Hội họa Việt Nam thời chiến tranh và hậu quả
Trịnh Cung
Posted on 13.06.2009 by litviet
http://litviet.com/2009/06/13/tr%e1%bb%8bnh-cung-h%e1%bb%99i-h%e1%bb%8da-vi%e1%bb%87t-nam-th%e1%bb%9di-chi%e1%ba%bfn-tranh-va-h%e1%ba%adu-qu%e1%ba%a3/#more-335
(Bản tóm lược tham luận tại Hội thảo Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Mỹ thuật Singapore, 5-2008)
I. Hội hoạ Việt Nam thời chiến tranh 1954-1975
1. Miền Bắc từ 1954-1975
Mặt trận Việt minh sau khi tiến hành thành công Cách mạng Mùa thu (1945) đã cho ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tiến hành chiến tranh chống thực dân Pháp cho đến chiến thắng Điện Biên Phủ 1954.
Sau sự kiện lịch sử này, đất nước chia đôi: miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra thuộc chế độ Cộng sản, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào theo chế độ Cộng hoà. Nền mỹ thuật non trẻ của Việt Nam cũng bị chia đôi. Những lớp hoạ sĩ tài năng đầu tiên do trường Mỹ thuật Đông dương đào tạo từ năm 1925 đến 1945 chia ra làm ba nhóm: nhóm chiếm số đông ở lại miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa như Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Đỗ Cung, Lương Xuân Nhị, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên…; một số ít ra nước ngoài như Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Vũ Lăng, Lê Thị Lựu, Mai Trung Thứ…;và phần còn lại di cư vào Nam hoặc từ nước ngoài trở về miền Nam như Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Tạ Tỵ, Lưu Đình Khải, Lê Yên, Tôn Thất Đào, Nguyễn Văn Anh, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Siên, Trần Dụ Hồng…
Dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, mỹ thuật miền Bắc không được phát triển theo xu hướng ảnh hưởng mỹ thuật Tây Âu như những năm trước 1945. Đường lối Hiện thực Xã hội Chủ nghĩa được áp dụng triệt để nhằm phục vụ công cuộc xây dựng một miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa và cổ vũ cho cuộc chiến tranh lật đổ chế độ Sài Gòn do Hoa Kỳ hậu thuẫn. Trong suốt thời gian từ 1954 đến 1975, mỹ thuật miền Bắc chỉ bao gồm hai loại chính: tranh cổ động; và tranh ngợi ca Đảng, lãnh tụ, cổ xuý đấu tranh giai cấp. Khuynh hướng nghệ thuật này chịu ảnh hưởng sâu đậm mỹ thuật các nước cộng sản đàn anh là Liên Xô và Trung Quốc. Tất cả nghệ sĩ đều chịu sự quản lý cực kỳ chặt chẽ của Đảng, vì thế thông tin về mỹ thuật phương Tây đương thời gần như không xuất hiện, dù dưới bất cứ hình thức nào. Thái Bá Vân (đã mất) – nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật nổi tiếng một thời của Hà Nội – từng bị một cán bộ trưởng đoàn du học sinh tịch thu cuốn sách về danh họa Picasso khi ông đang trên chuyến tàu hỏa từ Tiệp Khắc về Việt Nam. Miền Bắc ngăn chặn triệt để tất cả thông tin từ bên ngoài nhằm giữ cho nền mỹ thuật của họ đi đúng đường lối của Đảng.
Sự trừng phạt nặng nề cho những ai dính đến vụ “Nhân văn Giai phẩm” năm 1956 đã bóp chết tất cả những ý tưởng muốn bày tỏ yêu cầu tự do sáng tạo. Những ai còn giữ tâm hồn nghệ sĩ và tình yêu nghệ thuật đích thực đều chịu một cuộc sống ngoài lề. Họa sĩ Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm và một số văn nghệ sĩ ít ỏi khác đã phải sống như những cái bóng thừa.
2. Miền Nam từ 1954 đến 1975
Sau hiệp định Genève 1954, Miền Nam theo chế độ chính trị tam quyền: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Dân chủ và tự do được tôn trọng,vì thế các hoạt động văn hoá nghệ thuật phát triển thuận lợi. Báo chí, nhà xuất bản, phòng trưng bày tranh, các salon văn nghệ, điện ảnh, kịch nghệ được tự do hoạt động và được nhà nước khuyến khích bằng những giải thưởng giá trị.
