Tin Buồn:
Saturday, 13 November 2010
Kinh thưa các bạn
Nhà Văn CAO XUÂN HUY
Tác giả hồi ký THÁNG BA GÃY SÚNG đã giã từ chúng ta vào lúc 4:57 phút chiều thứ sáu 13 tháng 11-2010 (giớ Califoirnia).sau mot thời gian bị bạo bệnh, tại tư gia thuộc thành phố Lake Forest, Orange County, California.
Tác giả hồi ký THÁNG BA GÃY SÚNG đã giã từ chúng ta vào lúc 4:57 phút chiều thứ sáu 13 tháng 11-2010 (giớ Califoirnia).sau mot thời gian bị bạo bệnh, tại tư gia thuộc thành phố Lake Forest, Orange County, California.
Nhà Văn Cao Xuân Huy sinh năm 1947 tại Bắc Ninh, Việt Nam .
Nguyên Trung Uý Đại Đội Phó ĐĐ 4 thuộc TĐ 4 TQLC,
bị CS Bắc Việt bắt tại mật trận Quảng Trị vào tháng 3-1975 và bị cầm tù 5 năm.
Ông vượt biển đếnCali năm 1983.
Tang lễ sẽ cử hành tại Peek Family (Bolasa- LittleSaigon ), nhưng hiện nay gia dình chưa có giờ quàn, thăm viếng và tiễn đưa.
Xin thanh thật chia bùôn cùng chị Cao Xuan Huy, tang quyền và xin cầu nguyện cho linh hồn bạn Cao Xuân Huy sớm siêu thoát.
Ghi Chú; Trong chuong trinh Huynh De Chi Binh/SBTN vào ngày thứ năm 19/11 vào lúc 2:00PM và thứ bảy 21/11 vào lúc 10PM,(gio Cali) chúng tôi sẽ chiếu lại cuộc phỏng vấn Cao Xuan Huy vào tháng 6-2007 về những ngày tháng 3 của TQLC Cao Xuan Huy tại mặt trận Quang Trịị cũng nhưng tâm tình cua ông về Tháng Ba Gãy Súng.
Huy Phương
Nguyên Trung Uý Đại Đội Phó ĐĐ 4 thuộc TĐ 4 TQLC,
bị CS Bắc Việt bắt tại mật trận Quảng Trị vào tháng 3-1975 và bị cầm tù 5 năm.
Ông vượt biển đến
Tang lễ sẽ cử hành tại Peek Family (Bolasa- Little
Xin thanh thật chia bùôn cùng chị Cao Xuan Huy, tang quyền và xin cầu nguyện cho linh hồn bạn Cao Xuân Huy sớm siêu thoát.
Ghi Chú; Trong chuong trinh Huynh De Chi Binh/SBTN vào ngày thứ năm 19/11 vào lúc 2:00PM và thứ bảy 21/11 vào lúc 10PM,(gio Cali) chúng tôi sẽ chiếu lại cuộc phỏng vấn Cao Xuan Huy vào tháng 6-2007 về những ngày tháng 3 của TQLC Cao Xuan Huy tại mặt trận Quang Trịị cũng nhưng tâm tình cua ông về Tháng Ba Gãy Súng.
Huy Phương
.
.
.
Nov 13th, 2010
Nghiên Bút Vẫn Còn Đây
Hồn Thiên Thu Phiêu Bạt
Tiễn Biệt Nhà Văn Cao Xuân Huy
Hồn Thiên Thu Phiêu Bạt
Tiễn Biệt Nhà Văn Cao Xuân Huy
Nhà văn Cao Xuân Huy, tác giả của Tháng Ba Gãy Súng, đã qua đời lúc 4:50 chiều thứ Sáu 12 11 2010 tại nhà riêng sau một thời gian dài chống chỏi với căn bịnh ung thư gan.
