19.07.2015
Chuyến đi thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
rõ ràng là một sự kiện rất quan trọng. Nhiều nhà bình luận chính trị đã thảo luận
về ý nghĩa của sự kiện và các diễn biến, hậu quả có thể tiếp theo.
Nói chung có hai khuynh hướng suy đoán:
1) Chuyến đi “sẽ đặt nền tảng cho những biến chuyển
sâu rộng sẽ diễn ra ở Việt Nam trong nhiều năm tới” (Alexander L. Vuving, BBC,
đăng ngày 06-07-2015). Việt Nam sẽ nghiêng về phương Tây hơn, độc lập với Trung
Quốc hơn và do đó có thể có những thay đổi có ý nghĩa về chính trị quốc gia.
2) Việt Nam cũng vẫn sẽ là đồng minh chí cốt với
Trung Quốc, với nền chính trị quốc gia không có các thay đổi đáng kể.
Người viết bài này có một cái nhìn vấn đề từ góc độ
truyền thống lịch sử của Việt Nam, và từ đó mà nghiêng về suy đoán rằng Việt
Nam sẽ có những thay đổi rõ rệt và chủ động có ý nghĩ về chính trị quốc gia
theo hướng dân chủ hóa xã hội.
Xin được trình bày để thảo luận.
PHẦN
1: VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ VIỆT-TRUNG TRÊN LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN ĐẠI
Tinh
Thần Chống Ngoại Xâm Mạnh Mẽ của Người Việt:
Việt Nam có truyền thống bốn ngàn năm lịch sử chống
ngoại xâm. Kể từ Thánh Gióng chống nhà Ân (mà tài liệu giáp cốt Trung Hoa còn
ghi lại), sang Thục Phán chống Tần, rồi từ Hán cho tới Tống, Nguyên, Minh,
Thanh, không đời nào Trung Hoa không xâm lăng Việt Nam. Do đó, lịch sử Việt Nam
là bài học máu xương chống Trung Hoa xâm lược. Lịch sử và truyền thống đó tạo
nên tính cách và tinh thần bảo vệ độc lập chống ngoại xâm rất mạnh mẽ của người
Việt.
Pháp đến Việt Nam trễ (nửa sau thế kỉ XIX) và thiết
lập nền đô hộ. Dù tính cách xâm lăng của Pháp khác với tính cách xâm lăng của
các nhà Hán, Tấn, Đường xa xưa, và của nhà Minh gần đây hơn, thì Việt Nam cũng
vẫn nằm dưới một nền đô hộ. Trong thời kỳ 1983-1954, Pháp phải đối phó với các
cuộc kháng chiến liên tục và cuối cùng cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất
kết thúc sự hiện diện của Pháp tại Việt Nam năm 1954 mà không đem lại hậu quả tốt
đẹp nào cho cả hai dân tộc.
Phải chăng tinh thần chống ngoại xâm quá mạnh mẽ đã
khiến người Việt chọn biện pháp chiến tranh chống Pháp mà bỏ qua các biện pháp
chính trị, ngoại giao?
Sau năm 1954, cục diện chính trị thế giới thay đổi.
Chế độ thực dân lỗi thời hoàn toàn chấm dứt. Sự đối đầu và cạnh tranh của hai
khối Tự do và Cộng sản trên thế giới tạo cơ hội rất lớn cho cả hai miền Việt
Nam phát triển.
Thay vì nắm được thời cuộc mới, tạo môi trường hòa
bình cho hai Miền phát triển lâu bền, rồi sau đó tùy theo sự xoay vần của thế
cuộc mà tìm cách thống nhất hai Miền trong tinh thần bình đẳng, chấp nhận và
tương trợ nhau, Việt Nam lại phạm sai lầm ghê gớm: Miền Bắc dựa vào Trung Hoa
tiến đánh Miền Nam. Trong gần hai mươi năm, Việt Nam đã tự mình tàn phá cuộc sống
hòa bình và phát triển của chính Việt Nam!
Phải chăng tinh thần chống ngoại xâm quá mạnh mẽ, vốn
là điểm mạnh giúp Việt Nam tồn tại trước Trung Hoa, tới lúc này đã khiến đất nước
trệch đường rây (derail), đi theo con đường thiếu sáng suốt?
