 6,3 tỷ USD và mức chi tiêu này lần đầu tiên vượt quá ngưỡng 1% GDP trong nhiều năm qua. Việt Nam cũng đã ký một thoả thuận khoảng 2 tỷ USD với Nga để mua 6 tàu ngầm lớp Kilo chạy dầu ngay sau một thoả thuận mua 20 máy bay chiến đấu Sukhoi-30 tầm xa. Thái Lan cũng đã đặt 12 máy bay chiến đấu JAS Gripen từ Thuỵ Điển để hiện đại hoá lực lượng không quân đang già cỗi của mình. Malaixia thì vừa nhận 2 tàu ngầm Scorpene và đặt tại cảng hải quân Borneo.

Một Trung Quốc ngày càng “quyết đoán”

Bất kể các mối liên hệ kinh tế mạnh mẽ của khu vực với Trung Quốc, việc mua sắm các loại vũ khí tinh vi đã được thúc đẩy bằng sự phát triển quân sự hết sức nguy hiểm của con vật kếch xù (mô tả Bắc Kinh – PV) cũng như những tuyên bố chủ quyền đối với Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông – PV). Báo cáo hàng năm của Lầu Năm góc về thực lực quân sự của Trung Quốc đã nêu bật những thực lực ngày càng lớn mạnh của nước này trong lĩnh vực tên lửa tầm xa, các lực lượng hải quân và kho hạt nhân. Động lực phát triển quân sự một cách bí mật đã cho phép người khổng lồ Đông Á phát triển quân sự một cách bí mật đã cho phép người khổng lồ Đông Á phát triển các thực lực triển khai sức mạnh bên ngoài biên giới. Xét về truyền thống, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) trước đây bị giới hạn ở các chiến dịch xuyên eo biển, nhưng giờ đây PLA được cho là đã có đủ thực lực để tiến hành các chiến dịch quân sự vượt ra ngoài cả Đài Loan, khiến cho các láng giềng trong khu vực hết sức lo ngại.

Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông cũng là một sự khó chịu đáng kể đối với một số thành viên nhất định của ASEAN. Tháng 7/2010, Trung Quốc tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với Biển Đông và tiến hành một loạt các cuộc tập trận hải quân quy mô lớn ở vùng biển này, coi đây là một lời cảnh báo đối với các nước láng giềng nhỏ hơn. Một loạt các quốc gia ASEAN, trong đó có Malaixia, Việt Nam, Brunây, Philippin và Inđônêxia, cũng có tuyên bố chủ quyền một phần đối với vùng biển tranh chấp vốn được cho là giàu dầu mỏ, khoáng sản và đã chứng kiến những cuộc đụng độ dữ dội trong quá khứ. Sự bùng phát của cuộc tranh cãi ngoại giao giữa Trung Quốc và Nhật Bản liên quan tới vùng biển tranh chấp ở Biển Hoa Đông hồi tháng 9/2010 có thể được coi là một dấu hiệu của những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Với thực tế đó, các quốc gia Đông Nam Á đang phải tự củng cố để sẵn sàng cho một viễn cảnh như vậy khi mà những căng thẳng leo thang tại Biển Đông. Việc Trung Quốc tăng cường tuần tra tại vùng biển này đã làm gia tăng quan ngại và các quốc gia trong khu vực đang nỗ lực đối phó với sự lớn mạnh này thông qua việc hình thành liên minh với các cường quốc khác.

Những “bên tham gia” khác trong khu vực

Tình hình địa chính trị không thể dự báo trước được của khu vực đã thu hút sự quan tâm của các đối thủ nặng ký khác như Mỹ và Ấn Độ. Sau nhiều năm thờ ơ về chính trị, Mỹ đã chuyển sự chú ý trở lại khu vực với mục đích kiềm chế ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 17 tại Việt Nam tháng 10/2010, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã “cân não” Trung Quốc khi đưa ra đề nghị làm trung gian cho tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông. Nhân tố nổi bật nhất trong lời đề nghị này của Mỹ là mối quan hệ quân sự đang nồng ấm trở lại giữa Mỹ và Việt Nam. Vấn đề còn đóng băng trong mối quan hệ song phương nồng ấm này có lẽ là thoả thuận hạt nhân dân sự đang được các quan chức Mỹ và Việt Nam đàm phán, theo đó sẽ cho phép quốc gia Đông Nam Á này được mua các công nghệ và nhiên liệu hạt nhân.

