S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Tue,
11/24/2015 - 23:21 — tuongnangtien
Đảng
ta là đạo đức, là văn minh.
Chừng
ba mươi năm trước, tôi may mắn đọc được bài viết rất công phu của nhà
văn Trùng Dương – “Phan Khôi: Ngọn
Hải Đăng Giữa Vùng Biển Động.” Trước đó, tôi chỉ nghe danh ông là
người mở đường cho phong trào thơ mới ở Việt Nam:
Hai
mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa.
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
Hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
Hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
- Ôi
đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
Mà lấy nhau hẳn là không đặng ....
Mà lấy nhau hẳn là không đặng ....
Hai
mươi bốn năm sau. Tình cờ đất khách gặp nhau.
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được.
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
Con mắt còn có đuôi.
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được.
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
Con mắt còn có đuôi.
Nhờ
chị Trùng Dương, tôi mới biết được thêm Phan Khôi từng được mệnh danh
là một Ngự Sử Văn Đàn. Ông đã có những đóng go
́p lớn lao cho làng báo Việt, vào giai đoạn sơ khai.
Gần đây, qua biên khảo (Phê Bình Văn Học
Thế Hệ 1932) của Linh Mục Thanh Lãng, tôi lại được dịp xem qua
quan niệm về nữ quyền vô cùng phóng khoáng (và rất cách mạng) của
ông:
“Trong phụ nữ ta có nhiều người chồng
chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ, vậy mà nói đến
truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn
răng cũng giữ được trót đời ; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra
mang cái xấu lại còn hơn cải giá. Lại thường thấy bà goá nào có máu mặt thì bọn
điêu thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong đoạt lấy gia tài.
Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà ra ; vậy thì nó
chỉ làm hại cho phong hoá thì có chớ có bổ ích gì đâu ? Bởi vậy ta nên phế trừ
cái luật ấy đi ; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt
Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa.” (Phụ Nữ Tân Văn số 95,13-8-1931).
Nguồn
ảnh: vuisongmoingay
“Cái
luật cải giá” khắt khe của thời phong kiến tại Việt Nam – tiếc thay –
đã không bị “phế trừ” mà còn trở nên khắt khe hơn, sau khi cuộc
cách mạng vô sản thành công ở xứ sở này:
Ả Định
mới hai mươi hai tuổi đã có ba đứa con, nhưng trông còn son lắm. Da trắng, má
lúc nào cũng ửng hồng, ngực phây phây như cái thúng. Anh mất, ả nghĩ mình là
người của Đoàn thể nên rất giữ gìn. Hơn nữa, gia đình ả có công với cách mạng từ
lâu. Bác Hoe Chu, bố chồng, tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội từ năm
1927. Chồng của ả vào Đảng từ khi còn bóng tối. Về làm dâu, ả được bố chồng và
chồng giác ngộ, cũng trở thành đảng viên… Không may giữa đường đứt gánh tương
tư. Giữ nếp nhà, ả mặc áo sổ gấu, đội nón không vành. Nhưng sức lực càng ngày
càng căng ra... Tuy
thế, ả vẫn tránh tất cả các trường hợp đàn ông cợt nhả khi gặp riêng trên đường
làng… Rồi đến một hôm, trong cuộc họp, anh Cu Kình liếc mắt nhìn ả, ả quay mặt
đi. Cứ quay mặt mãi cũng không tránh được cái vòng vây tình ái của anh Cu Kình.
Đôi má của ả càng ngày càng đỏ au như con gái dậy thì khiến anh mê như điếu đổ.
Anh đón gặp ả trên đường làng, gặp ngoài đồng, gặp ban ngày, gặp ban đêm. Rồi
hai người hò hẹn nhau. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Và ả có thai sau bảy năm
giữ gìn. Đảng uỷ triệu tập ả lên trụ sở...