Nguyên
Nhân Khiến Việt Nam Chưa Phát Triển Như Mong Muốn và Tiềm Năng Cho Phép
Sau những tổn hại khủng khiếp, hòa bình và thống nhất
cũng đến với Việt Nam năm 1975. Tuy nhiên, tại sao sau 40 năm hòa bình dưới chế
độ toàn trị của những người Cộng sản Việt Nam, đất nước và dân tộc được thế giới
công nhận là rất giàu tiềm năng này vẫn không phát triển được như mong muốn và
tiềm năng cho phép?
Người viết nghĩ rằng do 3 nguyên nhân quan trọng:
1) Công cuộc giành độc lập đã buộc Việt Nam vào
chính thể Cộng sản, một chính thể độc tài và toàn trị. Chính thể này không
thích hợp để phát triển con người, xã hội và đất nước trong hòa bình và trong
thời đại kinh tế tri thức hiện nay. Nguyên nhân này đã có quá nhiều bài viết đề
cập tới.
2) Cuộc chiến giành độc lập quá khốc liệt đã tàn phá
tài nguyên, sinh mệnh của người Việt. Nó cũng tàn phá đạo đức, làm suy đồi
phong hóa và đảo lộn các giá trị sống truyền thống và tốt đẹp của dân tộc, làm
đứt mạch phát triển lâu dài…
3) Song song với cuộc chiến và sau đó, Trung Hoa Cộng
sản, sau khi chiếm toàn bộ đại lục từ cuối những năm 1940, bắt đầu tiến hành
các hoạt động ngăn cản sự phát triển và làm suy yếu Việt Nam, và vào giữa thập
niên 1970 bắt đầu xâm chiếm Việt Nam. Trung Quốc là nước chống lưng chủ chốt
cho Việt Nam trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975) rất tổn hại
cho đất nước.
Càng về sau, áp lực của Trung Quốc càng mạnh và tai
hại. Sau hòa bình năm 1975, Việt nam bỏ lỡ nhiều cơ hội phát triển cũng vì đó.
Cuộc chiến biên giới Tây Nam (do Trung Quốc giật dây Khmer đỏ khơi mào) và biên
giới phía Bắc (do Trung Quốc tấn công), việc Việt Nam vào WTO quá muộn màng… là
các thí dụ rõ nét.
Trong ba nguyên nhân trên, nguyên nhân thứ ba lại nhập
về với dòng chảy lịch sử dân tộc từ ngàn xưa và chưa bao giờ bị đứt đoạn: Trung
Quốc là người láng giềng có dã tâm truyền kiếp xâm lấn và nô thuộc Việt Nam.
PHẦN
2: CÁC BÀI HỌC ĐẮT GIÁ CỦA VIỆT NAM
Các
Bài Học Chính Từ Năm 1954 Tới Nay
Có rất nhiều bài học, trong đó người viết nghĩ rằng
ít nhất năm bài học dưới đây rất có ích lợi cho Việt Nam trong việc kiến tạo
tương lai:
1) Bài học thứ nhất: Việt Nam đã sai lầm khi, do bị
Pháp đô hộ 80 năm, quá chú ý tới phương Tây mà quên đi nguy cơ truyền thống to
lớn và cận kề hơn rất nhiều. Sai lầm đó khiến Việt Nam đã quên rằng Trung Quốc
là người láng giềng có dã tâm truyền kiếp xâm lấn và nô dịch Việt Nam. Chính giới
cầm quyền Việt Nam, những người ủng hộ việc nương nhờ vào Trung Quốc, cũng đã từng
nhắc nhở nhau về các bài học này:
a) Trung Quốc không bao giờ muốn Việt Nam giàu mạnh
và thống nhất
b) Trung Quốc âm mưu đẩy Việt Nam vào nội chiến để
đưa nguy cơ chiến tranh ra xa biên giới Trung Quốc
c) Khi Việt Nam suy kiệt và Trung Quốc hùng mạnh, họ
sẵn sàng lấn chiếm đất đai và khống chế giới lãnh đạo Việt Nam.
2) Bài học thứ hai: Chiến tranh, dù vì mục tiêu gì,
cũng gây tàn phá, hận thù, chia rẽ, cực đoan, mù quáng… Do đó dù thành công và
đạt được mục đích bằng phương pháp bạo lực thì cái hại chung cuộc cũng lớn hơn
cái lợi rất nhiều.