Nhà văn sinh 1947 tại Bắc Ninh, quê ngoại Hà Nam . Tháng 10 1954, theo mẹ di cư vào Nam . Nhập ngũ tháng 2 1968, binh chủng Thủy Quân Lục Chiến với đơn vị cuối cùng là Tiểu Đoàn 4 Kình Ngư. Bị Cộng Sản bắt làm tù binh tháng 3 1975 và bị tù cho đến tháng 9 1979. Ông vượt biên tháng 11 1982 và định cư tại Mỹ vào tháng 10 1983.
Nhà văn Cao Xuân Huy là một cây viết được nhiều người yêu mến và cũng là một ký giả từng cộng tác với nhiều tờ báo Việt ngữ tại miền Nam California.
Ban Biên Tập, văn nghệ sĩ cộng tác và độc giả NguoiVietBoston xin chia buồn cùng tang quyến và thành kính tiễn đưa nhà văn Cao Xuân Huy về cõi vĩnh hằng.
NguoiVietBoston
.
.
.
Saturday, November 13, 2010
LAKE FOREST, California (NV) - Ông Cao Xuân Huy, tác giả cuốn hồi ký “Tháng Ba Gãy Súng,” qua đời chiều Thứ Sáu 12 tháng 11, 2010, sau một thời gian bạo bệnh, tại tư gia ở Lake Forest, California.
Nhà văn Cao Xuân Huy (trái) trong ngày ra mắt cuốn sách “Vài mẩu chuyện.” (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)
Tại hải ngoại, ông Cao Xuân Huy từng cộng tác với báo Người Việt trong nhiều năm, cũng như với tuần báo Việt Tide. Ông nhiều lần làm tổng thư ký tạp chí Văn Học và chủ biên tạp chí này.
Tuy hoạt động rất nhiều với văn chương, ông ít khi tự nhận mình là nhà văn. Trong bài tựa cuốn hồi ký “Tháng Ba Gãy Súng,” ông viết, “Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ.”
Nhà thơ Du Tử Lê cũng viết rằng ông Cao Xuân Huy “là người luôn từ chối hai chữ ‘nhà văn’ một cách thẳng thắn, với đôi chút khinh bạc của một Thủy Quân Lục Chiến, binh chủng ông từng vào sinh, ra tử, suốt tuổi thanh xuân, cộng thêm 5 năm tù ‘cải tạo!’”
Ông Cao Xuân Huy sinh năm 1947 tại Bắc Ninh, Việt Nam . Ông đi lính năm 1968, là cựu Trung Úy Ðại Ðội Phó ÐÐ 4 thuộc Tiểu Ðoàn 4 Thủy quân lục chiến. Tại mặt trận Quảng Trị vào tháng 3, 1975, ông bị bắt làm tù binh và bị cầm tù 5 năm.
Năm 1982 ông vượt biên và đến Mỹ năm sau đó. Năm 1985, ông in cuốn hồi ký “Tháng Ba Gãy Súng.” Bốn tháng trước khi qua đời, ông Cao Xuân Huy ra mắt cuốn “Vài mẩu chuyện,” do tạp chí Văn Học xuất bản.
Trong cáo phó, gia đình ông Cao Xuân Huy viết, “Mọi phúng điếu, nếu có, sẽ dành trọn để yểm trợ: Quỹ Thương binh Thủy Quân Lục Chiến VNCH, và Trại Trẻ em Cô nhi, Khiếm Thị Long Thành, Việt Nam .”
Chương trình tang lễ ông Cao Xuân Huy được cho biết như sau:
- Nghi lễ nhập quan và phát tang: 12 giờ trưa Thứ Ba 16 tháng 11.
- Nghi lễ phủ kỳ: Từ 18 giờ đến 20 giờ Thứ Ba 16 tháng 11.
- Thăm viếng: Từ 12 giờ đến 20 giờ Thứ Tư 17 tháng 11.
- Nghi lễ hỏa táng: Từ 9 giờ đến 11 giờ Thứ Năm 18 tháng 11.
Ðịa điểm: Peek Family Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683, điện thoại (714) 893-3525.
.
.
.
