Thời gian và sắc màu: Viết về cuộc triển lãm tranh tại Houston ngày 21/8/2010
Phan Xuân Sinh
Thứ ba, ngày 07 tháng chín năm 2010
http://www.talawas.org/2010/09/phan-xuan-sinh-thoi-gian-va-sac-mau.html
Ngày 21 tháng 8 năm 2010 có một cuộc triển lãm tranh của các họa sĩ Nguyên Khai, Nguyễn Trọng Khôi, Dương Phước Luyến, Ann Phong và giới thiệu tập sách Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại của Huỳnh Hữu Ủy tại Viet Art Gallery, trên đường Bellaire (trung tâm của người Việt). Đây là một cuộc triển lãm thú vị, cho thấy các khuynh hướng, trào lưu khác nhau, nên người xem được thưởng lãm một cách tường tận từng sự khác biệt trong cách vẽ, sắc màu, bố cục giữa các họa sĩ.
Mở đầu là phần giới thiệu tập sách Nghệ thuật tạo hình Việt
Chúng tôi lần lượt giới thiệu:
I. Tập sách Nghệ thuật tạo hình Việt
II. Các họa sĩ tham dự triển lãm
1. Nguyên Khai
2. Ann Phong
3. Dương Phước Luyến
4. Nguyễn Trọng Khôi
I. Nghệ thuật tạo hình Việt
.
Đây là một quyển sách đồ sộ về hình thức cũng như nội dung, nhận định về hội họa và điêu khắc từ khi Việt
Để mô tả về sinh hoạt hội họa của Sài Gòn sống trong tự do, Huỳnh Hữu Ủy nhận định như sau: “Những năm giữa thập niên 1950 kéo dài đến đầu 1960, không khí văn học nghệ thuật ở Sài Gòn như hừng hực những ánh lửa kêu đòi đổi mới, khao khát sáng tạo. Làm mới, làm mới, phải bước qua những trang đời đã quá nhạt nhòa cũ kỹ không còn thể nào chịu nổi nữa. Trước vận hội đầy hứa hẹn của đất nước trẻ trung vừa vươn mình đứng dậy, sức sống sáng tạo thực sự bùng nổ. Sài Gòn đã có những tiếng nói rất mới, đầy âm vang mạnh mẽ và vô cùng thiết tha, ví dụ là những Duy Thanh, Thanh Tâm Tuyền, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Quách Thoại.”
Trong sự khao khát đó, một số nghệ sĩ từ Miền Bắc di cư mang trong lòng một chút phiêu lưu lại gặp một Miền
Cuốn sách cho ta biết về những họa sĩ như Duy Thanh, Ngọc Dũng, Tạ Tỵ, Duy Liêm, Thái Tuấn, Ngô Viết Thụ…, những cây cổ thụ của hội họa Miền Nam sau này, đều là những người tiên phong trong ngành hội họa của một Miền Nam còn son trẻ. Chúng ta cũng được biết tên tuổi của Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Nguyễn Khoa Toàn, Nguyễn Anh, Nguyễn Siêu, Trần Văn Thọ, Tú Duyên, Trần Đắc, Lê Văn Bình, Trọng Nội…, những họa sĩ tài danh của hội họa Việt Nam của thời kỳ tiền chiến. Đọc Nghệ thuật tạo hình Việt
Về Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, Huỳnh Hữu Ủy cho chúng ta biết: “Đề cập đến nghệ thuật tạo hình Sài Gòn của những năm 60 và 70 trên bối cảnh chung là tất cả nền nghệ thuật có từ trước cùng với lớp họa sĩ đứng tuổi, kỳ cựu, phải nhắc đến những nghệ sĩ, điêu khắc gia quy tụ chung quanh Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, có thể nhìn nhận họ là những đại biểu đặc sắc nhất của giai đoạn lịch sử mỹ thuật của Sài Gòn và Miền Nam trước đây. Góp phần xây dựng nền hội họa hiện đại, chúng ta đã đề cập đến Tạ Tỵ, Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng, và phải kể tiếp theo các tên tuổi như: Cù Nguyễn, Rừng, Nghiêu Đề, Đỗ Quang Em, Nguyễn Trung, Mai Chững, Dương văn Hùng, Trịnh Cung, Nguyễn Phước, Hồ Thành Đức, Nguyễn Lâm, Lê Tài Điển, Nguyên Khai, Hồ Hữu Thủ, Nghy Cao Uyên, Nguyễn Đồng. Đây là những nghệ sĩ trẻ say mê với nghệ thuật có tài hoa bẩm sinh, cộng thêm vào đó là nhiều suy nghĩ, tìm kiếm, những nghiên cứu thấu đáo ngôn ngữ tạo hình của thời đại. Sau vài cộng tác với nhau, đã phát biểu có chất lượng trong nghệ thuật tạo hình, họ cũng tự thấy là cần phải làm việc nhiều hơn, đào sâu kỹ thuật và tư tưởng, tiến về phía quảng đại quần chúng, và nhất là phải biết đặt mình trong tình cảnh của đất nước khổ đau và hùng tráng, để tìm một ngôn ngữ riêng của hội họa Việt Nam. Thái độ đó tỏ rõ rằng họ có một lập trường dân tộc tiến bộ nhưng không hẹp hòi mà cùng lúc cũng đặt mình trong tiếng nói tạo hình chung của nhân loại…”
Và:
“Hai mươi năm hội họa Miền Nam 1964 – 1975, đó là một chuyển động liền mạch nhưng mang nhiều tính bứt phá và bùng nổ, cho nên từ nhóm Sáng Tạo, nền nghệ thuật ấy đã chuyển động mạnh với sự xuất hiện của các khuôn mặt trong nhóm Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam. Chúng ta có thể khẳng định rằng nền nghệ thuật ấy, tuy chỉ ngắn ngủi trong vòng 20 năm, cũng đã thành hình và trở thành một giai đoạn mỹ thuật khá đặc biệt, rất quan trọng trong lịch sử mỹ thuật chung của toàn bộ đất nước.”
Việc làm của Huỳnh Hữu Ủy trong hội họa cũng tương tự như Võ Phiến trong văn chương, ngồi lượm lặt từng tác phẩm, từng tác giả để tạo dựng lại một sinh hoạt văn hóa của Miền Nam từ 1954 đến 1975, vì tất cả những gì trong 20 năm đó tại Miền Nam, những người thắng trận Phương Bắc đã xóa sạch không còn gốc tích. Họ chỉ đưa ra những tác phẩm tuyên truyền trong chiến tranh không có một chút nghệ thuật hay văn hóa, dưới sự chỉ đạo của guồng máy cai trị, phụng sự cho chính trị. Khi đặt văn hóa nghệ thuật của Việt
Hội VAALA, nơi bảo trợ in tập sách Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại của Huỳnh Hữu Ủy có một tham vọng lớn hơn là sẽ in tập sách này bằng Anh ngữ, do Trần Thiện Huy (một thành viên của Ban Biên tập tạp chí Da Màu) lãnh nhiệm vụ dịch thuật. Theo lời phát biểu của Ann Phong trong ngày khai mạc phòng tranh tại Houston 21 tháng 8 năm 2010 thì đây là quyển sách cần thiết cho những người muốn tìm hiểu về hội họa Miền Nam từ 1954 đến 1975. Trong các thư viện của Mỹ và trên thế giới, khi tìm hiểu hội họa Việt
Việc làm của Huỳnh Hữu Ủy mang lại một giá trị vô biên cho hội họa Việt
II. Các họa sĩ tham dự triển lãm
1. Họa sĩ Nguyên Khai
Nguyên Khai nổi tiếng từ khi mới bắt đầu ra Trường Mỹ thuật Gia Định năm 1963. Ông là người làm việc miệt mài cật lực, tham gia nhiều triển lãm từ những năm đầu tiên mới ra trường cho đến nay. Ông là một trong những người chủ chốt trong Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam, một hội mang những cải cách, bứt phá, thay đổi diện mạo hội họa Việt Nam thuở đó. Các cuộc triển lãm quan trọng của ông trong thập niên 1960 gồm: Phòng tranh Mùa Xuân tại Sài Gòn 1964; Triển lãm quốc tế Tunis 1964; Triển lãm lưỡng niên định kỳ Paris lần 4: 1965; Triển lãm quốc tế Tokyo 1966; New Delhi 1968; Brazil 1967, 1969 (Theo tài liệu của Huỳnh Hữu Ủy trong NTTHVNHĐ).