3) Bài học thứ ba: Chế độ độc tài toàn trị ngày càng
bất lực trong việc giải quyết các tệ nạn xã hội như tham nhũng, lợi ích
nhóm; bất lực trước trách nhiệm xây dựng các giá trị sống tốt đẹp như bình đẳng,
tôn trọng con người, trung thực…; và tổ chức xã hội xã hội văn minh, hữu hiệu.
Chế độ độc tài toàn trị cũng không thể có sự ủng hộ và đoàn kết của toàn dân để
bảo vệ nền tự chủ quốc gia.
4) Bài học thứ tư: Ý thức hệ, chủ nghĩa xã hội, chỉ
là phương tiện phục vụ quyền lợi dân tộc (đối ngoại) hay quyền lợi phe nhóm (đối
nội). Hội nghị Thành Đô là đỉnh cao của nhiều bài học cay đắng của Việt Nam trước
Trung Quốc từ năm 1949 tới nay do quá bám vào ý thức hệ Cộng sản.
5) Bài học thứ năm: Liên minh với Mỹ, Nhật Bản,
phương Tây… là các liên minh đem lại lợi ích cho Việt Nam. Việt Nam hùng mạnh
phù hợp với lợi ích và mong muốn các nước này. Liên minh với Trung Quốc tiềm ẩn
nguy cơ không lường. Bài học này được rút ra từ thực tế chính trị lẫn thực tế
kinh doanh.
Năm bài học nói trên không chỉ lan truyền trong dân
chúng, mà cả trong các đảng viên. Không chỉ đảng viên thường, cả một số ủy viên
trung ương. Người viết tin rằng, cho dù vẫn còn bám vào chính thể độc đảng và
toàn trị, vẫn còn tuyên truyền về mức độ thấp của dân trí để trì hoãn thực hiện
dân chủ hóa đất nước, nhà cầm quyền đang cảm nhận được ảnh hưởng và áp lực của
quần chúng ngày càng mạnh mẽ hơn từ mức độ ý thức của dân chúng về các bài học
đã rút ra được trong thời gian qua. Mức độ ý thức đó, được truyền bá bởi tác dụng
của công nghệ thông tin, tạo nên ý kiến công chúng (public opinion), và từ đó tạo
nên các đòi hỏi công chúng. Các đòi hỏi này, nếu không được đáp ứng sẽ khơi mào
cho các hành động công chúng, một khi vượt quá tầm kiểm soát, có thể gây hậu quả
không lường.
Lòng
Dân Việt Nam Muốn Gì? Quan Niệm Công Chúng Ra Sao?
Nước Việt Nam không có trưng cầu dân ý, không có báo
chí tư nhân, không có tự do ngôn luận, dân chúng không có quyền biểu đạt ý kiến
ra công cộng thông qua các hoạt động như hội họp đông người, biểu tình… cho nên
khó mà có câu trả lời một cách có căn cứ cho các câu hỏi trên.
Tuy nhiên, không có các biện pháp thăm dò dư luận
công khai và khoa học, người ta vẫn có cách trả lời về các vấn đề được quan tâm
rộng rãi. Bằng cách la cà trong các giới người Việt, cả trong nước lẫn ngoài nước,
cả trong giới làm việc trí óc lẫn làm việc chân tay, người viết xin báo lại như
sau:
1) Chống Trung Quốc xâm lược là chủ đề hàng đầu. Các
yêu cầu chính trong chủ đề này có:
a) Không để đất nước lệ thuộc vào Trung Quốc và, nếu
thời cơ tới, phải đòi lại các đảo và lãnh thổ bị mất.
b) Bạch hóa hội nghị Thành Đô
c) Liên minh với Mỹ, Nhật… để tự vệ
d) Tự chủ về kinh tế với Trung Quốc (tham gia TPP là
một cột mốc quan trọng)
2) Rời bỏ chủ nghĩa Cộng Sản và chính thể toàn trị
là chủ đề được quan tâm thứ hai. Các yêu cầu chính trong chủ đề này có:
a) Thực hiện đa nguyên, đa đảng
b) Tổ chức đất nước theo chính thể cộng hòa, tam quyền
phân lập
3) Đòi các quyền tự do căn bản của dân chúng. Các
yêu cầu chính trong chủ đề này có:
a) Tự do ngôn luận, tự do lập hội, lập đảng, tự do ứng
cử, bầu cử…
b) Thả tù nhân chính trị
4) Liên minh với Mỹ, Nhật Bản và các nước phương
Tây. Các yêu cầu chính trong chủ đề này có:
a) Thiết lập đối tác chiến lược với Mỹ
b) Gia nhập TPP
Trong tinh thần cầu thị và mong muốn tiếp cận sự thật
tốt nhất, người viết kính xin quí độc giả có sự quan tâm kiểm chứng giùm.