------------------------
13.11.2010
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng ta đi
( Huy Cận )
Người về cố quận muôn trùng ta đi
( Huy Cận )
Như vậy là ông Gẫy Súng đã lên tàu về quê.
Lần này thì súng của ông bị bẻ gẫy chẳng bởi tại người,hay bởi vận nước, mà bởi cái lẽ sinh lão bịnh tử mà không một ai thóat ra khỏi được vòng cương tỏa của nó.
Trước khi bước chân lên tàu, ông đã chiến đấu rất dũng mãnh và can trường, không kém gì trận chiến năm xưa dù sau đó súng của ông ( và của rất nhiều những chiến hữu của ông ) đã bị bẻ gẫy. Súng gẫy thì vất súng, ông cầm bút. Mấy chục năm nay lưu vong nơi xứ người, với cây bút trên tay ông đã làm được nhiều việc mà không phải ai cũng làm được. Cho đến giây phút ông không còn sức để cầm bút nữa, không một ai có thể bẻ gẫy được ngòi bút của ông. Và ông vẫn là một chiến sĩ cho đến giây phút cuối cùng. Một con Kình Ngư không hề biết sợ sóng, sợ gió.
Nay thì con Kình ngư sẽ về nằm yên nghỉ giữa biển cả mênh mông, ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ rì rào như lời mẹ ru đón con ra khỏi cuộc đời, thay cho những tiếng thét đau đớn uất hận ngày nào trên bãi biển Thuận An Huế).
Những người bạn chiến đấu của ông, những người nằm lại trên bãi biển Thuận An từ dạo tháng Ba năm ấy, hẳn sẽ vui mừng chào đón ông, như chào đón một chiến binh quả cảm đã dũng mãnh tiếp tục cuộc chiến, dù không cân sức, thay cho những đồng đội của mình bị lọai khỏi vòng chiến một cách tức tửi .
Tôi hình dung ra chuyến tàu “suốt “ vừa ngừng lại đón ông Gẫy Súng, đang từ từ tiến vào trạm cuối cùng. Trên sân ga, lố nhố những bóng người quen thuộc của bãi biển Thuận An năm nào. Người bạn chiến đấu năm xưa đã trở về, thể xác tuy mệt mỏi nhưng thần thái ung dung. Họ lại tiếp tục ngồi bên nhau uống rượu, hút thuốc lá, chửi thề, nhắc lại cho nhau những kẻ còn, người mất (trong thế giới của những người lính gẫy súng ở giờ thứ hai mươi lăm, kẻ còn tức người đã chết và người mất, tức những kẻ còn nặng nợ trần gian, chưa mãn hạn để có thể thảnh thơi bước lên tàu). Và chắc chắn, ông Gẫy Súng có rất nhiều điều để nói cùng bạn hữu. Bạn bè ông, ngoài nỗi vui gặp lại bạn cũ, hẳn còn nỗi vui khác lớn hơn. Ít nhất, thằng Tháng Ba Gẫy Súng đã nói lên được cho họ nỗi uất ức đến chết không thể nhắm mắt của một ngày tháng Ba năm 1975.
Chỉ với một tác phẩm, quyển hồi ký “Tháng Ba gẫy súng”, ông đã làm tròn vai trò một chứng nhân lịch sử, làm tròn sứ mạng thiêng liêng của một người cầm bút. Với người cùng thời, những người đã từng sát cánh với ông ở một bên chiến tuyến, ông là hiện thân của lương tâm, của sự dũng cảm, của những khát vọng được sống một cuộc sống bình thường như một con người bình thường. Với những người đã từng một thời cầm súng đứng ở bên chiến tuyến đối nghịch với ông và những bạn bè của ông, ông là ngọn gió thổi tan đi lớp sương mù ngộ nhận, gây ra bởi một guồng máy tuyên truyền vô nhân tính chỉ nhằm gieo cấy lòng thù hận giữa những người cùng một dòng máu đỏ da vàng. Với những thế hệ chưa một ngày sống qua chiến tranh, ông là ngọn đèn soi cho họ thấy sự thảm khốc cùng cực của chiến tranh, sự vô nghĩa của thân phận con người trong lửa đạn, sự độc ác vô luân của những tham vọng áp đặt chủ thuyết này, ý thức hệ nọ lên quốc gia dân tộc.