Không những Huỳnh Hữu Ủy mà cả Nguyễn Đình Toàn cũng nhận xét rằng trong tranh của Nguyên Khai dù ông vẽ bất cứ cái gì, bất cứ màu sắc nào cũng ẩn khuất chất thơ mộng:
“Nói chung, cái chất thơ mộng, lãng mạn của tâm hồn Nguyên Khai hình như lúc nào cũng chìm lẩn dưới màu sắc, dưới những đường nét. Có vẻ như ông muốn giấu bớt nó đi chứ không phô bày ra.” (Nguyễn Đình Toàn, Bông hồng tạ ơn, tr. 431-432).
“Tranh của Nguyên Khai là một thế giới vô cùng óng ả, rực rỡ, chói lòa, sang trọng và kênh kiệu. Hội họa ở đây là thi ca của màu sắc, những bài thơ rực sáng và tươi thắm, những bài thơ tượng trưng chải chuốt và thanh lọc, những bài thơ đi qua con đường siêu thực bay bổng hay trầm sâu thăm thẳm. Marc Planchon, một nhà phê bình nghệ thuật ở Sài Gòn trước đây, khi phòng tranh của Nguyên Khhai mở cửa ở phòng Thông Tin Đô Thành năm 1964, đã viết một nhận định ngắn về người họa sĩ trẻ này, đã gọi ‘Tác phẩm Nguyên Khai là hội họa? Hay là thơ được vẽ thành màu sắc?’ (Oeuvre de Nguyen Khai Peintures? ou poèmes peints? Le Journal d’Extrême-Orient, 1-10-1964)… (Huỳnh Hữu Ủy, NTTHVNHĐ, tr. 186-187).
Tất cả các nhà phê bình hội họa, nhà văn, bạn bè đồng nghiệp đều có một nhận xét giống nhau về tranh của ông là rất thơ mộng, quý phái, kiều diễm, trang nhã… nghĩa là tất cả mỹ từ cao cả dành cho ông. Ông xứng đáng được xưng tụng, vì đã cống hiến cuộc đời của mình cho sự nghiệp nghệ thuật ròng rã từ khi mới bắt đầu cầm cọ cho đến nay, gần 50 năm. Dù sống trong hoàn cảnh nào, thế sự thay đổi, biến chuyển khốc liệt, ông vẫn theo đuổi nghề nghiệp của mình, không chạy theo những danh lợi khác.
Ta hãy đọc một đoạn ông phát biểu trong Vựng tập triển lãm Hội Họa sĩ Trẻ 1969 (ghi theo Huỳnh Hữu Ủy trong tập NTTHVNHĐ, tr. 191):
“Cuộc đời ta sẽ hiến dâng tình yêu và nghệ thuật. Tất cả mọi cản trở đều là kẻ thù của ta. Nguyện đời ta như ánh sao băng trong đêm tối. Như hạt sen nẩy mầm trong vũng bùn kia. Hay ngọn sóng cao trên biển cả.”
Trong Bông hồng tạ ơn, ở phần kết luận về Nguyên Khai, Nguyễn Đình Toàn nhận xét về ông như sau:
“Nguyên Khai muốn vẽ gì thì vẽ, nhưng xem tranh Nguyên Khai hãy tìm những bức vẽ ông vẽ hoa, vẽ thiếu nữ. Những thân hình mảnh mai ấy thế nào cũng có một chỗ đầy đặn. Màu sắc của ông không làm chói mắt, nhưng trong cái vẻ trầm trầm, buồn buồn, vẫn có một điểm nào đó rực rỡ. Cái đẹp trong tranh Nguyên Khai là cái đẹp hiền hòa. Không có sự đe dọa mất mát. Tuổi trẻ tự nó là một cái đẹp, bền vững hay không là chuyện khác.