Ấn Độ cũng tích cực lôi kéo các nước trong khu vực để thực hiện “chính sách hướng Đông” của mình, tăng cường các thoả thuận thương mại và hợp tác quân sự với các quốc gia như Việt Nam và Malaixia. Trong khi “chính sách hướng Đông” của Ấn Độ ban đầu chỉ là nhằm tăng cường các mối quan hệ thương mại và kinh tế với Đông Á nhưng chính sách này ngày càng mở rộng về quy mô quân sự và chiến lược nhằm đối trọng với chiến lược “chuỗi ngọc trai” đang được thảo luận rộng khắp của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương. Cụm từ nói trên được dùng để mô tả việc cung cấp tài chính và xây dựng các cảng biển, các căn cứ thiết bị hải quân của Trung Quốc tại các quốc gia như Mianma, Bănglađét, Xri Lanca và Pakixtan.

Nhờ có mối quan hệ chính trị chặt chẽ trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Việt Nam được coi là một đầu mối quan trọng trong chính sách Đông Nam Á của Ấn Độ nhờ vị trí địa chính trị chiến lược và có mối quan hệ thù địch trong lịch sử với Trung Quốc. Trong những năm gần đây, cả Niu Đêli và Hà Nội đã tăng cường hợp tác quân sự: các lực lượng vũ trang Ấn Độ đã cung cấp cho các đối tác phía Việt Nam các hệ thống rađa tân tiến, cung cấp các thiết bị duy tu và sửa chữa các loại vũ khí quân sự hạng nặng (thường có nguồn gốc từ Nga), và hai bên cũng đã tổ chức nhiều cuộc diễn tập hỗn hợp. Ngoài ra, một bước đi quan trọng nữa của Ấn Độ là việc Không quân nước này hồi tháng 9/2010 đã nhất trí với chương trình huấn luyện 2 năm để đào tạo các đối tác phía Malaixia trong việc điều khiển và vận hành các máy bay chiến đấu Sukhoi-30 do Nga sản xuất.

Sự hiện diện ngày càng lớn của Ấn Độ tại khu vực cũng cần phải được nhìn nhận trong bối cảnh các mối quan hệ của nước này với Trung Quốc đang đi xuống liên quan đến tranh chấp tại Himalaya. Việc truyền thông Ấn Độ đưa tin về việc ngày càng có nhiều đơn vị của Quân đội Trung Quốc thâm nhập vào lãnh thổ Ấn Độ, cùng với quyết dịnh của Bắc Kinh trong việc cấp các loại thị thực có đóng dấu khác nhau cho công dân của Casơmia, đã dẫn tới những căng thẳng ngoại giao ngày càng gia tăng giữa hai người khổng lồ châu Á. Trong khi chuyến thăm gần đây của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tới Ấn Độ hồi cuối năm ngoái là một nỗ lực để hàn gắn chiếc cầu nối và thúc đẩy ngoại giao thương mại, tuyên bố đưa ra sau cuộc gặp không nhắc lại chính sách một Trung Quốc – một sự khác biệt lớn từ các tuyên bố trước đây và là dấu hiệu cho thấy quan điểm cứng rắn hơn của Ấn Độ đối với nước láng giềng lớn hơn này. Lo ngại về tầm với chiến lược ngày càng lớn của Bắc Kinh cũng như ảnh hưởng của nước này tại sân sau của mình, Niu Đêli đang nỗ lực lôi kéo các quốc gia láng giềng Đông Nam Á nhỏ hơn có cùng những quan ngại về việc phải sống dưới cái bóng của một Trung Quốc đang lên.