Tất cả những thành tựu không nhỏ ấy, lại là kết quả từ một tập sách mỏng, của một người vốn trước đó không phải là nhà văn. Theo lời một vị thầy của tôi (nhà văn Nguyễn Xuân Hòang), ông không phải là một nhà văn, nhưng đã viết nên “những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người".
Tôi nhớ có người nào đó bảo rằng con người ta ai cũng có hai lần chết. Lần chết thứ nhất là khi thân xác được bỏ vào quan tài . Lần chết thứ hai là khi không còn ai nhắc đến tên mình nữa.
Nếu quả đúng như vậy thì ông Gẫy Súng của tôi chỉ chết có một lần.
Bao lâu người ta còn nhắc đến, còn bàn luận về cuộc chiến tranh tương tàn khốc liệt giữa những người Việt ở hai miền Nam Bắc thì ngày ấy người ta còn phải nhắc đến tên ông, nhắc đến những ngày cuối cùng bi thảm của cuộc chiến.
Hơn 25 năm nay, tiếng kêu bi phẫn của ông Gẫy Súng đã được nhiều người lắng nghe. Mỗi người, ở vị trí của mình – trong và sau cuộc chiến – đều mang một tâm trạng khác nhau khi đọc ông . Người ta có thể phản bác ông, nhưng tôi tin rằng , không một ai – dù là người ở bên kia chiến tuyến với ông – có thể nghi ngờ tính nhân bản phủ đầy những trang viết của Tháng ba Gẫy Súng, kể cả những trang mô tả sự tàn nhẫn khốc liệt nhất, kể cả ở những câu đối thọai độc ác nhất, kiểu “ Đụ mẹ, đánh giặc đã quá ông thầy!”
Khi tôi viết những dòng này, hẳn đôi mắt ông Gãy Súng đã nhắm lại (tôi tin như vậy, vì ông có quá nhiều lý do để thanh thản ra đi). Ông có mãn nguyện không? tôi không thể quả quyết. Nhưng nếu tôi là ông, tôi sẽ mãn nguyện. Những gì cần phải làm cho người chết với tư cách kẻ sống sót, ông đã hòan thành xuất sắc.
Ông ra đi, những vẫn còn lại những trang viết, những “ trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người". Vì chúng lương thiện và giản dị, nên chắc chắn chúng sẽ bất tử.
Cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã từng kêu lên: Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? Giả như ba trăm năm sau ngày cụ Nguyễn Du lên tàu “suốt “, vẫn còn có người khóc cụ thì phỏng có ích gì cho cụ không khi thân xác cụ đã chỉ còn là nắm đất vụn. Điều quan trọng là những câu lục bát của cụ vẫn còn được lưu truyền không chỉ ba trăm năm, mà sẽ là ba ngàn năm, ba triệu năm nữa.
Còn ông Gẫy Súng của chúng tôi? Ông có cần phải thắc mắc rằng ba trăm năm sau liệu có còn ai nhớ đến ông không? Tôi không tin ông bận tâm về điều đó. Vì những trang viết lương thiện và giản dị của ông, không phải chỉ cho ông, mà còn cho một thế hệ tuổi trẻ (ở cả hai miền Nam Bắc) Việt Nam tội nghiệp. Nếu ba trăm năm sau, có kẻ hậu thế nào đó – nhờ đọc được Tháng Ba Gẫy Súng của ông – đã làm hết sức mình để tránh cho lịch sử của ba trăm năm trước lập lại, thế cũng đã quá đủ một đời phong ba rồi, phải không ông?