Khi
nêu vấn đề khai trừ ả Định, có người gợi ý “chiếu cố quá trình tham gia cách mạng
của gia đình”. Nhưng đồng chí bí thư diễn giải một cách kiên quyết: “Tội quan hệ
tình ái bất chính là tội rất nặng. Hơn lúc nào hết, trong hoàn cảnh hoà bình,
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, Đảng ta phải thật trong sạch. Đảng viên đi
trước làng nước theo sau... (Võ Văn Trực. Cọng
Rêu Dưới Đáy Ao. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty Văn Hoá &
Truyền Thông Võ Thị, 2007. Bản điện tử do talawas
chủ nhật thực hiện).
Cách
“diễn giải” của “đồng chí bí thư” về “quan hệ tình ái” , xem ra, có
vẻ hơi xa (rời) với cuộc sống của “làng nước.” Sau những lũy tre
xanh, người dân Việt vẫn cứ sinh hoạt theo nhịp thở, nhịp tim, và
tiếng lòng của họ (thay vì theo ý Đảng) bất kể là vào thời bình
hay thời chiến:
Những
năm 1965- 1975 nhà mình sơ tán ở làng Đông. Nhớ nhiều người nhưng nhớ nhất anh
Đa.
Bây
giờ kể chuyện anh Đa thôi, vì anh này hay nhất trong kí ức của mình về cái làng
này.
Anh Đa
lùn, đen, xấu. Anh Diệu nói cái mặt thằng Đa chành bành giống cái l. trâu.
Anh
Đa sống với mẹ già, sau mẹ chết anh ở một mình. Nhà nghèo quá, 24, 25 tuổi rồi
hỏi cô nào cũng bị chê.
Anh
con liệt sĩ, lại con một, khỏi đi bộ đội. Con trai trong làng ai lớn đều đi bộ
đội hết, còn lại dăm ba anh tuổi như anh thôi, chỉ có anh là chưa vợ. Mẹ anh
khóc lên khóc xuống, anh vẫn chẳng quan tâm đến chuyện vợ con. Cho đến khi mẹ
anh chết anh vẫn độc thân. Mình hỏi anh sao anh không lấy vợ. Anh nói tao để
vậy để đàn bà nó thèm...
Anh
chỉ làm hai việc: đi đập lúa thuê và nơm cá bán lấy tiền. Cứ mùa lúa là anh đi
đập lúa cho các gia đình có chồng con đi bộ đội, một đêm đập lúa được trả vài
lon gạo. Thế cũng đủ sống, lại được tiếng giúp đỡ gia đình bộ đội...
Một
đêm mình đi thăm túm lươn, hôm đó được nhiều, hơn chục con, mừng lắm hí hửng
xách oi về thì gặp anh Đa đi từ nhà chị Thơm ra. Mình hỏi anh đi đâu, anh nói
không.
Minh
thấy anh mặc cái áo bộ đội dài gần đến gối (anh lùn mà). Nghi nghi, mình kéo vạt
áo anh lên, chim cò phơi ra cả, hoá ra anh không mặc quần. Mình ngạc nhiên nói
sao vào nhà người ta lại không mặc quần, anh cười phì một tiếng rồi bỏ đi.
Nguồn
ảnh minh họa:trannhuong
Nhà
chị Thơm một mẹ một con, chồng đi bộ đội, thằng cu con chị mới hơn 4 tuổi. Mình
nghi lắm. Mình lẻn theo anh Đa.
Anh
Đa lại vào nhà chị Hà. Chị Hà có chồng hy sinh, vừa báo tử năm ngoái. Chị vẫn
say sưa sinh hoạt đoàn, biến đau thương thành hành động cách mạng, hăng hái
phát biểu lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu...v.v.
Bà con làng xóm khen lắm, vẫn nói với con gái con dâu: đó, sang nhà con Hà mà
coi.
Mình
vào sau hồi nhà chị Hà Tối quá không thấy gì, chỉ nghe chị kêu hệt như mèo kêu.
Mình chặn anh Đa ở cổng nhà chị Hà nói em biết rồi nha. Anh Đa túm cổ áo mình
nói mày nói tao giết.
Về
sau, lần nào đi nơm anh vừa nơm suất của anh, vừa nơm suất của mình. Mạ mình
toàn khen thằng Lập dạo này nơm cá giỏi. Hi hi.
Làng
Đông có chừng 4-5 trăm nóc nhà, hơn 1 trăm nóc là nhà hoặc là vợ bộ đội hoặc là
vợ liệt sĩ. Không biết anh Đa chui vào bao nhiêu nhà trong số 100 nóc nhà ấy,
chỉ biết suốt cuộc chiến tranh 1965-1975, tối nào cứ đến 3-4 giờ sáng anh Đa lại
mặc cái áo bộ đội dài đến đầu gối, không thèm mặc quần, đi hết nhà này đến nhà
kia, 5 giờ sáng thì về.
Mình
hỏi sao anh không mặc quần. Anh nói mặc mần chi, cởi vô cởi ra mệt. ( “Anh Cu Đa” –
Nguyễn Quang Lập).
Một
anh trai làng “lùn, đen, xấu” và “mặt chành bành giống cái l. trâu” mà
còn “bận” đến cỡ đó thì anh Ba Duẩn (“ngọn
đèn cháy sáng 200 nến”, soi khắp Bắc/Nam) làm sao mà rảnh rang cho
được:
Tháng
7-1986 Duẩn chết, dân đứng hai bên đường đếm mấy bà tổng goá. Chúng khẩu đồng từ
bảo nhau cái bà tre trẻ mặc áo dài đen dắt đứa con be bé kia đứt đuôi là vợ tư!
Ấy, chưa kể những bà bị gạt xuống nữa chứ. Cho lên cả thì khéo phải một hai xe
nữa...
Ngày
ấy nếu blogger nhiều như ba chục năm sau thì trên mạng cử là lũ lụt lời bình về
sức mạnh tính dục của Lê Duẩn.
Rõ
ràng là có nỗi sự riêng tư thầm kín của thân thích ông, sau cái chết của ông, vị
hoàng đế đỏ từng làm run
sợ và đau khổ biết bao con người. (Trần Đĩnh. Đèn
Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).
Những
vị “hoàng đế đỏ” kế tiếp (Đỗ Mười, Lê Khả , Nông Đức Mạnh) cũng
đều là những nhân vật mà sinh hoạt tình dục của họ khiến cư dân
mạng phải tốn không ít thời giờ. Điều may mắn là đất nước
bước vào “thời mở cửa” (chả còn phải giấu diếm gì, và muốn giấu
cũng không thể được) nên không có tình nhân nào bị biến thành nạn
nhân – bị xe tông bể sọ – như bà Nông
Thị Xuân ngày trước nữa.
Ảnh: vietnamnet
Cũng
từ thời đổi mới, quan niệm về sinh hoạt tình dục của toàn dân rất
nới (và rất mới) – theo thông tin của tờ Việt
Báo: “Việt Nam Tỷ lệ nạo phá thai cao hàng đầu thế giới.”
Tờ Vietnamnet thì
đưa ra một con số khiêm tốn và nhẹ nhàng hơn, chút xíu: “Hiện Việt Nam
vẫn là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp
thứ 5 thế giới.”
Tại
sao Việt Nam lại đứng đầu thế giới, hay toàn khu vực về tỷ lệ
nạo/phá thai như thế? Tôi trộm nghĩ thế này, đúng sai xin được công luận
quan tâm để vấn đề thêm được tỏ tường: chắc tại ở những quốc gia khác không có một vị lãnh tụ đạo
đức như Hồ Chí Minh nên dân chúng không phải học tập và làm theo tấm gương
của Bác.
No comments:
Post a Comment