Từ 1954 đến 1963 (nền Đệ nhất Cộng hòa do tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo) là giai đoạn huy hoàng của văn nghệ Miền Nam. Chỉ trong chín năm, từ 1954 đến 1963, riêng lãnh vực mỹ thuật, Miền Nam đã có hai trường Cao Đẳng Mỹ Thuật hoàn chỉnh (một cho Sài Gòn và các tỉnh lân cận, một cho Huế và khu vực Miền Trung),một giải thưởng mỹ thuật cấp quốc gia hằng năm mang tên Hội Họa Mùa Xuân, và một triển lãm Mỹ Thuật Quốc Tế có tầm cỡ (1962). Ngoài ra, các hoạ sĩ Miền Nam còn có nhiều cơ hội tham gia những triển lãm quốc tế lớn như các Biennale ở Paris, Venise, São Paulo, Tunis, và được tự do lập hội. Sài Gòn trước khi có Hội Họa Sĩ Trẻ năm 1966 đã có Nghiệp Đoàn Hội Họa, một hội nghề nghiệp dành cho tất cả những ai họat động trong lãnh vực mỹ thuật. Riêng việc ra đời của Hội Họa Sĩ Trẻ là một sự kiện có tính bước ngoặc cho giai đoạn phát triển sâu vào hội họa hiện đại của mỹ thuật Miền Nam Việt Nam. Hầu như không có một trường phái hội họa nào đang là trào lưu của thế giới mà không được các họa sĩ trẻ Miền Nam cập nhật và thử nghiệm. Và họ đã gặt hái được những thành tựu làm thay đổi chất lượng sáng tạo của mỹ thuật Miền Nam: từ đơn điệu, đậm chất họa thuật trường qui sang phóng khóang, tự chủ, đầy cá tính, và tiên tiến. Năm 1972, Hiệp Hội Nghệ Sĩ Tạo Hình Thế Giới đã chọn triển lãm tác phẩm gốc của các danh họa hiện đại như Picasso, Miró, Max Ernst, Soulage tại Sài Gòn. Thành phố này bấy giờ thực sự là trung tâm mỹ thuật hiện đại của Việt Nam.
Sự lớn mạnh của hội họa Miền Nam trong hai mươi năm (1954 – 1975) hoàn toàn hợp với qui luật phát triển,vì nó nhận được các điều kiện thuận lợi từ thể chế chính trị dân chủ cho đến nền kinh tế hưng thịnh, và một mặt bằng văn hoá, giáo dục tốt đẹp. Đó cũng là kết quả có tính tác động qua lại giữa ba khuynh hướng nghệ thuật: những nhà tiền phong (tự học hoặc từ bỏ trường quy), những người bảo thủ (đề cao trường quy),và những họa sĩ trẻ. Cần lưu ý là chính cuộc di cư năm 1954 của các văn nghệ sĩ Hà Nội đã đem một luồng gió mới cho sự phát triển văn hoá ở Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng, trong đó hội hoạ hiện đại là một phần quan trọng của hiện tượng vừa nêu với sự đóng góp rất lớn của các hoạ sĩ hoạt động độc lập như Nguyễn Gia Trí, Tạ Tỵ, Văn Đen,Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Vị Ý…
Rất tiếc, chiến tranh đã càng ngày càng leo thang tại Miền Nam từ sau ngày tổng thống Diệm bị một số tướng lãnh Sài Gòn lật đổ với sự hậu thuẫn của người Mỹ, khiến cho các hoạt động văn học nghệ thuật bị ảnh hưởng rõ rệt. Giải thưởng Hội Hoạ Mùa Xuân bị huỷ bỏ; một giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Tổng Thống mang xu hướng bảo thủ ra đời.
II. Hậu quả chiến tranh đối với mỹ thuật Việt Nam
1. Đối với Miền Bắc
Vì theo đuổi học thuyết Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa, hội họa Miền Bắc đã hoàn toàn mất tính đa nguyên sáng tạo, tình cảm cá nhân của người vẽ bị đóng băng, máu nghệ sĩ bị thay thế bằng máu của người lính, màu sắc, bút cọ trở thành súng đạn, lấy đấu tranh làm hướng đi cho tác phẩm.