Chiến lược nước đôi của các thành viên ASEAN cũng đã tạo ra nhiều sự lo lắng từ phía Bắc Kinh, nơi các nhà hoạch định chính sách đang hết sức quan ngại về một sự bao vây do Mỹ dẫn đầu. Tháng 7/2010, chuyên mục xã luận trên tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc đưa ra một lời cảnh báo đối với ASEAN: “Các nước Đông Nam Á cần phải hiểu rằng bất cứ một nỗ lực nào nhằm tối đa hoá lợi ích bằng việc chơi trò chơi cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc là hết sức mạo hiểm. Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ quyền được bảo vệ các lợi ích cốt lõi của mình bằng các biện pháp quân sự”. Trong khi khả năng về một cuộc chiến tranh vẫn còn xa nhưng động lực mua sắm vũ khí tại Đông Nam Á là một dấu hiệu cho Trung Quốc thấy rằng các quốc gia khu vực sẽ không phải “dễ bảo” khi mà họ buộc phải bảo vệ các lợi ích chiến lược của mình, và điều này sẽ làm phức tạp thêm tình hình an ninh tại khu vực.

Môi trường an ninh khu vực đang bị huỷ hoại

Việc mua bán vũ khí ngày càng tăng cũng cho thấy sự bất lực của ASEAN trong việc tạo ra một cấu trúc an ninh mới cho khu vực. Những tranh cãi chính trị, các phong trào nổi loạn, tranh chấp lãnh thổ khiến bức tranh an ninh khu vực thêm u ám và đổ thêm dầu vào ngọn lửa mua sắm vũ khí. Bị khoá chặt trong cuộc tranh chấp đường biên với Campuchia, Thái Lan cũng đang nỗ lực kiềm chế sự bất ổn kéo dài 6 năm tại các tỉnh miền Nam của mình. Mianma đang tăng cường kho vũ khí và thực lực quân sự của mình vì lo ngại các cuộc nổi loạn của các bộ tộc và cả vì sự lo ngại của giới quân sự cầm quyền về một cuộc xâm lược từ bên ngoài. Malaixia và Inđônêxia thì vẫn đang tranh cãi về biên giới trên biển với căng thẳng có vẻ như ngày càng gia tăng liên quan tới vụ cảnh sát biển Malaixia bắt giữ 3 quan chức ngư nghiệp của Inđônêxia hồi tháng 8/2010. Trong khi khu vực Đông Nam Á nhiều thập kỷ qua chỉ phải đối mặt với nguy cơ xung đột ở mức thấp, nhưng việc gồng mình về tài chính cũng như sự gia tăng ảnh hưởng của giới quân sự tại các quốc gia như Inđônêxia và Thái Lan có nghĩa là sẽ có nhiều nguồn tài chính hơn sẽ được đổ vào để nâng cấp các hệ thống vũ khí cũ nhằm đối phó một cách hiệu quả hơn với các nguy cơ khu vực và tại mỗi nước.

Việc phát hiện mới đây về chương trình tên lửa đạn đạo và hạt nhân của Mianma cũng đã rung lên tiếng chuông cảnh tỉnh đối với toàn khu vực. Trong khi ASEAN vẫn im lặng về sự việc, vì thiếu thông tin liên quan tới bản chất các hoạt động hạt nhân của Mianma, những tham vọng hạt nhân không được kiểm soát của giới cầm quyền quân sự tại nước này có thể làm thay đổi cán cân quyền lực khu vực và có thể châm ngòi cho một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân.

Bước vào năm 2011, bức tranh an ninh ôn hoà của Đông Nam Á có vẻ như chắc chắn tiến tới một kỷ nguyên không thể đoán định được. Vấn đề mấu chốt đối với hoà bình và ổn định của ASEAN nằm ở sự kiểm soát cẩn trọng các mối quan hệ với Trung Quốc và một sự phụ thuộc lớn vào đối thoại chính trị hai bên để giảm những căng thẳng song phưong trong khối. Đồng thời, việc đầu tư lớn hơn vào các mối quan hệ với các nước lớn trong khu vực như Ấn Độ hay Nhật Bản cũng sẽ giúp cân bằng ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc. Ký ức về những năm tháng dữ dội của Chiến tranh Lạnh vẫn luôn khắc sâu trong tâm trí của mỗi người dân Đông Nam Á. Cuộc ganh đua gay gắt giữa các cường quốc và sự tồn tại dai dẳng của những tranh chấp và căng thẳng gây ra sự tàn phá cho cả hai bên giữa các quốc gia ASEAN sẽ chỉ dẫn tới một chu trình xung đột bất ổn khác.