Mấy hôm trước, nghe tin ông đang ngấp nghé bên bờ tử sinh, tôi đã nhờ người quen kẻ biết nhắn với ông rằng “Chừng nào tới giờ lên tàu, ông cứ thanh thản lên tàu. Đừng lo cho chúng tôi. Thế nào cũng còn chỗ cho kẻ đến sau, chứ không phải như tháng Ba gẫy súng năm nào mà phải giành nhau đâu, ông Cao Xuân Huy ạ ! “.
Đường đời muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một nẻo đích thực để trở về cố hương. Đó là lối nhỏ đi qua những tấm lòng bằng hữu, với hành trang trên vai là lòng thương yêu của những người thân kẻ thuộc trong gia đình.
Ông Gẫy Súng của tôi ơi! lối nhỏ bằng hữu đang hân hoan đón chào ông, hành trang thương yêu của gia đình đang sẵn sàng chờ ông ghé vai đỡ lấy.
Chúc người về cố quận thượng lộ bình an !
T.Vấn
.
.
.
13.11.2010
Tháng ba đỉnh trời toác máu
lũ kên kên chao chiêng mùi tử khí trào dâng
tháng ba xác trẻ và người già
lũ kên kên chao chiêng mùi tử khí trào dâng
tháng ba xác trẻ và người già
Nằm bên nhau thanh thản nghe gió vi vu
bờ lau Cửa Việt sóng bủa lớn
nuốt chửng—
bờ lau Cửa Việt sóng bủa lớn
nuốt chửng—
Thành phố lạ, biển đen không đâu là nhà
tên tuổi râu quá cứng để nhớ
bản nháp cuộc đời viết mãi chưa xong
tên tuổi râu quá cứng để nhớ
bản nháp cuộc đời viết mãi chưa xong
Đêm trổ mưa, đi về như cơn mộng
rượu đỏ máu bầm cũng thế thôi
ngan ngát hoàng lan chờ bên khung cửa
rượu đỏ máu bầm cũng thế thôi
ngan ngát hoàng lan chờ bên khung cửa
Chua xót viên đạn cũ còn sưng vết thương
tháng ba trở về bờ cát đỏ
tháng ba trôi đi như ngàn sương
tháng ba trở về bờ cát đỏ
tháng ba trôi đi như ngàn sương
Lạ thổ ngơi lạ cả tình
bên kia núi còn nghe đồng vọng
u uất đêm trăng—
bên kia núi còn nghe đồng vọng
u uất đêm trăng—
Chờ ngày hóa thân
cõi lạ vừa nằm xuống đã thấy biển xưa
cát trắng—mái nhà nâu và hàng dừa
cõi lạ vừa nằm xuống đã thấy biển xưa
cát trắng—mái nhà nâu và hàng dừa
Hãy trôi đi tháng ba.
.
.
.
13.11.2010
Huy Ơi
Tại sao Huy chết tháng này
tháng này không phải tháng ba,
cũng chẳng phải tháng tư,
tại sao Huy chết
tháng này không phải tháng ba,
cũng chẳng phải tháng tư,
tại sao Huy chết
Tháng này là tháng mười một
tháng của mùa thu
của những điều nhẹ nhàng thơ mộng
ai có buồn ai
cũng buồn nỗi dịu dàng
tháng của mùa thu
của những điều nhẹ nhàng thơ mộng
ai có buồn ai
cũng buồn nỗi dịu dàng
Tháng này không phải tháng của Huy
tại sao Huy chết
tại sao Huy chết
Tại sao Huy lại rơi
như tiếng rơi
của vỏ đạn tháng ba vào cùng tiếng lá thu
sao Huy gãy ngang như báng súng
ai bẻ Huy đâu mà Huy gẫy thế này
như tiếng rơi
của vỏ đạn tháng ba vào cùng tiếng lá thu
sao Huy gãy ngang như báng súng
ai bẻ Huy đâu mà Huy gẫy thế này
Còn nhớ không Huy
ngày nhóm mình mới gặp nhau với những trái tim
còn đầy ắp một quê nhà yêu dấu
Huy cười ròn rã
vẫn nghe như tiếng súng lên nòng
ngày nhóm mình mới gặp nhau với những trái tim
còn đầy ắp một quê nhà yêu dấu
Huy cười ròn rã
vẫn nghe như tiếng súng lên nòng
Huy ơi
mùa thu tây bắc đang rụng xuống
mây thu như một giải khăn tang
Huy về bên đó êm đềm nhé
quên tháng ba súng bẻ gẫy ngang.