Có thể lấy câu thơ này của Tagore để nói về bức tranh thiếu nữ của Nguyên Khai:
Đàn bà
Một nửa là đàn bà
Một nửa là mộng đẹp.”
Nói về Nguyên Khai, một lời không đủ mà ngàn lời vẫn thiếu. Hãy tận mắt xem tranh của ông mới thấy được nét tài hoa của ông. Càng về già nét vẽ của ông càng bay bướm, uyển chuyển, thanh tao nhưng cũng rất cứng cỏi vì trải dài một đời kinh nghiệm trong hội họa, luôn luôn tìm nét đổi mới, khai phá. Nhưng dù có thay đổi, cái nét độc đáo riêng của Nguyên Khai vẫn tiềm tàng trong lòng người thưởng ngoạn.
2. Họa sĩ Ann Phong
Có lẽ trong phòng tranh của 4 họa sĩ có mặt, tranh của Ann Phong làm cho tôi choáng ngợp nhất bởi màu sắc rực rỡ chống đối nhau, nét vẽ táo bạo cứng cỏi, bức tranh nào cũng mang một khí thế hùng dũng, đập vào mắt người xem một ấn tượng mạnh mẽ. Ai cũng nghĩ rằng đây là tác giả đàn ông. Thế nhưng, đó là tác phẩm của nữ họa sĩ Ann Phong.
Ann Phong sinh ở Sài Gòn năm 1957. Vượt biển năm 1981, rồi sống một năm tại các trại tị nạn Malaysia và Philippines, năm 1982 đến Mỹ và định cư tại Nam California (Huỳnh Hữu Ủy, NTTHVNHĐ, tr. 579).
Có lẽ cuộc vượt biển đầy gian nguy bão táp mà chị đã chống chọi, gây cho chị một dấu ấn sâu đậm, nên họa phẩm của chị thể hiện những ngọn sóng to tát, những phong ba vần vũ, những sấm sét đầy trời. Và theo Huỳnh Hữu Ủy cho biết:
“Trải qua những năm tháng cùng khổ ở quê nhà, rồi những ngày khủng khiếp ở biển cả mênh mông, hung bạo và sau cùng nhập vào cuộc sống hoàn toàn xa lạ: Ann Phong thường bày giải kinh nghiệm riêng tư của mình qua các sáng tác nghệ thuật. Có thể nói rằng kinh nghiệm của Ann Phong cũng chính là kinh nghiệm rất đặc biệt của một cộng đồng, khổ đau và bi tráng, cùng với chiều sâu của một nền văn hóa riêng biệt.
Năm 1995, đậu cao học về ngành mỹ thuật ở Đại học
Như vậy, chúng ta biết được Ann Phong được đào tạo từ trường nghệ thuật tại Mỹ, hội nhập vào dòng nghệ thuật chính thống của Hoa Kỳ, nên trong suy nghĩ cũng như trong nét vẽ hoàn toàn mang âm hưởng của Tây phương. Tuy nhiên, đôi lúc ta cũng bắt gặp những nét dịu dàng phong thái Đông phương. Có lẽ những lúc như vậy chị lại trở về cội nguồn của mình chăng?
Trong phỏng vấn Ann Phong trên Hợp Lưu số 37, tháng 10-11/1997, Kiều Toàn (tức Khánh Trường) đặt một câu hỏi như sau: “Nhiều người nhận xét chị có một bút pháp và một bảng màu rất táo bạo, trái hẳn với nhiều họa sĩ Việt Nam khác, thuộc phái nữ. Điều ấy nói lên cái gì?”