*
*       

(Đài TNHK 11/2)

Hiện có quan ngại về một cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực Đông Nam Á trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng tại khu vực. Tại một cuộc hội thảo có chủ đề ‘Hiện đại hoá quân đội ở Đông Nam Á: Một cuộc chạy đua vũ trang?’ ở trung tâm Đông Tây tại Oasinhton, các nhà quan sát cho rằng nhiều quốc gia Đông Nam Á đã gia tăng chỉ tiêu quốc phòng thời gian qua và tăng cường ‘mua sắm’ các thiết bị quân sự tối tân. Như nhận định của Tiến sĩ Richard Bitzinger từ Trường Quan hệ Quốc tế S.Rajaratnam ở Xingapo, cho dù việc mua sắm khí tài đó không đáp ứng các tiêu chí về một cuộc chạy đua vũ trang, thì quá trình hiện đại hoá quân đội mạnh mẽ có thể làm thay đổi đáng kể quy mô của các cuộc xung đột tiềm tàng trong tương lai. Dưới đây là các ý kiến của ông Bitzinger trong chuyên mục ‘Câu chuyện Việt Nam’ kỳ này:

-  Theo đánh giá của ông, các lý do nào dẫn tới quá trình hiện đại hoá vũ khí tăng tốc ở Đông Nam Á?
+ Tôi muốn chia các lý do thành hai phần: một là các yếu tố mang tính thúc đẩy và hai là các yếu tố mang tính điều kiện. Đối với thành phần đầu tiên, những lý do khiến nhiều nước Đông Nam Á tiến hành hiện đại hoá quân đội gồm có: các căng thẳng trong khu vực như vấn đề tranh chấp lãnh hải hay các tuyên bố chủ quyền trái ngược tại các khu đặc quyền kinh tế ở biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông); nhu cầu tăng cường khả năng quân sự để có thể chống đỡ được các thế lực khác nhau cũng như bảo vệ các tuyến hàng hải quan trọng; việc chuyển hướng các hoạt động quân sự của Mỹ từ Đông Á sang Đông Nam Á cũng như ảnh hưởng quân sự  của Trung Quốc gia tăng ở khu vực biển Nam Trung Hoa. Bắc Kinh đã xây dựng các căn cứ hải quân, triển khai tàu ngầm cũng như máy bay chiến đấu trên đảo Hải Nam ở khu vực biển tranh chấp này. Còn về thành phần thứ hai mang tính điều kiện, thì có thể kể tới chuyện các quốc gia có thêm ngân quỹ để mua sắm vũ khí. Tổng cộng, chi tiêu quân sự của các nước Đông Nam Á gia tăng 50% trong khoảng thời gian từ năm 2000 tới năm 2005. Thêm nữa, một yếu tố khác là khả năng sẵn sàng đáp ứng khách hàng của các nhà máy sản xuất vũ khí. Phần lớn các nước sản xuất vũ khí hàng đầu, đặc biệt là ở Tây Âu, Nga hay Ixraen về cơ bản sản xuất vũ khí để xuất khẩu sang các nước khác, chứ không phải để dùng ở trong nước.

- Có ý kiến cho rằng nhiều quốc gia mua sắm vũ khí để cho ‘bằng bạn, bằng bè’, ông có đồng ý với quan điểm đó không?
+ Có một số yếu tố khác tôi gọi là không mang tính chiến lược như niềm tự hào hay thanh thế của một quốc gia. Nước nào cũng muốn có máy bay chiến đấu mới bay trên bầu trời hay xe tăng chạy dọc trên đường phố nhân ngày quốc khánh. Ngoài ra còn là tư duy ‘anh có thì tôi cũng muốn mua’. Thêm nữa, còn là vấn đề tham nhũng. Nhiều nơi người ta có thể lợi dụng các hợp đồng vũ khí để trục lợi. Cuối cùng, nếu vũ khí sẵn có trên thị trường, và các nhà sản xuất mạnh mẽ thúc đẩy việc bán các sản phẩm với chất lượng cao nhất, thì dĩ nhiên việc mua bán sẽ dễ dàng hơn.