mây thu như một giải khăn tang
Huy về bên đó êm đềm nhé
quên tháng ba súng bẻ gẫy ngang.
Trần Mộng Tú
tháng mười một, hai ngàn mười.
.
.
.
13.11.2010
về thôi. Cao Xuân Huy
bằng lăng
tím ở chơn mày
con mắt sáng ở mù mây
cuộc chờ
“đi chưa hết biển”? tình cờ
thôi thì một nắm đất khô
hẹn về
bây giờ trời ở mê mê
mà hồn tịnh với
bộn bề nhân gian
súng gươm đưa nỗi phục hàng
về ngang tầm viết
mênh mang tự tình
câu thề
tỏ với u minh
ấm nôi bằng hữu
đăng trình cuộc du
Hoàng Xuân Sơn
tháng mười một. hai ngàn mười
tháng mười một. hai ngàn mười
.
.
.
12.11.2010
Lời Cuối
Một trăm năm cuộc đời mộng ngắn
Kẻ ăn mày trọc phú như nhau
Trời tóm lại bắt về mộ vắng
Một chỗ nằm của cải chìm sâu
Kẻ ăn mày trọc phú như nhau
Trời tóm lại bắt về mộ vắng
Một chỗ nằm của cải chìm sâu
Tôi sẽ chết có nghĩa gì đâu
Hành trang đi một túi hư vô
Trả lại hết bụi hồng lưu dấu
Cuộc nhân sinh tiếp diễn xô bồ
Hành trang đi một túi hư vô
Trả lại hết bụi hồng lưu dấu
Cuộc nhân sinh tiếp diễn xô bồ
Thức với nhau đêm tàn mưa đổ
Ngủ làm chi còn cả đời sau
Đừng ném xuống hồn tôi huyệt mộ
Mai xa rồi thêm một vết đau
Ngủ làm chi còn cả đời sau
Đừng ném xuống hồn tôi huyệt mộ
Mai xa rồi thêm một vết đau
Tôi sẽ chết có nghĩa gì đâu
Ngày khép lại thân không động nữa
Nợ dương trần tôi đã trả chưa
Hay nợ mãi mộng lòng che giấu
Ngày khép lại thân không động nữa
Nợ dương trần tôi đã trả chưa
Hay nợ mãi mộng lòng che giấu
Tôi chết rồi nỗi nhớ về đâu
Môi hôn cũ tựa màu trăng vỡ
Mảnh thề xưa rơi rụng chân cầu
Chẳng lẽ hận tình dưới mộ sâu
Môi hôn cũ tựa màu trăng vỡ
Mảnh thề xưa rơi rụng chân cầu
Chẳng lẽ hận tình dưới mộ sâu
Chẳng lẽ đi rồi còn quay lại
Quán trọ này ghé một lần thôi
Hãy cạn chén giọt chiều hấp hối
Đêm xuống thành quá khứ ngày mai
Quán trọ này ghé một lần thôi
Hãy cạn chén giọt chiều hấp hối
Đêm xuống thành quá khứ ngày mai
Tôi sẽ chết ngày mai chẳng lạ
Vài trầm hương thơ điếu vài câu
Vòng hoa trắng người mà đưa tiễn
Rồi thôi như nắm đất giữa đường
Vài trầm hương thơ điếu vài câu
Vòng hoa trắng người mà đưa tiễn
Rồi thôi như nắm đất giữa đường
Nguyễn Thị Thanh Bình
.
.
.
No comments:
Post a Comment