Sau khi hòa bình lập lại, vì bị cách ly và bị quản lý lâu ngày, họa sĩ Miền Bắc có tâm lý xa lạ với thế giới, choáng ngợp với một rừng những sáng tạo mà nhân loại đã đi qua, nên nảy sinh tâm lý hoài nghi cái mới. Suốt ba mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, Miền Bắc vẫn tiếp tục “ngăn sông cấm chợ” văn hóa, áp dụng đường lối quản lý nghệ sĩ trên diện rộng. Mỹ thuật Việt Nam đã trở nên tụt hậu, ngay chỉ so sánh với các nước Đông Nam Á hôm nay.
Chính sách văn hóa một chiều đã làm nảy sinh tại Miền Bắc hai thực trạng mỹ thuật hiện nay: mỹ thuật tự do và mỹ thuật thương mại.
Dòng mỹ thuật tự do hình thành mang tính tự phát (không nằm trong chính sách “Đổi Mới”) và đến từ lớp họa sĩ trưởng thành vài năm trước và sau 1975. Nhờ không bị chai sạn như lớp nghệ sĩ đàn anh, các nghệ sĩ lớp sau sớm nhận ra sự cấp bách của việc thay đổi tư duy sáng tạo, phục hồi quyền độc lập suy cảm. Cảm hứng nghệ thuật của họ đến từ hai nguồn: thứ nhất, các bậc thầy hội hoạ Miền Bắc có bản lãnh nghệ sĩ như Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên; thứ hai, thành tựu mỹ thuật hiện đại mà các họa sĩ Sài Gòn tạo ra được dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Tiêu biểu nhất của dòng mỹ thuật tự do Miền Bắc là sự ra đời của nhóm”Bè Lũ Năm Tên” (Gang of Five) với những Đặng Xuân Hòa, Trần Lương, Hà Trí Hiếu…
Ngược lại, dòng mỹ thuật thương mại là hệ lụy đối với một dân tộc bị chiến tranh và chủ nghĩa cộng sản lấy đi tất cả. Hòa bình và kinh tế thị trường là cơ hội trả thù đời của những ai biết chớp thời cơ. Lớp họa sĩ này chiếm số đông, làm mọi cách để bán được tranh phục vụ thị hiếu du khách nước ngoài. Đây là nguồn tiêu thụ tranh giả, tranh chép, tranh nhái. Dòng mỹ thuật “thị trường” này đã làm nên nhà cao cửa rộng của nhiều họa sĩ nhưng đồng thời cũng đẩy nền mỹ thuật “chính thống” Việt Nam đi vào chỗ cạn kiệt trống rỗng như hôm nay.
2. Đối Với Miền Nam
Tất cả sinh họat mỹ thuật theo cách Sài Gòn đều phải dừng lại, nếu không muôn nói là phải hủy bỏ, kể từ ngày 30-4-1975. Nghệ sĩ phải “tự cải tạo” dưới chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhiều tác phẩm hội họa bị chế độ mới đốt bỏ hoặc đưa vào bộ sưu tập “tội ác Mỹ Ngụy”. Cá nhân tác giả có bốn bức tranh thuộc bộ sưu tập của cố tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh đã bị chính chủ nhân đốt bỏ vì sợ hãi vào những ngày đầu Sài Gòn sụp đổ. “Trên Vùng An Nghỉ”, đoạt giải thưởng Hội Họa Mùa Xuân năm 1964, là một trong những bức tranh xấu số ấy.
Nhiều họa sĩ trẻ tài năng hàng đầu của hội họa Sài Gòn như Nguyễn Trung, Nguyên Khai… đã từ bỏ dòng tranh lãng mạn hiện đại để vẽ những tranh ca tụng Thanh Niên Xung Phong, bộ đội, công nhân theo chỉ đạo của chính quyền mới. Ngược lại, hơn phân nửa số họa sĩ tài năng không chấp nhận sự tước đoạt quyền tự do sáng tạo đã không tham gia họat động của Hội Mỹ Thuật nhà nước, tiếp tục sáng tác độc lập hoặc tìm đuờng vượt thoát đến các nước tự do.
Hậu quả chiến tranh đối với mỹ thuật Miền Nam rất nặng nề. Nó không chỉ làm sụp đổ lâu đài nghệ thuật hiện đại đang trên đường hoàn thành, mà còn thủ tiêu ý thức tự do sáng tạo của giới nghệ sĩ Miền Nam. Đây là một thành công của chế độ mới. Góp phần vào sự thành công đó có phần hèn nhác của một số nghệ sĩ, họ đã giúp các nhà quản lý đóng nắp quan tài cho sáng tạo nghệ thuật của Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung.
Sài Gòn, 2008
No comments:
Post a Comment