Ann Phong trả lời: “Lối vẽ của Ann Phong rất phóng khoáng. Về mặt hình thức được diễn tả qua những nét cọ to đi kề những nét nhỏ yếu ớt. Nhưng vũng màu đậm sâm thực qua những gam màu nhạt. Những mảng màu lớn đàn áp những vệt màu nhỏ. Đường thẳng cứng vạch xuyên qua những đường cong. Màu nóng sát kề màu lạnh. Đó là cá tính của Ann Phong. Đó là cái Ann Phong chọn. Nó muốn nói lên cái gì thì chính nó sẽ “nói” với người xem. Ann Phong không thể giải thích khúc chiết. Chẳng ai có thể giải thích khúc chiết những gì thuộc thế giới tiềm thức. Chỉ biết, qua nhiều cuộc triễn lãm cá nhân và tập thể. Ann Phong đã tạo cho mình một chỗ đứng, không lẫn với nhiều đồng nghiệp khác.”
.
"Jump", tranh của Ann Phong
.
Phải thành thật nhận xét rằng tranh của Ann Phong mang một chất tố riêng biệt, một nội dung lạ lẫm, một hình thức phóng khoáng. Nhìn tranh ta đắm chìm trong suy nghĩ, tiềm thức ta hé mở tia sáng và cuối cùng nó vỡ òa thỏa mãn. Nó có vẻ đượm một chất triết lý, một chút trí tuệ mà người xem phải ngẩn ngơ dừng lại ngắm nhìn. Tranh mang chất trừu tượng nhưng không làm dáng để đánh lận suy nghĩ người thưởng ngoạn.
3. Họa sĩ Dương Phước Luyến
Tranh Dương Phước Luyến óng ả, mỹ miều. Những đề tài anh chọn rêu phong cổ kính rất thích hợp cho lối vẽ mang chất chân phương của anh. Màu sắc anh dùng gây cho ta một niềm hoài cổ man mác. Anh đúng là một họa sĩ tiêu biểu cho quê hương xứ Huế của anh.
Dương Phước Luyến là người có nét vẽ độc đáo, anh lại dùng màu nước trên một loại giấy rất cổ. Đó là “giấy dó”, một loại giấy mỹ nghệ thủ công của làng Yên Thái gần Hà Nội. Xuất thân trong ngành kiến trúc, nên cái nhìn của Dương Phước Luyến vào mọi sự vật trước hết tỉ mỉ và chính xác. Tranh của Dương Phước Luyến bố cục cân xứng, màu sắc tương ứng nên ta không tìm thấy những cảnh tượng nhem nhuốc, lòe lẹt. Anh đi từ kiến trúc qua hội họa một cách dễ dàng và tôi nghĩ anh thành công trên địa hạt này. Tranh của anh đi vào lòng người xem dễ dàng và chiếm lĩnh họ cũng dễ dàng.
Trong phần viết về Dương Phước Luyến. Huỳnh Hữu Ủy nhận xét như sau:
“Dương Phước Luyến yêu nghề hội họa và yêu đất nước của mình. Anh đi và ghe chép. Ghi chép khắp nơi, với sự chọn lọc bằng cảm quan riêng của mình. Mỹ cảm của anh ôn nhu, hiếu hòa, quân bình, giản dị. Nên nghệ thuật của anh cũng vậy: êm đềm, thơ mộng, pha nhiều chất cổ kính, u hoài.
Anh đã tìm ra được con đường riêng của mình, với một cách phát biểu riêng, một ngôn ngữ riêng…” (Huỳnh Hữu Ủy, NTTHVNHĐ, tr. 322-323)
.
Tranh của Dương Phước Luyến
.