- Vậy các quốc gia trong vùng này mua sắm khí tài gì, thưa ông?
+ Tôi muốn nhấn mạnh một điều, rằng thị trường vũ khí Đông Nam Á tương đối nhỏ, trung bình chi ra khoảng 2 tỷ USD mỗi năm, nhưng đây là một thị trường đang tăng trưởng và mở ngỏ cho các nước sản xuất khác nhau. Về không lực, phần đông các quốc gia lớn thuộc khu vực ASEAN đã chi tiền mua máy bay chiến đấu thế hệ mới, mà người ta gọi là thế hệ 4 hay 4+. Xinhgapo mua máy bay chiến đấu F15. Trong quá khứ, họ mua nhiều máy bay F16. Malaixia, Inđônêxia và Việt Nam thì mua máy bay chiến đấu Su-30 của Nga. Về hải quân, Xinhgapo, Malaixia và Inđônêxia đều mua thêm các tàu khu trụccủa Thuỵ Điển, Anh và Hà Lan. Việt Nam cũng ký hợp đồng mua tàu ngầm lớp kilo của Nga. Các lực lượng bộ binh của các nước này cũng tăng cường khí tài. 10 -15 năm trước đây, ý tưởng về việc xe tăng chiến đấu loại lớn có mặt ở Đông Nam Á là điều không tưởng, nhưng giờ thì chuyện đó đã thay đổi.

- Vậy, việc các quốc gia ASEAN tăng cường mua sắm vũ khí thời gian qua có thể được coi là một ‘cuộc chạy đua vũ trang’ không?
+  Những sự kiện xảy ra thời gian qua ở khu vực khiến người ta nghĩ rằng dường như đang có một cuộc chạy đua vũ trang gây bất ổn ở Đông Nam Á. Trong khi nghiên cứu, bản thân tôi đã xem xét các học thuyết của các tác giả khác nhau về các thành tố cấu thành một cuộc chạy đua vũ trang, như vấn đề đối đầu giữa hai nước kiểu như Mỹ và Liên Xô trước đây; việc chủ tâm tái cơ cấu quân đội dựa trên thái độ của đối thủ cũng như lập kế hoạch về quân sự dựa trực tiếp trên các tính toán về khả năng và mục tiêu của đối thủ hay tăng cường chi tiêu quốc phòng và gia tăng mua sắm vũ khí với tốc độ nhanh và số lượng lớn. Xét về tất cả các tiêu chí trên, thì tôi cho rằng khó có thể coi khu vực Đông Nam Á đang chạy đua vũ trang. Điều tôi muốn nói là ít quốc gia ở Đông Nam Á đang thực sự tham gia cuộc chơi. Tại nhiều quốc gia ASEAN như Brunây, Mianma, Campuchia hay Lào, ngân quỹ dành cho quốc phòng dưới một tỷ USD một năm và ít tăng thêm. Họ không mua nhiều vũ khí và mất nhiều thời gian để mua một thứ gì đó.

-  Yếu tố Trung Quốc có tác động tới  công cuộc hiện đại hoá quốc phòng tại các quốc gia Đông Nam Á không, thưa ông?
+  Phải nói rằng yếu tố Trung Quốc làm phức tạp việc hoạch định chính sách mua sắm vũ khí ở khu vực và cũng củng cố các giả thuyết về ‘cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực’. Xét về một khía cạnh nào đó, dĩ nhiên có thành tố ‘chống Trung Quốc’ trong việc mua sắm vũ khí ở Đông Nam Á, nhất là khi xét về việc tăng cường hải quân của các nước trong khu vực, đặc biệt là Việt nam, nhưng khó có thể nói rằng ASEAN đang chạy đua vũ trang với Trung Quốc. Bản thân Bắc Kinh cũng vậy, tôi không nghĩ là họ cho rằng mình vũ trang để chạy đua với các quốc gia Đông Nam Á./.
.
.
.

No comments: