Tóm
Lược: Âm nhạc miền Nam trước ngày 30-4-1975 là một
kho tàng nghệ thuật phong phú của Việt Nam, cho thấy mức sáng tạo
tuyệt vời, tinh thần tự do và nhân bản, phản ảnh tình người, củng
cố niềm tin, nhắc nhở tình thương yêu, và tô điểm lòng ái quốc của
người miền Nam. Tôi lựa ra 304 bài hát mà tôi rất ưa thích và dùng
nhan đề và các trích dẫn ngắn của những bài hát này, lồng vào câu
chuyện về cuộc đời, tình người, và quê hương, để đánh dấu ngày 30
tháng 4. Tôi chỉ chú trọng đến nội dung qua nhan đề của các bài hát
và không đề cập đến các khía cạnh âm nhạc (thí dụ, giai điệu, tiết
tấu), lời ca (thí dụ, cách dùng chữ, kỹ thuật), và tác giả. Một
số rất ít bài được viết trước năm 1954 ở miền Bắc, nhưng được lưu
hành rộng rãi ở miền Nam, và do đó được coi như thuộc về âm nhạc
miền Nam. Hẳn nhiên tôi có nhiều thiếu sót, nhưng tôi nghĩ những ca
khúc này thể hiện sức mạnh vô bờ bến tiềm tàng trong âm nhạc miền
Nam. Sức mạnh này vẫn còn mãi, nếu không muốn nói là ngày càng lớn
mạnh.
***
Bài hương ca vô tận
Hầu như bất cứ ai sinh sống trong miền Nam
trước ngày 30-4-1975 cũng nhận ra những ca khúc miền Nam thời ấy nói
lên cuộc sống họ trên các giai đoạn và khía cạnh của cuộc đời trước
ngày cộng sản chiếm đóng miền Nam vào ngày 30-4-1975. Đó là vì lời
ca tiếng nhạc miền Nam trước ngày 30-4-1975 là bài Hương ca vô tận ru
vào lòng người "những lời yêu đương," "chuyện tình gãy gánh
giữa đường," "nỗi buồn quê hương," hay "mưa giăng thác đổ
đêm trường." Âm nhạc miền Nam còn có những tình ca quê hương diễn
tả "quê hương tôi ấp ủ Trường Sơn, quê hương tôi là đây nước chảy xuôi
nguồn, sông cát dài biển xanh Thái Bình." Tiếng hò của hội trùng dương kết
hợp tiếng sông Hồng, tiếng sông Hương, và tiếng sông Cửu Long, "ba
chị em là ba miền, nhưng tình thương đã nối liền, gặp nhau bên trời biển Đông
thắm duyên."
Tôi không bao giờ quên những ngày xưa thân ái trong quãng thời gian tôi sống trong
miền Nam, từ tuổi thơ, tuổi học trò, tới tuổi yêu đương và tuổi
trưởng thành trong thời chiến tranh.
Chuyến đò vĩ tuyến
Ba mẹ tôi là người Bắc. Khi ba tôi gặp mẹ tôi,
thấy mẹ tôi là cô Bắc Kỳ nho nhỏ và có nét hiền lành, nên có lòng
thương yêu, và hai người lấy nhau. Ba mẹ tôi di cư vào Nam vào năm 1955,
khoảng 6 tháng sau ngày hiệp định Geneva năm 1954. Như những gia đình
theo chuyến đò vĩ tuyến hoặc
con tàu khổng lồ chuyên chở dân di cư vào Nam, gia đình chúng tôi là
một phần của đoàn người lữ thứ trốn chạy cộng sản vì "miền Bắc giờ
đau thương tràn khắp đồng sâu." Đối với ba mẹ tôi, nỗi lòng người đi của
hai người bấy giờ là chỉ muốn thoát ly chế độ cộng sản tìm cuộc
sống thanh bình tự do cho gia đình. Sau này, ba mẹ tôi rất ngạc nhiên
khi biết có những người vợ ở trong miền Nam khắc khoải trong giấc ngủ cô đơn hàng
đêm trông chờ chồng tập kết ra Bắc trở về, kêu gọi "người bên vĩ
tuyến, xin nhớ quay về khung trời miền Nam sống trong tình thương."
Ba mẹ tôi không vào thẳng Sài Gòn, lúc đầu cư trú ở Đà Nẵng, Nha Trang, sau cùng mới định cư ở Sài Gòn cho tới tháng 4 năm 1975. Vì còn quá nhỏ, tôi có rất ít trí nhớ về Đà Nẵng và Nha Trang, "miền quê hương cát trắng."
Ba mẹ tôi không vào thẳng Sài Gòn, lúc đầu cư trú ở Đà Nẵng, Nha Trang, sau cùng mới định cư ở Sài Gòn cho tới tháng 4 năm 1975. Vì còn quá nhỏ, tôi có rất ít trí nhớ về Đà Nẵng và Nha Trang, "miền quê hương cát trắng."
Mẹ tôi là một cô gái quê không được cho đi
học, nhưng mẹ tôi đã cho chúng tôi, và nhất là tôi, một mối tình ca sâu
đậm về tiếng Việt, khiến "tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời."
Nếu tôi có chút khả năng và ý thích về nghệ thuật, văn chương, và
thi ca, đó là có từ mẹ tôi. Ba tôi rất nghiêm trong việc dậy dỗ con
cái trong khi mẹ tôi lúc nào cũng chiều các con, và lo lắng cho các
con mọi chuyện từ quần áo, ăn uống, thuốc men, đến học hành, sách
vở. Nếu anh em chúng tôi có được chút gì ngày nay, đó cũng là do ơn nghĩa sinh thành vĩ
đại của ba mẹ tôi. Tôi không nhớ tuổi đời mẹ tôi chồng chất như thế
nào, nhưng qua bao năm tháng, nhất là từ khi sang định cư ở Hoa Kỳ, tôi
càng biết rõ mẹ tôi "tóc xanh nhuộm bạc tháng ngày,"
và "bao năm nuôi đàn trẻ thơ nhỏ dại, cầu mong con mình có một ngày
mai." Mỗi lúc dưới ánh đèn khuya,
tôi "nhớ khi mẹ lo sớm chiều, nhớ nụ cười khi nâng niu, đôi tay run run
ánh mắt dịu hiền." Mẹ tôi tuổi con gà, lại càng làm tôi nghĩ đến
hình ảnh bà mẹ quê với "vườn rau, vườn rau xanh ngắt một
mầu; có đàn, có đàn gà con nương náu; mẹ quê, mẹ quê vất vả trăm chiều; nuôi
đàn, nuôi một đàn con chắt chiu."
Quê mẹ
Ba mẹ tôi và tôi định cư tại Hoa Kỳ từ năm
1975 khi tôi đã trưởng thành, nhưng tôi nhớ mãi những kỷ niệm với mẹ
tôi những ngày tôi còn bé ở Việt Nam. Tôi thường tưởng tượng hình
ảnh quê mẹ "nơi chốn
xưa có người mẹ hiền, tóc màu hoa bạc chiều chiều mắt ngấn lệ vì con" và
vui mừng khi còn bông hồng cài áo.
Giờ đây bông hồng không còn trên áo nữa nhưng tôi không thể nào quên
được lòng mẹ "bao la như biển Thái Bình dạt
dào" với tình thương yêu con cháu vô bờ bến.
Khi tôi lớn hơn, ý nghĩa chữ "mẹ"
không còn hạn hẹp trong căn nhà tôi ở, mà còn bao trùm toàn thể đất
nước. Lối về đất mẹ là "đường xưa còn ấp ủ bóng trăng gầy"
và "mẹ ơi chỉ còn đất mẹ mà thôi." Tôi rất thích nghe mẹ tôi ru
vì nghe như tám điệp khúc với lời thề "Mẹ Việt Nam ơi! con xin
ghi xin khắc nguyện lời thề." Những đóa hoa
cài mái tóc khiến
"Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng quắc." Mẹ Việt Nam không chỉ là mẹ
sông hồ, mẹ núi non, mà còn là Mẹ
trùng dương "cho con luôn luôn tôm to cá lớn tươi ngon đầy
thuyền." Ngay cả tên nước Việt Nam!
Việt Nam! cũng gắn bó
với nôi bên mẹ vì "Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời, Việt Nam hai câu
nói bên vành nôi." Càng lớn lên trong miền Nam, tôi càng phát huy
niềm hãnh diện về đất nước Việt Nam
quê hương ngạo nghễ với
những hình ảnh kiêu hùng của "máu ta từ thành Văn Lang dồn lại, xương
da thịt này cha ông ta miệt mài."
Hòn Vọng Phu II
Tuổi thơ quả là một thiên đường. Dù không
sống ở vùng quê, tôi thường vẽ ra cảnh tượng tôi là em bé quê, ngất ngưởng trên mình trâu
nghêu ngao, "ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ." Tết
trung thu là dịp vui đùa, khi đêm đến, tôi và mấy đứa bạn rước đèn tháng tám quanh
xóm, chỉ chỏ lên thằng cuội trên trời, "bóng trăng trắng ngà, có cây
đa to, có thằng cuội già ôm một mối mơ."
Từ lúc còn nhỏ, tôi đã biết đến những
chuyện cổ tích và huyền thoại về đất nước Việt Nam. Một mẹ trăm con là "truyện cũ trong
tích xưa" với "năm mươi con vượt đồi non" và "năm mươi
con dọc Trường Sơn." Tôi bị mê hoặc bởi tích Hòn vọng phu về
người vợ "bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về" và những câu
chuyện kỳ bí như chuyện tình Ngưu Lang
Chức Nữ và thiếu phụ
Nam Xương. Các câu chuyện lịch sử ghi khắc trong tâm khảm tôi
mạnh mẽ. Tôi nhớ các trận trên Bạch
Đằng Giang, con sông "hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng."
Vào lớp Nhất tiểu học (lớp 5), trường tôi tổ chức một buổi văn nghệ
trong đó có màn nhạc kịch về Hội Nghị
Diên Hồng với diễn viên
là học sinh trong trường. Tôi hừng chí khi nghe mấy đứa bạn trên sân
khấu đồng thanh quát to "Hy sinh" sau câu hỏi "Thế nước yếu
lấy gì lo chiến chinh?"
Học đường là nơi dậy dỗ tôi nên người và
giúp tôi phát huy trí tuệ, đạo đức, và tình yêu thương đất nước.
Trong suốt các năm tiểu học, chúng tôi hát Quốc ca, bài "Tiếng gọi công dân" với giai điệu
hùng hồn và lời kêu gọi thiết tha. Lên trung học, chúng tôi chào cờ
và hát quốc ca ngay giữa sân trường mỗi sáng thứ hai cho những lớp
học buổi sáng. Lá cờ vàng ba sọc đỏ in đậm trong tâm khảm tôi từ
đó. Tinh thần yêu nước được củng cố vào giờ thể dục khi chúng tôi
đồng ca bài "Khỏe vì nước"
với lời kêu gọi: "Thanh niên ơi, hồn thiêng núi sông đợi chờ! Nơi tay
ta toàn dân ngóng trông từng giờ." Khi lên trung học, trong cảnh chiến
tranh nhiều đứa bạn tôi bỏ học, gia nhập quân đội. Có nhiều kỷ niệm trường cũ tình xưa,
khi trở về trường cũ để biết "bạn cũ xa rồi, có người về đất
buông xuôi, năm ba đứa bạt phương trời, hai thằng chờ đầu quân năm tới."
Học đường còn là nơi tôi có những mối tình
nhỏ bé. Thực ra, ở tuổi học trò, tình yêu thường được chớm nở trong
tuổi dậy thì cho tới Đại học. Ở tuổi
mười ba, cũng có thể có tình yêu khi "áo nàng vàng anh về
yêu hoa cúc, áo nàng xanh anh mến lá sân trường." Hầu như ai cũng có
dịp đi qua con đường tình ta đi và các chàng trai kêu lên "hỡi
người tình Văn Khoa," "lá đổ để đưa đường cho người tình
Trưng Vương," và "hỡi người tình Gia Long."
Con đường xưa em đi
Thực ra, với tôi, mối "tình" đầu của
tôi không xảy ra ở trung học hay đại học, mà xảy ra ở tiểu học. Tôi
"yêu" một cô gái lúc tôi 9 tuổi. Tôi gặp em khi đi học lớp
hè. Giây phút đầu tiên tôi
gặp em trong lớp, tôi ngây ngất vì em có tóc
mai sợi vắn sợi dài và làn da trắng. Tôi không bao giờ
dám nói chuyện với em, một phần vì em học trên tôi một lớp, một
phần vì tôi quá nhút nhát. Một hôm, khi thầy cho tan học sớm, tôi lẽo
đẽo đi theo em về nhà để điều tra nhà em ở đâu, y như trong cảnh ngày xưa Hoàng thị.
Quãng đường dài độ hai cây số. Khi sắp về đến nhà, em rẽ vào
một khu cư xá, nhưng tôi nhát quá nên không dám đi theo vào khu cư xá.
Thế rồi, lớp học hè mau chóng hết. Ngày cuối cùng, ông thầy cho
phép đám học trò ăn uống ca nhạc. Em hát bài "Nếu hai đứa mình."
Tôi cứ nghĩ đến câu "nếu hai đứa mình không về cùng chung
lối đường" trong bài mà cảm thấy rộn niềm vui. Sau buổi tíệc
cuối cùng đó, tôi không còn gặp em nữa. Trong suốt hơn mười năm sau
đó, tôi thường đi trên con đường xưa em
đi và qua khu cư xá, hy
vọng gặp em đi ra, nhưng cho tới ngày tôi rời Sài Gòn, con đường còn
đó, mà bóng dáng em vẫn bặt tăm. Tôi nhớ mái tóc em dài quá vai và
tự hỏi về đâu mái tóc người thương.
Ngay cả cho đến bây giờ, quá nửa thế kỷ, nghìn trùng xa cách, thỉnh thoảng tôi vẫn thắc mắc
không biết em bây giờ ra sao.
Nhà tôi ở trong một ngõ rẽ từ một đại lộ.
Tôi có được diễm phúc là hàng xóm quanh nhà tôi có nhiều cô gái
đẹp. Có cô láng giềng tuyệt
đẹp có làn da trắng bóc đã khiến "tôi mơ trời xuân bao tươi thắm,
đôi mắt trong đen màu hạt huyền, làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng
sóng." Thế rồi, thời gian trôi qua, gia đình cô dọn đi nơi khác,
khiến anh em chúng tôi tiếc rẻ vô vàn. Các cô khác trong xóm rồi cũng
dần phai mờ, có người có bồ, có người dọn đi. Ngoài các cô hàng xóm, tôi cũng để ý các cô hàng nước, cô bán cuốn bò bía đầu
ngõ nhà bạn tôi. Tuy tôi chẳng có chuyện tình nào với họ, các cô
gái xinh đẹp này cho tôi những xúc cảm đậm đà đầu tiên về tình cảm
trai gái.
Khi ba tôi cho tôi lái xe gắn máy, tôi bắt đầu
nổi loạn. Tuy nhiên, ban đầu tôi vẫn nhút nhát, chỉ dám gác cổng các
trường nữ nhìn các cô nữ sinh tan học mà không dám tán tỉnh. Thế
rồi, tôi thay đổi dần dần và trở nên bạo dạn hơn. Tôi theo đuổi một
cô nữ sinh trường Nguyễn Bá Tòng, sau này chuyển sang trường Lê Văn
Duyệt. Nàng không thật đẹp, không có cặp mắt như đôi mắt người Sơn Tây "u
uẩn chiều luân lạc," nhưng nàng có nét dịu dàng thùy mị của một
cô gái miền Nam thuần túy. Tôi lẽo đẽo theo nàng cả tháng trời đến
độ ghi nhớ bảng số xe gắn máy của nàng cho đến bây giờ, mê mệt tự
hỏi bao giờ biết tương tư.
Nàng biết tôi đi theo nhưng gặp nhau làm
ngơ dù nàng và tôi
"chung một đường, kẻ trước, người sau" cả tháng trời. Sau cùng,
tôi thu hết can đảm chận xe nàng tại góc gần nhà nàng, cạnh con
đường nhà nàng thơ mộng rạp lá, lắp ba lắp bắp ngỏ lời đầu tiên
với nàng. Có lẽ sự vụng về của tôi động được lòng nàng. Thế là
từ đó, nàng là người yêu chính thức của tôi và con đường nhà nàng
trở thành con đường mang tên em.
Những bước chân âm thầm
Trong giai đoạn đầu, những chuyện hẹn hò với
nàng khiến tôi than vãn, "Hẹn chiều nay mà sao không thấy em, gió hiu
hiu, lòng bỗng nghe lạnh thêm." Tôi vẫn thường bước những bước chân âm thầm "khi người
yêu không đến, tuổi xuân buồn lặng căm." Dần dà, chúng tôi thân thiện
với nhau và gần gũi nhau nhiều hơn, nhưng mối tình tôi với nàng rất
ngây thơ trong trắng, không có chuyện qua cầu gió bay mà
như giấc mộng dưới hoa khi chúng tôi "gặp nhau yêu chẳng hạn
kỳ, mây ngàn gió núi đọng trên mi." Nàng và tôi yêu nhau một cách
hiền lành, như hai người bạn. Tôi chẳng bao giờ thắc mắc hỏi ai
nói yêu em đêm nay hoặc đặt giả
thiết nếu ta đừng quen nhau.
Chúng tôi yêu nhau trong sự kính trọng và không cần phải có những hứa
hẹn hoặc điều kiện trăng sáng vườn chè như "anh chưa thi đỗ thì chưa thì chưa
động phòng."
Như những người bạn thân, chúng tôi chở nhau đi
học, hẹn nhau sau giờ học, đùa nghịch với nhau vô tư, hỏi nhau những
câu hỏi ngu ngơ bây giờ tháng mấy "rồi hỡi em?" hoặc đố nhau
những câu đố ai cắc cớ, "đố trăng mấy tuổi trăng già,
để em để em lên tiếng mặn mà mặn mà yêu anh," hoặc dựa đầu bên nhau
dưới gốc cây, ru em từng ngón xuân nồng với
"bàn tay em năm ngón anh ru ngàn năm." Có những hôm nàng đến nhà
tôi trong chiếc áo dài trắng và nón lá mang hình ảnh người em không đợi khiến tôi
xao xuyến. Tôi không nhất thiết yêu nàng với đủ mười thương, nhưng chỉ cần "một
thương tóc xõa mơ màng, hai thương em ăn nói mặn mà có duyên" cũng
đủ làm tôi hạnh phúc. Chúng tôi cũng đề cập đến chuyện hôn nhân, đến
cảnh gia đình hạnh phúc dưới túp lều
lý tưởng và hai trái
tim vàng, nhưng chỉ nói chuyện đó cho vui, chứ thực ra chúng
tôi không dự tính hôn nhân quá sớm. Thuở đầu tiên trong cuộc tình thật
hạnh phúc, như dư âm xa
xưa "hẹn em từ muôn kiếp trước, nhớ em mấy thuở bạc đầu." Tôi yêu em "vì
ta ghét buồn, yêu em vì ta ghét hờn, yêu em vì ta khinh khi dối gian."
Với tôi, những tháng ngày đầu tiên của cuộc tình thật nên thơ
khi ngày đó chúng mình "có anh mơ lại mộng ngời, và se tơ kết
tóc giam em vào lòng thôi." Lúc ấy, tôi nghĩ tôi sẽ yêu nàng suốt
đời và thường nói niệm khúc cuối,
"dù cho mưa tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời."
Nhưng rồi, một thời gian sau, khoảng 1-2 năm,
tôi cảm thấy có thay đổi trong tình cảm tôi dành cho nàng, và dằn
vặt không hiểu tôi có ngộ nhận tình yêu hay không. Những cảm xúc nồng
nàn lúc ban đầu bớt dần. Tôi có cảm tưởng mối tình tôi với nàng
như tình là sợi tơ "mong
manh." Thỉnh thoảng có lúc tôi muốn gửi nàng một tình khúc cho em "như
hoa đem tin ngày buồn, như chim đau quên mùa xuân" để cho nàng biết tôi
muốn thoát ra khỏi vũng lầy của
chúng ta. Vào những tháng
ngày cuối của chuyện tình không suy tư, tôi nhận ra "tình yêu mới vừa hôm qua, mà
nay mắt trông mắt cay." Có những buổi trưa chờ nàng tan học bên bàn
bi-da, tôi ngậm ngùi nghĩ đến "nắng chia nửa bãi chiều rồi,
vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu."
Tôi và nàng không bao giờ chính thức nói lời
xa nhau, nhưng hai người ít gặp nhau hơn, cho tới ngày tôi và gia đình
rời Sài Gòn. Tôi không rõ lý do tại sao có sự xa nhau, nhưng có lẽ là
lỗi của tôi, vì nàng là người em sầu mộng,
"là gái trong song cửa," trong khi tôi "là mây bốn phương trời"
và "theo cánh gió chơi vơi." Trong những tháng ngày không liên
lạc với nàng, tôi nghĩ tới nàng và muốn nói với nàng về chuyện chúng mình. Có những đêm tôi thao
thức, tự hỏi đêm nay ai đưa em về và mơ đến dạ
khúc cho tình nhân vào
"ngày em thắp sao trời, chờ trăng gió lên khơi." Thỉnh thoảng, tôi
coi mối tình với nàng như trong ca khúc "Bài
không tên số 2" vì "kỷ niệm xưa đã chết, cơn mê đã chiều,"
và "tình yêu đã hết," nhưng không đến nỗi "xót xa đã nhiều."
Tôi cũng vui là đối xử với nàng tốt đẹp, như trong ca khúc "Bài không tên số 4" vì
"đời con gái cũng cần dĩ vãng. mà em tôi chỉ còn tương lai," và
không để cho ngày em hai mươi tuổi là ngày khiến em phải "tay cắt mái
tóc thề, giã từ niềm vui nhé, buồn ơi hãy chào mi."
Tuy chuyện tình giữa nàng và tôi chẳng có gì
đẹp đẽ, nó cũng không tệ hại như nhiều chuyện tình khác. Ít ra tôi
nghe theo lời khuyên đừng nói xa nhau,
hoặc không van xin ai cho tôi tình yêu. Ngoài ra, tôi không bị
đau buồn vì người yêu đi lấy chồng, khiến mình tưởng như tôi đưa em sang sông, hoặc lên cơn sầu tím thiệp hồng, luyến tiếc nhìn
những tà áo cưới. Tôi còn may mắn hơn nhiều người than
khóc cho cuộc tình như trong ca khúc "Bài
không tên cuối cùng," dằn
vặt với câu hỏi "mưa bên chồng, có làm em khóc, có làm em nhớ những khi
mình mặn nồng," hoặc than thở cho duyên
kiếp mình, "Em ơi nếu
mộng không thành thì sao, non cao đất rộng biết đâu mà tìm."
Cũng may, cuộc tình hai ba năm đó của tôi không
đến nỗi là hai năm tình lận đận,
và không có những hận thù chua chát, muốn giết người trong mộng, tự trách mình
là ta yêu em lầm lỡ, nuối tiếc cho cuộc tình lỡ, hoặc than khóc cho tình đầu tình cuối "khi
một ngày một người đã ra đi," hoặc đau khổ tê tái với nửa hồn thương đau và
"nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt." So với các chuyện
tình của thiên hạ, tôi thấy nàng và tôi rất may mắn, không đưa đến
những kết cục bi thương như chuyện tình
người trinh nữ tên Thi, chuyện tình Lan và Điệp, hoặc Thúy
đã đi rồi. Đôi khi tôi nghĩ nàng và những cô gái khác là những
mối tình xa, khi "từng người tình bỏ ta đi như những dòng
sông nhỏ." Họ là những người đi qua
đời tôi "trong những
chiều đông sầu" và cho tôi cái ảo ảnh "yêu cho biết sao đêm dài, cho quen với
nồng cay" để rồi "cũng theo hư không mà đi."
Nói đến tình yêu là phải nói đến phong cảnh
và thiên nhiên. Tình người ăm ắp chứa chan một phần vì miền Nam có
phong cảnh hữu tình, đồng ruộng mênh mông, bờ biển bát ngát, sông
ngòi, rừng núi, vùng cao nguyên, và vùng ̣đồng bằng. Mây, gió, mưa,
nắng, trăng, sao đóng góp thêm cho nét thơ mộng của đất nước miền
Nam.
Hàn Mặc Tử là người đầu
tiên tự nhận là sở hữu chủ của mặt trăng và rêu rao, "Ai mua
trăng, tôi bán trăng cho; trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ." Ánh trăng
hiền hòa thể hiện trăng thanh bình vẽ ra hình ảnh "một đêm ánh trăng
thanh rọi xuống khắp đồng quê bao la." Trăng còn thường được coi là
nhân chứng cho các lời thề thốt có lẽ do bởi nét huyền bí của ánh
trăng mơ màng trong đêm tối. Do đó, lời trăng
thề thường được nhắc nhở trong cuộc tình vào "một
đêm trăng sáng lung linh, bên đồn canh vắng im lìm." Tại miền quê
miền Nam, trăng còn có ý nghĩa đặc biệt, thường được liên kết với
mùa màng và tình yêu. Với tình lúa
duyên trăng, khung cảnh trở nên
thơ mộng: "mây bay qua, ánh trăng chiếu dần vào ruộng đồng bao la; nghe
xa xa, mấy câu hát vè vọng từ đầu thôn đưa về."
Trăng mờ bên suối
Những cảnh có vật di động trôi chảy như như
mây, nước, sông hồ, suối, biền làm tăng phần thơ mộng hoặc cảm xúc
cho con người. Còn gì thơ mộng hơn cảnh trăng
mờ bên suối, ngắm suối mơ, hoặc ngẩn ngơ nhìn những con thuyền không bến. Tại những nơi hẻo
lánh xa xôi, có những con đò chiều là "đò của người thôn nữ, chờ đưa người
viễn xứ." Bãi biển bao la tạo nên nỗi biển
nhớ "tên em gọi về, gọi
hồn liễu rũ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya." Trong những cơn mưa hồng, ta có thể cảm nhận "trời
ươm nắng cho mây hồng," và "mây âm thầm mang gió lên." Tất cả
những cảnh vật thiên nhiên đó tạo nên tình yêu thương quá Việt Nam nhẹ nhàng và đơn
giản như "em nghe gì không hỡi em, con chim nó hót vang đầu hè."
Khi tôi có dịp đi tới vùng đồng quê miền Nam,
tôi mới biết được cảnh đẹp miền Nam qua những con sông nhỏ, ruộng lúa
phì nhiêu, và những cô thôn nữ xinh tươi ca hát những khúc ca ngày mùa và tiếng hò miền Nam, và các em bé ca hát
về tía em má em. Tôi có dịp lái xe gắn máy qua những con
đường quê chật hẹp, băng qua mấy nhịp
cầu tre, rẽ vào đường về
hai thôn, trải qua chiều làng
em, đi qua những mái tranh trong xóm khi nắng lên xóm nghèo, hoặc đi vào lối về xóm nhỏ nơi
có "vài cô gái nhỏ to vui chuyện trò." Đêm về, cuộc sống
ruộng đồng trở nên mê hoặc, với ánh trăng
về thôn dã và hình
ảnh gạo trắng trăng thanh với "tiếng chày khua" văng vẳng
đâu đây.
Tôi nghe kể những mối tình của các chàng trai
và các cô gái trong miền quê qua những dịp gặp nhau nơi đồng ruộng.
Những mối duyên quê thật đơn sơ, chỉ cần "dăm miếng trầu
cay một buồng cau trắng" mà nên vợ thành chồng, hoặc tình thắm duyên quê với
"tình nồng thắm xuyên qua bao mái tranh," dẫn đến đám cưới trên đường quê, với "cô dâu con con y trang mỹ miều, cô
dâu non non dung nhan mặn mà." Có lần, sau cuộc tình với nàng, tôi
đến quê bạn tôi, nó có cô em gái thật dễ thương, khiến lòng tôi xao
xuyến, thầm ca khúc hát ân tình, mơ tưởng đến "tình Bắc duyên Nam,"
và lo lắng đến nụ tầm xuân,
sợ lỡ duyên khi nàng trách "sao anh không hỏi những ngày em còn
không?"
Ngoài khoảng thời gian ngắn sống ở Đà Nẵng
và Nha Trang lúc tôi còn bé, tôi có đến miền Trung vài lần. Tôi đến
thăm viếng thành phố buồn Đà Lạt khi tôi 17 tuổi, và ngây ngất
với những cô nữ sinh đi học có cặp má đỏ hồng hồng trông thật dễ
thương. Nhưng ấn tượng mạnh mẽ nhất là cảnh Đà Lạt hoàng hôn khi
ánh chiều tà rải nhẹ trên đồi thoai thoải. Tôi không biết có ai lên xứ hoa đào "dừng
chân bên hồ nghe chiều rơi" nhưng tôi biết chắc tôi "nhìn sương
khói mà thầm mơ màu hoa trên má ai." Lúc bấy giờ tôi không biết
đến đồi thông hai mộ nên không ghé thăm để trải qua "một
chiều rừng gió lộng một chiều rừng."
Tôi chưa từng bao giờ đến Huế, nhưng biết đến
Huế qua văn chương thi ca và nỗi đau thương trong Tết Mậu Thân năm 1968.
Những lời kêu gọi ai ra xứ Huế cho biết "bến Vân Lâu còn sâu thương
nhớ, thuyền Bến Ngự còn đợi anh về." Có người thơ mộng hóa cơn mưa trên phố Huế, cho biết
"tiếng mưa còn vương kỷ niệm ngày quen nhau dưới chân Thiên Mụ, anh còn
nhớ không?"
Tôi đã tới Vĩnh Long, Cần Thơ, Thốt Nốt, nhưng
chưa đến Hà Tiên, và các
tỉnh cao nguyên miền Trung. Tôi chỉ biết những nơi đó qua trí tưởng
tượng, nhìn cảnh Hà Tiên thật đẹp với "những bóng dừa xanh mát biển
khơi," nghe văng vẳng tiếng hát Mường
Luông, ngắm nụ cười sơn cước, lắng nghe sơn
nữ ca, thưởng thức chiều lên
bản Thượng, tiếc thương mối hận
Đồ Bàn, và trân quý còn một chút gì để nhớ tới Pleiku.
Tuy nhiên, cho dù Đà Lạt mộng mơ, Huế thùy
mị, và vùng đồng quê dễ thương, Sài Gòn vẫn ghi đậm trong tâm khảm
tôi. Khi tôi có dịp đi khắp nơi trong Sài Gòn, tôi mới ý thức được
tại sao Sài Gòn được mệnh danh "Hòn Ngọc Viễn Đông" bấy
giờ. Thật vậy, Sài Gòn đẹp lắm.
Có những ngày tôi "dừng chân trên bến khi chiều nắng chưa phai, từ xa
thấp thoáng muôn tà áo tung bay." Những con đường thơ mộng, bùng binh
đông xe cộ, biệt thự im lìm tạo nên những tương phản độc đáo. Tôi say
mê với đêm đô thị khi
"màn đêm xuống dần, muôn ánh đèn đột nhiên như ngời sáng," và nhớ
mãi những buổi chiều Sài Gòn thứ bảy "ngàn hoa trên đường."
Nỗi buồn gác trọ
Sài Gòn là thành phố lớn, đông dân. Nhiều
người thuê mướn phòng hoặc gác ở trọ mang nặng nỗi buồn gác trọ vì
"gác lạnh về khuya cơn gió lùa, trăng gầy nghiêng bóng cài song
thưa," hoặc có căn nhà ngoại ô, "một
căn nhà xinh có hoa thơm trái hiền; gần kề lối xóm, có cô bạn thân sớm hôm lo
sách đèn." Như tại các thành phố lớn khác, Sài Gòn có đủ mọi
hạng người và có những thay đổi trắng đen bạc tình bạc nghĩa. Nhưng
người miền Nam không lấy làm chua chát hoặc có thái độ tiêu cực
về thói đời gây ra "đường thương đau đày ải nhân
gian," mà có một cái nhìn lạc quan bảo nhau hãy ngước mặt nhìn đời và kêu gọi "cười lên đi em ơi, dù nước
mắt rớt trên vành môi."
Tình cảm con người nhiều khi thay đổi theo sinh
hoạt ngoài đường và thời gian trong một ngày. Buổi sáng, khi rạng đông, ta thường có ý chí phấn đấu,
tưởng chừng nghe "cung kèn rạng đông, đang uy linh lừng vang trên không,
đang thiết tha hùng hồn, khơi chí gan Lạc Hồng." Buổi chiều thường
diễn ra chậm chạp trong ngày, ngắn dài tùy theo mùa. Đối với một
người lữ khách, buổi chiều có thể tạo nên một nỗi
buồn man mác nào đó, "trên đường về nhớ đầy, chiều chậm đưa chân ngày,
tiếng buồn vang trong mây." Buổi chiều của mùa thu còn gây nhiều
xúc cảm, vang lại tiếng xưa. Khi trời trở tối, sau một ngày mệt mỏi,
ta cảm thấy cô đơn khi đi trong xóm đêm hoặc buồn ngủ trong phố đêm. Nhưng không phải ai cũng muốn
ngủ vào ban đêm. Thực vậy, hoa nở về
đêm là dịp để những
người đang yêu tìm ra được chân lý của tình yêu: "tình yêu đẹp nghìn
đời là tình yêu khi đơn côi."
Sống trong miền Nam, nhất là Sài Gòn, mà không
nhắc đến chuyện mưa nắng là một việc thiếu sót. Ở miền Nam thực ra
chỉ có hai mùa: mưa và nắng.
Mưa ở Sài Gòn thường là những cơn mưa xối
xả, nhưng không kéo dài. Tôi không biết mẹ tôi, khi nhìn trời mưa, có
so sánh mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội hay không. Tôi chẳng bao giờ hỏi và chỉ
thưởng thức cơn mưa Sài Gòn theo ý thích tôi, nhất là nghe những giọt mưa thu "thánh
thót rơi" ngoài hiên, những giọt
mưa trên lá "bỡ ngỡ,
xôn xao, cuống quít, dạt dào," hoặc tiếng mưa rơi trong
"nhịp mưa rơi nhuộm tím bầu trời, gió đêm vi vu muôn ngàn
lời." Nhiều khi, tôi thấy chẳng thà
như giọt mưa còn sướng,
vì chẳng phải lo âu gì, mà lại được tự do, reo hò với lá cây. Tuy
nhiên, mưa thường không gợi ra niềm vui hạnh phúc, như trong ca khúc "Tuổi đá buồn" khi "trời
còn làm mưa, mưa rơi mênh mang, từng ngón tay buồn, em mang em mang." Mưa
cũng khiến nhiều chàng trai nhớ đến người yêu, như trong ca khúc "Diễm xưa"
khi "mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ."
Có những cơn mưa
đêm ngoại ô tầm tã, hoặc
những cơn mưa nửa đêm, khiến
nhiều người "đêm chưa ngủ nghe ngoài trời đổ mưa từng hạt rơi." Có
người tưởng tượng mưa rừng có linh hồn của chính nó, và kêu gọi
"Mưa rừng ơi! Mưa rừng! Hạt mưa nhớ ai mưa triền miên." Cơn mưa cũng
là dịp các chàng trai thú tội với người em hiền như ma sœur khi
"đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa." Những cơn mưa lại
càng làm nhiều người đau buồn với kiếp
nghèo, khi bước đi trên "đường về đêm nay vắng tanh,"
lắng nghe "rạt rào hạt mưa rớt nhanh."
Nếu mưa làm nhiều người bực bội vì bị ướt
át, thì những tia nắng luôn luôn đem lại sức sống vui tươi. Thực
vậy, nắng đẹp miền Nam không những tô điểm miền Nam mà còn đem
sức sống và tình cảm cho con người miền Nam. Những tia nắng chiều gợi
lại chuyện tình ngày nào khi "qua bến nước xưa lá hoa về chiều, lạnh
lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa." Những buổi chiều nhạt nắng làm tăng tình yêu thương
miền quê khi "hoàng hôn phai nắng, chân trời xa vắng, còn đâu tiếng tiêu
buông." Những người lãng mạn tưởng tượng giọt nắng hồng là "giọt nắng đi hoang
vào mắt em buồn" và nắng thủy tinh có "màu nắng hay là màu mắt em."
Những kẻ thất tình, chơi vơi riêng một
góc trời nào đó nhưng vẫn
ví von "tình yêu như nắng, nắng đưa em về, bên giòng suối mơ."
Nhiều chàng trai lãng mạn nhớ người yêu, khi "nắng Sài Gòn anh đi mà
chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông."
Tuy nhiên, người miền Nam không bao giờ chịu
nhận miền Nam chỉ có hai mùa: mưa và nắng. Đất nước miền Nam thơ
mộng quá, con người miền Nam dễ thương quá, thì làm sao chỉ có hai
mùa được? Nhiều người tưởng tượng miền Nam có đủ cả bốn mùa: xuân,
hạ, thu, đông.
Cánh thiệp đầu xuân
Mùa Xuân dường như lúc nào cũng liên quan đến
Tết nhất. Mùa xuân miền Nam thật thơ mộng, lãng mạn. Trong
không khí vui nhộn của những ngày Tết, mọi người cùng nhấc ly rượu mừng,
"chúc người binh sĩ lên đàng, chiến đấu công thành," đánh tan lũ
giặc Bắc cộng xâm lăng. Người dân miền Nam kể câu chuyện đầu năm, khi
người người "trên đường đi lễ Xuân đầu năm, qua một năm ruột rối tơ tằm."
Có người hứa với người yêu rằng anh
cho em mùa Xuân khi "nụ hoa vàng mới nở," và mơ
tưởng mộng chiều xuân, tự
hỏi, "mối tình đầu xuân ai thấu chăng?" Nhiều người gửi
những cánh thiệp đầu Xuân hỏi
nhau, "xuân đến rồi đây nào ai biết không?" Mùa Xuân cũng là mùa thiên
hạ cưới nhau. Có những đám cưới đầu
xuân thật dễ thương, của những đôi uyên ương là bạn từ
bé. Một tục lệ người dân miền Nam không quên là đi coi bói, hỏi về
chuyện tình tài tương lai, nhất là các cô muốn biết thiên duyên tiền định thế nào.
Trong cảnh chiến tranh, nhiều chiến sĩ đón
mừng xuân với nỗi niềm bâng khuâng thiếu thốn, đón Xuân trong phút giao mùa, tiếc với người tình
rằng "quà xuân anh chẳng có, gác giặc từng giờ, đời lính chiến lấy gì gửi
về em?" Người lính nơi tiền đồn, trong phiên gác đêm Xuân, "đón giao thừa một phiên gác đêm,
chào xuân đến súng xa vang rền." Người xa gia đình, viết thư cho mẹ
cho biết xuân này con không về hoặc viết lời cảm ơn về
những món quà Tết như "bánh chưng mẹ già tự tay gói gửi cho
con."
Mùa hè là mùa vui tươi nhưng cũng là mùa
buồn cho tuổi học trò vì xa trường trong ba tháng. Mỗi độ hè về, hoa
phượng rực nở, trong khi mọi người vui vẻ vì "trời hồng hồng
sáng trong trong," có những cô cậu học trò mang nặng nỗi buồn hoa phượng. Có những thương ca mùa hạ,
khi "tiếng ve nức nở chan chứa, sân trường còn lại hai đứa." Vào
những ngày cuối năm học, các cô cậu học trò thường ghi lại cảm nghĩ
trong quyển lưu bút ngày xanh trước
khi xa nhau. Thế rồi, ngày họp mặt
lần cuối đến, bạn bè bắt tay từ giã. Ngày tạm biệt là
ngày buồn cho mọi học sinh khi "bên xác hoa âu sầu vì tả tơi, ngàn ve
buông tiếng nỉ non như thương cho người đi." Trong cảnh chiến tranh,
mùa hè có nhiều ý nghĩa. Có người muốn đưa em vào hạ, hứa
với người tình "mùa hè năm nay anh sẽ đưa em rời phố chợ đôi
ngày." Mùa hè còn là mùa nắng ngập, trắng xóa thiên nhiên, gợi
những cuộc tình dở dang. Nhiều chàng trai thương nhớ hạ trắng,
"gọi nắng, trên vai em gầy đường xa áo bay."
Từ mùa hè qua mùa thu có sự thay đổi
của sắc hoa màu nhớ khi
"hoa phượng rơi đón mùa thu tới." Mùa thu thường đem lại nỗi buồn
vì cảnh lá rơi ngập đường và màu sắc tàn úa của hoa lá. Có người
nhớ mùa thu chết khi "ngắt đi một cụm hoa thạch thảo."
Tuy nhiên, có người không đồng ý, tin rằng mùa thu còn đó, và kêu gọi, "Xin đừng nói, xin đừng
nói thu chết rồi! Không, thu vẫn sống, đem hình bóng cho cuộc đời." Cho
dù mùa thu sống hay chết, vẫn có những giọt nước mắt mùa thu "khóc
ai trong chiều," hoặc tiếc nuối thu
sầu, khi "mùa thu thưa nắng gió mang niềm nhớ, trời chiều man
mác buồn nát con tim." Buổi chiều mùa thu dễ tạo ra hoài cảm đến
nỗi "lòng cuồng điên vì nhớ, ôi đâu người, đâu ân tình cũ?"
Cảnh thu vàng gợi nhiều cảm xúc khi "lang thang
trên đường; hoàng hôn xuống, chiều thắm muôn hương." Tình cảm do
ngọn trúc đào còn ví von "mùa thu lá rụng bay vào
sân em."
Nhưng không phải mùa thu nào cũng gợi đến
buồn thương, chia ly, tang tóc. Người miền Nam là người yêu đời, vì
vậy thiên nhiên buồn bã không làm mất đi tinh thần vui tươi và lạc
quan. Mùa thu đem đến ước mơ đoàn tụ, khi chàng trai tặng mùa thu cho em, với những lời ngọt ngào
lãng mạn, và ao ước "hai chúng ta sẽ cùng chung lối, em với anh mơ mùa
thu ấy tình ta ngát hương." Mùa thu còn được gọi là mùa thu yêu đương khi
chàng trai muốn "đôi ta mãi như người tình, vui đời hẹn hò, khi trên
giòng suối, khi trên đồi buồn."
Cho dù mùa thu đem lại nỗi buồn chia ly hay vui
đời lãng mạn, nó luôn luôn được đi theo bởi mùa Đông lạnh lẽo khiến
nhiều người cảm thấy cô đơn. Có người day dứt với chuyện tình dang
dở, than thở mối sầu đông.
Có người tiếc nuối mùa đông của anh và luyến tiếc mối tình chết theo mùa đông. Mùa đông cũng là
mùa tiễn biệt và mong chờ hội ngộ, khi sương
lạnh chiều đông "vương
tiếng thở của người nguyện đợi chờ nghẹn ngào giờ tiễn đưa." Thời tiết
lạnh lẽo làm nhiều người lãng du cô liêu nhớ đến người thương yêu trong
cảnh đêm đông.
Tuy nhiên, mùa đông còn là dịp lễ Giáng Sinh
khi mọi người, bất kể tôn giáo, hân hoan mừng ngày Chúa sinh ra đời.
Tuy gia đình tôi theo Phật Giáo, tôi vẫn thường cùng các bạn đi tới
các nhà thờ quanh Sài Gòn, nhìn đám đông người, nhất là các cô gái
xinh xắn, đi dự lễ trước buổi ăn réveillon, ngắm nhìn cảnh vật thu
nhỏ trưng bày của hang Bê Lem,
nơi "đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang
đá nơi máng lừa," và lắng nghe bài
thánh ca buồn, khi "Noel năm nào chúng mình có nhau."
Thiên nhiên và khí hậu có ảnh hưởng đến tình
cảm và cuộc sống người miền Nam. Nhưng cho dù mưa nắng, xuân hạ thu
đông, đa số người miền Nam có tinh thần lạc quan, và nhẫn nại để
vượt qua những khó khăn của cuộc đời. Đối với họ, sức mấy mà buồn, và khi nỗi buồn đến,
họ chỉ nhún vai, "buồn ơi bỏ đi Tám," hoặc nghèo mà không ham, "nghèo mình nghèo
mà mình không ham." Ngoài ra, người miền Nam ưa chuộng cuộc sống tự
do, nghệ sĩ. Chỉ cần có một cây đàn là cuộc sống trở nên Ô mê ly "đời
sống với cây đàn, tình tính tang dạo phím rồi ca vang." Có người thích
cuộc sống lãng tử, không ràng buộc, để rồi ngày nào đó, dừng bước giang hồ. Có người
thích sống với thiên nhiên, rừng núi, đốt ngọn lửa bừng sáng trong
"màn đêm chơi vơi buông lơi, gió rừng reo xuyến xao khung trời."
Những tay giang hồ anh chị với cuộc đời phóng đãng có vết thù trên lưng ngựa hoang vì họ là những con "ngựa hoang nào
dẫm nát tơi bời, đồng cỏ nào xanh ngát lưng trời." Những thiếu nữ miền
Nam còn được biểu hiện qua thiên nhiên tạo nên huyền thoại người con gái với "loài ngọc đá mang tên em,"
"loài hoa trắng mang môi em," hoặc "loài rêu biếc mang mắt
em."
Trong khi gia đình, học đường, tình yêu, con
người, đất nước, và thiên nhiên là những hình ảnh thơ mộng và tốt
đẹp của miền Nam hiền hòa, cuộc chiến tranh tạo bởi cộng sản Bắc
Việt là một thảm kịch bi thương cho cả hai miền Nam Bắc. Hàng chục
ngàn thanh niên miền Bắc rời bỏ gia đình quê nhà, theo lệnh đám lãnh
đạo cộng sản dưới sự điều khiển của cộng sản Nga Tàu, xâm lăng miền
Nam bắt đầu từ cuối thập niên 1950 và leo thang dần dần, gieo rắc máu
lửa kinh hoàng và tàn phá đất nước khắp nơi.
Cơn mê chiều
Cực đỉnh của cuộc chiến có lẽ là Tết Mậu
Thân năm 1968. Tại Sài Gòn, quân cộng sản bị đẩy lui, trà trộn vào
khu dân cư, khiến cuộc phản công của quân lực miền Nam Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) thật khó khăn. Nhà cửa cháy, dân bồng bế chạy thoát nơi
giao chiến trên khắp tám nẻo đường
thành. Đó là lần đầu tiên tôi nghe tiếng trực thăng quần
trên không cả đêm và thấy những đóm mắt
hỏa châu "bừng lên
trong màn tối." Sự tàn ác dã man của những người cộng sản được
kể lại qua câu chuyện một đêm, khi lũ quân cộng sản bắn giết đứa bé thơ,
để bà mẹ đau thương "đưa môi hôn trán con yêu giá lạnh, vuốt ve lần cuối
trước khi xa con suốt đời." Trận chiến tại Huế là trận khốc liệt
nhất và cho thấy bản chất dã man vô nhân đạo của cộng sản Bắc Việt
qua cuộc thảm sát hàng ngàn người dân hiền lành vô tội. Có người
ngã vào cơn mê chiều khi lũ cộng sản là "đàn con nay lớn
khôn mang gươm đao vào xóm làng" khiến "đồi Ngự Bình thịt xương khô
sườn đá, Kim Long ơi, bờ lau ngóng, chuông chùa tắt rồi." Người dân Huế
không quên câu chuyện một chiếc cầu đã gẫy khiến cho "cầu thân ái đêm nay gẫy một
nhịp rồi, nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài."
Sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân, lệnh
Tổng động viên được ban hành. Tôi có những người anh họ gia nhập quân
đội trước đó. Một người anh trong nhà tôi gia nhập quân đội dưới lệnh
Tổng động viên. Ba mẹ tôi không muốn anh
đi chiến dịch nhưng không
làm sao hơn được. Trong những tháng ngày anh ở trong trung tâm huấn
luyện, gia đình chúng tôi thăm anh đều đặn và biết đến vườn Tao ngộ qua
những lần thăm viếng đó. Rồi sau đó, qua mấy năm, những đứa bạn ngày
nào cùng lớp trong trung học lần lượt gia nhập quân đội, trong khi một
số lớn khác, kể cả tôi, có hoãn dịch vì lý do học vấn. Những cô
gái có người yêu đi lính viết những bức
tâm thư "nói rằng nước
non đang mong, đi quân dịch là thương nòi giống." Chiến tranh đã cho người vào cuộc chiến, những thanh
niên phải gác bút thư sinh, giã từ những người thân yêu và nhất là
người tình, trả lại em yêu "khung trời đại học, con đường Duy Tân
cây dài bóng mát."
Các người anh và các bạn tôi đi theo đủ mọi
binh chủng và các ngành đặc biệt và ở rải rác khắp nơi trên lãnh
thổ miền Nam. Những cô gái có người yêu đi lính thường hỏi giờ này anh ở đâu?
Nhưng dù họ thuộc binh chủng nào, họ là những người trai xếp áo thư
sinh, nguyện trên đầu súng "ta đi tổ quốc đã vươn mình, trên lưỡi
lê căm hờn hờn căm như triều sóng."
Một đứa bạn tôi đi Hải quân. Đối với nó,
cuộc đời chỉ là tình ca người đi
biển, "chiều nay ra khơi,
thoáng thấy mắt em nhuốm buồn." Con tàu lênh đênh trên đại dương vẽ ra
nhưng cụm hoa biển trắng
xóa. Khi người yêu trách móc không viết thư, nó bào chữa lính mà em vì "tàu lắc lư làm sao
viết thư tình." Những chàng phi công phản lực còn thấy tuyết trắng trên
không khi con chim sắt "vượt cao vút cao, mây trời kết thành một vùng tuyết
trắng ngần." Những phi công lãng mạn lái phi cơ trong một chuyến bay đêm mơ
màng tưởng tượng sứ mạng mình là "níu áo hằng nga, ngồi bên dẫy
ngân hà." Những chiến sĩ lục quân có lẽ thực tế hơn có thể vì
họ đối diện quân thù gần gũi hơn. Một người anh họ của tôi là sĩ
quan nhảy dù, nhưng anh rất hiền, nói năng nhỏ nhẹ. Tôi không thể hình
dung anh là thiên thần mũ đỏ "với
áo hoa mũ đỏ chân mang bốt đờ sô, khi sa trường khi trong thành phố," như
nhiều lính dù lên điểm vì "là thiên thần giữa trời
mây."
Có người đóng quân ở các tỉnh biên giới là
kẻ ở miền xa, trải qua những đêm trên vùng đất lạ, đối
diện vùng trước mặt của quê hương thân yêu đang bị giày xéo
bởi đoàn quân xâm lăng từ miền Bắc. Cảnh tượng nửa đêm biên giới khiến
nhiều chiến sĩ trẻ nhớ đến người mẹ hiền. Có người thức khuya
qua đêm tiền đồn cô đơn, lạnh lẽo, nghĩ đến gia đình và
người yêu. Có người đi hành quân trên các vùng núi non, gần làng quê
gia đình, ngồi ôm súng gác trong không khí dày dặc sương trắng miền quê Ngoại, và nhớ đến
những ngày họ ở bên người tình, ngồi bên nhau trong quán nhỏ tâm tình
hoặc nằm trên bãi cỏ đầy bông cỏ may,
nhìn bầu trời trong xanh. Trong những cuộc quân hành, họ "qua vùng
khô cặn, mồ hôi thành biển mặn trên môi," hoặc qua những khu rừng lá thấp với
"rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi." Với những người có bạn
gái, họ có vài lời tình viết vội cho người yêu trong những lúc nghỉ ngơi
trong cuộc hành quân. Vì đi xa lâu ngày, nhiều người lo âu người yêu sẽ
quên mình. Họ thường hỏi người yêu sao
chưa thấy hồi âm và bày
tỏ nỗi âu lo, khiến người yêu vội viết thư để trả lời một câu hỏi "Anh vắng nhà hoài em có nhớ?"
Các anh, các bạn tôi, và những người chiến
sĩ VNCH, tham gia nhiều trận đánh kinh hồn trên bốn
vùng chiến thuật. Là lính
trận xa nhà, họ rất nhớ gia đình, bạn bè, người tình,
và mong mỏi được nghỉ phép về thăm nhà. Họ không vui mỗi khi bị cấm
trại một trăm phần trăm không được đi phép. Họ khao khát những ngày nghỉ phép và "mong những khi gần nhau dù không
lâu là bao nhưng sẽ đẹp bằng chuyện thần thoại hoang đường." Có người
được 24 giờ phép về thăm gia đình và bạn gái như người xa về thành phố. Có người được ở lâu hơn, độ một tuần.
Nhưng rồi, ngày vui qua mau,
các bạn tôi lại trở về chiến trường, bỏ lại thành phố sau lưng. Trước khi các bạn
tôi giã biệt Sài Gòn, chúng
tôi thường gặp nhau biệt kinh kỳ tại các quán cà phê và uống ly cà phê cuối cùng vì
không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi tụi nó trở lại chiến trường. Với
những người có người yêu hoặc vợ, mỗi lần ra đi là quyến luyến nói
lời tạ từ trong đêm và hứa hẹn không bao giờ ngăn cách. Có đứa chia
sẻ tâm sự người lính trẻ với người yêu rằng "từ khi anh thôi
học, từ khi đôi lứa đôi đời, từ sông ngăn núi trở, tạ từ không nói nên lời."
Xin anh giữ trọn tình quê
Có những lúc trăng
tàn trên hè phố tôi thấy những "người trai nơi chiến tuyến,
súng trên vai bước lê qua đường phố." Nhiều người là bạn thời còn đi
học và tình cờ mười năm tái
ngộ tại đơn vị, vui mừng "suốt đêm không ngủ bên tách
cà phê đen chúng ta ôn chuyện đời." Những cảnh gặp nhau trước khi các
người lính lên đường làm đậm đà tình
anh lính chiến. Họ không cần phải nhắc nhở nhau xin anh giữ trọn tình quê vì ai
cũng thề không phản bội quê hương.
Đa số chiến sĩ VNCH có người yêu thường có
hai mối tình: tình yêu tổ quốc và tình yêu trai gái. Nhiều người tự
hào về người tình và quê hương và tính chất đa tình trong cuộc tình họ.
Nhưng chuyện tình của những người chiến sĩ VNCH thường có chuyện
buồn thương vì xa cách và những hậu quả đau thương của chiến tranh.
Có những cặp vợ chồng khi hội ngộ thường trộm nhìn nhau vì bỡ ngỡ ngại
ngùng sau thời gian xa cách, và người vợ "mơ thấy một ngày con níu
chân cha." Có người băn khoăn hỏi người tình, nếu em không là người yêu của lính,
thì "em sẽ nhớ ai Chủ Nhật trời xinh?" Những người đi hành quân
thường nghĩ đến người yêu dọc đường, khi đi qua những đồi hoa sim "tím
chiều hoang biền biệt," hoặc hái hoa
trinh nữ khi "qua một
rừng hoang gió núi theo sang rũ bụi đường trên vai." Nhiều khi, trong
cuộc chiến, người ra đi không phải là người lính trận mà là người em
gái hậu phương của họ, từ cô vợ trẻ khâu vá áo anh sứt chỉ đường tà cho tới người hôn thê trong mối tình thiên thu.
Những lá thư viết
từ KBC (Khu Bưu Chính)
còn là nhịp cầu tri âm móc nối những người lính và những
người em gái hậu phương. Những mối tình anh
tiền tuyến em hậu phương nhiều khi dẫn đến hôn nhân
với đám cưới nhà binh khi "em sẽ là cô dâu đẹp tuyệt
vời." Đôi khi, cuộc sống hôn nhân với người lính có những chuyện
ghen tuông, đưa đến cảnh hờn anh giận
em, khiến anh chồng lính phải van xin, "Anh đi lâu lâu mới
về, yêu thương cho nhau dài nhé, mười lăm ngày phép đi vèo buồn nhớ mang
theo."
Trong khi những người chiến sĩ VNCH chiến đấu
nơi tiền tuyến chống lại quân cộng sản xâm lăng, thì những người thân
yêu nơi hậu phương lo âu đêm ngày. Nhiều cô gái xa vắng chồng
hay người yêu đi ra ngoài chiến trường, nhớ thương người yêu, "ngày
anh xa vắng em không trang điểm đợi chờ, những đêm gió lạnh đầu hè, khuê phòng
phủ kín tâm tư," hoặc bày tỏ tình
chàng ý thiếp, "từ chàng xa vắng, lên đường ruổi rong chiến
chinh."
Nhờ những người vợ, người yêu, người em nơi
hậu phương, những chiến sĩ VNCH trở nên cứng cáp và có niềm tin mạnh
mẽ. Những cô gái hậu phương, có người yêu là lính hay không, thường ca
ngợi lính, cho biết tôi nhớ tên anh bằng cách "viết tên anh trên lá trên
hoa," "trong trái tim tôi," "trên đá, trên vôi," hoặc
"ngập nẻo đường đi ngàn lối." Có người bày tỏ nỗi lòng thương anh qua
lời tri ơn,"non sông cho sức trai xây đắp, đi lên người chiến binh đất nước,"
hoặc khẳng định tình yêu anh đâu em đó. Trong những dịp đơn vị trở
về thủ đô, những cô gái hậu phương vui mừng đón chào anh về thủ
đô "chúng tôi chờ mong, với vạn niềm tin với muôn tình
thương." Những người em hậu tuyến này là những cánh hoa thời loạn tô điểm những
"câu chuyện tình người hùng và giai nhân." Do đó, tuy tay cầm
súng, những chiến sĩ VNCH vẫn hiểu sức mạnh của tình yêu và phải
thốt lời đa tạ, "Tôi xin
đa tạ ngày nao súng phải thẹn thùng, ngày nao súng phải lạnh lùng."
Không ai muốn là người
chết trở về cho dù "từ ngục tối hay mộ sâu," nhưng
đó không là một sự lựa chọn. Rất may là những người anh và bạn bè
tôi vẫn còn nguyên vẹn sau cuộc chiến, trừ người anh họ đi lính Nhảy
dù tử trận. Có rất nhiều người không được may mắn. Có người
tặng kỷ vật cho em "là
hòm gỗ cài hoa," hoặc "trên chiếc băng ca," hoặc "đôi nạng
gỗ." Có người trở thành thương binh khi ngày trở về, "bước
lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre." Nhiều người nhớ người thương binh khi "chàng về, chàng về nay đã cụt tay." Nhiều
người là những chiến sĩ vô danh,
hoặc trở thành người tình không chân
dung "để lại cái nón sắt
trên bờ lau sậy này." Có những người vợ tưởng như còn người yêu cho dù "ngày mai đi nhận xác chồng."
Cuộc chiến đã đưa nhiều người vào lịch sử.
Bài hát "Huyền sử ca một người mang
tên Quốc" ghi nhớ phi công Phạm Phú Quốc. Ca khúc "Người ở lại Charlie" tưởng nhớ trung
tá Nguyễn Đình Bảo, tử thủ tại chiến trường Charlie. Ca khúc "Anh không chết đâu anh" vinh danh "người
anh hùng mũ đỏ tên Đương."
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt, chính phủ
VNCH đặt ra chương trình Hồi Chánh kêu gọi ngày về của những người lầm đường lạc lối
theo cộng sản, "tung cánh chim tìm về tổ ấm," và đón chào
họ về dưới mái nhà, "người
ơi, mau về đây, về bên bếp hồng tay cầm tay." Chương trình này đã đem
lại hạnh phúc cho hàng trăm ngàn người cộng sản trở về với chánh
nghĩa quốc gia.
Lá thư trần thế
Những ước mơ của người miền Nam rất đơn giản.
Có người chỉ mơ ước cho tôi được một lần "nhìn
hoa giăng đầu ngõ." Có người biểu lộ ý tôi muốn "tìm
đến thiên nhiên," hoặc "sống như loài hoa hiền." Có người
nguyện cầu qua lá thư trần thế cầu mong "an vui cho người đầu tuyến,
trẻ thơ yên tâm sách đèn, để mẹ hiền con hết ưu phiền." Cho dù đất nước
khốn khó và chiến tranh gây cảnh điêu tàn, ai cũng xin chọn nơi này làm quê hương vì "ta còn những người thật yêu nhau
biết bao thiết tha." Các người anh, các bạn tôi, và tôi mong mỏi
ngày nào qua cơn mê đời để trở về cuộc sống bình an. Khi
hiệp định Paris được ký vào năm 1973, ai cũng mơ ước một mai giã từ vũ khí để "trả súng đạn này, ôi sạch nợ sông
núi rồi." Nhưng cuộc chiến cứ tiếp tục, ngày càng khốc
liệt. Tôi đã gặp những
người chiến sĩ như các anh các bạn của tôi "trên khắp nẻo đường đất
nước mến yêu" và ai cũng có cùng một tinh thần chiến đấu bảo vệ
đất nước như nhau và mơ ngày đất nước thanh bình.
Nhưng giấc mơ thanh bình đó tiêu tan vào ngày
30 tháng 4 năm 1975 khi cuộc chiến tranh súng đạn chấm dứt, chỉ để
nhường lại những năm tháng đen tối nhất của người dân Việt Nam trong
ngục tù cộng sản. Những bài hát miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm
1975 là những ngọn nến soi sáng ngục tù tăm tối đó và khơi dậy sức
mạnh vĩ đại của tình yêu và tổ quốc Việt Nam. 304 bài hát ở trên
được chọn để nhớ ngày 30 tháng 4.
8/4/2017
No comments:
Post a Comment