Dương Phước Luyến sinh trưởng ở Huế, học Quốc học. Sau khi tốt nghiệp anh vào học Kiến trúc tại đại học Sài Gòn. Say mê hội họa, một mình một giá vẽ, anh đi từ
4. Họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi
Nguyễn Trọng Khôi xuất thân từ Trường Mỹ thuật Gia Định. Từ năm 1972 đến 1988, anh tham gia nhiều cuộc triển lãm tranh trong nước. Qua Mỹ năm 1988 thì 2 năm sau, từ năm 1990 cho đến nay anh có nhiều triển lãm tranh trong nhiều tiểu bang tại Hoa Kỳ. Ngoài nghề chính là hội họa, anh còn soạn nhạc và đã có vài CD do chính anh và bạn bè trình bày. Thỉnh thoảng anh viết truyện ngắn và thơ đăng trên các tạp chí văn nghệ hải ngoại. Anh hát rất hay, giọng hát khỏe. Trong những đêm tại
Tranh của Nguyễn Trọng Khôi thuộc khuynh hướng hiện thực và đặc biệt tĩnh vật của anh lôi cuốn người thưởng ngoạn. Thật tình xem tranh của anh, ta khó xếp anh vào khuynh hướng nào nhất định, anh là người hội tụ những trường phái khác nhau. Trong một cuộc triển lãm vào khoảng năm 2000 tại Washington DC, ông Lê Thiệp, một nhà báo và cũng là người chơi tranh nổi tiếng, sau khi đến xem cuộc triển lãm tranh của Nguyễn Trọng Khôi, có những nhận xét về anh như sau: “Đầu tiên, không thể xếp hạng người họa sĩ trẻ này. Không có vấn đề trường phái. Tranh anh đi từ tả thực qua tới siêu thực, từ ấn tượng cho đến trừu tượng. Có vẻ như nó thể hiện rõ rệt quan niệm sáng tạo của anh, cái quan niệm đi tới, lúc nào cũng tìm tòi thể nghiệm. Có thể thấy impressionist ở những bức tĩnh vật, một thứ impressionist chín muồi.”
Nguyễn Trọng Khôi dành tất cả thời gian cho hội họa, anh có một phòng vẽ tại nhà, tuy nhiên trong những cuộc hội họp với anh em, anh ngồi một góc phòng lặng lẽ phác họa chân dung cho từng người với bút chì, lúc này ta mới nhận thấy nét vẽ của anh tài hoa và sống động. Trong một bữa gặp gỡ chung với anh em văn nghệ tại
Triều Hoa Đại: "Nếu như có một ngày nào đó bỗng dưng ông nhận được giấy để cùng thực hiện một cuộc triển lãm nghệ thuật với những họa sĩ ở trong nước thì ông nghĩ thế nào, nên hay (không nên) tham dự, vì sao?"
Nguyễn Trọng Khôi: "Trong xã hội loài người, mọi tiếng nói, ngôn ngữ có thể khác nhau, duy chỉ có tiếng khóc và nụ cười là không thể khác được. Hội họa là bộ môn nghệ thuật đứng trên mọi thái độ, mọi quan điểm mang màu sắc chính trị; nó không có biên cương, giới hạn. Hội họa có tiếng nói không cần phải chuyển dịch; đó là thứ ngôn ngữ chung và vì thế tác phẩm hội họa luôn mang tính nhân loại. Hội họa cũng không có giai cấp. Một ông vua và một người ăn mày khi đứng trước giá vẽ họ đều bình đẳng.
Trước đây tôi có khoảng 20 năm sinh hoạt hội họa trong nước. Tôi vẫn mơ có một ngày được bay nhảy ở không gian lớn hơn đó là bên ngoài Việt
.
Tranh của Nguyễn Trọng Khôi
.
Nguyễn Trọng Khôi là một họa sĩ có chân tài. Tranh của anh được nhiều người ưa thích. Anh đã được những tờ báo lớn của người Mỹ tại
© 2010 Phan Xuân Sinh
© 2010 talawas
.
--------------------------------
.
Đọc thêm :
Huỳnh Hữu Ủy và tác phẩm “Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại” (RFI)
VAALA phát hành “Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại” (da mau)
Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại - Phạm Phú Minh (da mau)
Huỳnh Hữu Ủy và “Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại” (Phần 2) - Mặc Lâm (RFA)
Vaala phát hành Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại của Huỳnh Hữu Ủy (viet bao)
.
.
.
No comments:
Post a Comment