PHẦN
3: THẾ GIỚI VỚI VIỆT NAM
Biến
Thiên Của Quan Hệ Mỹ-Trung-Việt Từ Năm 1973 Tới Nay
Cuối năm 1973 Hạm đội 7 Mỹ đứng yên nhìn Trung Quốc
tiến chiếm một số đảo Hoàng Sa của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam). Lúc
đó, Mỹ đã chuyển chiến lược ngăn làn sóng đỏ, từ hỗ trợ Miền Nam bảo vệ chế độ
Tự do sang bắt tay với Trung Quốc chống Liên Xô.
Năm 1977, Mỹ muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao
với Việt Nam thống nhất, nhưng thương thuyết không thành. Lúc đó Việt Nam đang
buộc chặt mình với Liên Xô, tỏ thái độ thù địch với cả Mỹ lẫn Trung Quốc.
Năm 1988, Trung Quốc chiếm thêm một số đảo của Việt
Nam. Mỹ bắt đầu cảnh giác. Tuy nhiên hai năm sau đó, khi hệ thống Cộng sản sụp
đổ trên toàn bộ Đông Âu, Việt Nam lại càng tỏ thái độ thù địch hơn với Mỹ và thắt
chặt liên kết với Trung Quốc, bất chấp việc nước này đang lấn chiếm lãnh thổ của
mình.
Trong khi tự tin hơn về sức mạnh kinh tế, Trung Quốc
càng tỏ thái độ thách thức và sẵn sàng đối đầu trên Biển Đông. Các thách thức
được thể hiện rõ rệt đối với Philipines, Việt Nam cùng một số nước trong ASEAN,
đối với cả Nhật Bản và Mỹ, tới mức độ có nguy cơ va chạm trên biển và trên
không. Cùng với mức độ bồi đắp biến bãi chìm thành đảo nổi, Trung Quốc càng gia
tăng mức độ thô bạo và ngang ngược của hành vi bạo lực, chà đạp lên luật pháp
và chuẩn mực ứng xử quốc tế, nhằm xác định chủ quyền mà họ tuyên bố không ai có
thể tranh cãi.
Cách thể hiện quyết tâm độc quyền kiểm soát Biển
Đông của Trung Quốc đã vượt quá mức chấp nhận của Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc…, các
nước có quyền lợi trong việc giữ con đường vận chuyển Biển Đông không thuộc về
một quốc gia riêng nào. Cộng hưởng với thái độ hung hăng trong tranh chấp đảo với
Nhật Bản, các hành vi này của Trung Quốc đã đẩy các cường quốc còn lại liên
minh chặt chẽ hơn với Mỹ và ủng hộ chính sách xoay trục của siêu cường này sang
châu Á. Các nước ASEAN cũng bày tỏ ủng hộ.
Việt Nam, nước có nhiều đảo bị Trung Quốc lấn chiếm,
cần sự hiện diện của Mỹ tại Biển Đông để ngăn cản Trung Quốc. Mỹ thì thấy vị
trí địa chính trị và địa quân sự của Việt Nam mang lại lợi ích quan trọng cho
chính sách xoay trục sang châu Á của họ, trong đó Biển Đông là một điểm chiến
lược. Vậy là, trong vòng 4 năm trở lại đây, quan hệ Mỹ-Việt phát triển nhanh
chóng làm ngạc nhiên nhiều nhà quan sát.
Quyền
Lợi Của Việt Nam Trong Mâu Thuẫn Mỹ-Trung Trên Biển Đông?
Mâu thuẫn Mỹ-Trung, bất chấp mức độ hợp tác to lớn
giữa hai bên, đang ngày càng sâu sắc trên nhiều khía cạnh và trên nhiều khu vực
địa lí. Bài viết này chỉ đề cập tới Biển Đông, khu vực địa lí mà Việt Nam
nằm trấn ở rìa Tây trải dài hơn hai ngàn cây số với nhiều hải đảo.
Mâu thuẫn Mỹ-Trung thực chất là mâu thuẫn của các quốc
gia tìm thấy ích lợi trong việc giữ con đường vận chuyển Biển Đông được quốc tế
hóa (Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, châu Âu…) với Trung Quốc, nước muốn độc quyền khống
chế Biển Đông.
Mỹ và các nước này thực tâm muốn góp sức cùng nhân
dân Việt Nam xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và văn minh, góp phần giữ tuyến
hàng hải Biển Đông quốc tế hóa. Điều này phù hợp với lợi ích của họ. Để có một
nền kinh tế mạnh mẽ hơn, một nền quốc phòng mạnh mẽ hơn, Việt Nam cần có một xã
hội cởi mở, dân chủ, và đa chiều về tư tưởng hơn, trong đó người dân có những
quyền tự do căn bản, nghĩa là một xã hội ngày càng khai phóng, có cách tổ chức
phù hợp hơn với đa số các nước văn minh. Điều này rõ ràng phù hợp với lợi ích
phát triển lâu dài, bền vững của Việt Nam.
Dân chúng Việt Nam, dù còn sống dưới thể chế độc tài
và toàn trị của đảng Cộng sản Việt Nam, ý thức được điều này. Số đông các đảng
viên cũng ý thức và nghiêng về ủng hộ khuynh hướng dân chủ hóa đất nước. Áp lực
của dân chúng và đảng viên ủng hộ khuynh hướng dân chủ hóa đang ngày càng tăng
trên bộ máy lãnh đạo trung ương của đảng. Hơn nữa, thế lực chống lưng cho đảng
CSVN thống trị đất nước là đảng Cộng Sản Trung Quốc, thế lực này ngày càng hống
hách và lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam. Sự lấn chiếm đầy tính bành trướng bá quyền
này đã đẩy lòng phẫn uất của dân chúng Việt Nam lên cao ngất, và đẩy đảng CSVN
vào thế rất nguy hiểm. Nếu đảng CSVN còn tôn sùng Trung Quốc như người thầy,
người anh của “16 chữ vàng” và “4 tốt” thì đảng đã công khai chống lại tuyệt đại
đa số nhân dân Việt Nam và đi ngược lại truyền thống của ngàn năm sử Việt.
Người viết tin rằng ban lãnh đạo trung ương đảng
CSVN không dám gánh vác một trách nhiệm quá nặng như thế. Các bước đi của đảng
hiện nay cho thấy đảng đang cố gắng trì hoãn việc dân chủ hóa để kéo dài thời
gian thống trị, chứ không phải sống chết ngăn cản dân chủ hóa. Bởi vì đảng CSVN
biết rằng họ không thể ngăn nổi bánh xe lịch sử tiến lên, và lịch sử tồn tại của
đảng CSVN từng cho thấy tính thực dụng của đảng không thấp chút nào.
KẾT
LUẬN
Việc nghiêng trục ngoại giao về phương Tây trong khi
vẫn giữ cân bằng thích hợp với Trung Quốc mang tới các lợi ích cho cả sự phát
triển của tổ quốc Việt Nam nói chung và cho sự tiếp tục cầm quyền của đảng
CSVN. “Cân bằng thích hợp” với Trung Quốc có nghĩa hợp tác đôi bên cùng có lợi
với Trung Quốc và không bao hàm Việt Nam phải tự giam trong vòng chính thể độc
tài Cộng sản. Đó là lí do khiến người viết tin rằng chính sách ngoại giao của
Việt Nam sẽ nghiêng hơn về Mỹ và phương Tây nói chung sau chuyến thăm Mỹ của Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tất nhiên, để chuẩn bị cho việc “chuyển trục” đó, sẽ
có các động thái phù hợp tiến về hướng dân chủ hóa, về hướng thực thi nhân quyền...
Và theo đà nghiêng của trục ngoại giao thì các động thái này ngày càng được khẳng
định và thúc đẩy nhanh hơn. Trong một chế độ độc tài, một bước tiến về dân chủ
là một bước khó có thể lùi lại. Sự tích tụ của nhiều bước như vậy sẽ có tác dụng
chuyển đổi cả xã hội theo qui luật “lượng biến thành chất”. Lúc đó, đảng CSVN
cũng đồng thuận và đồng ý với chuyển đổi này vì nói cho cùng nó cũng mang lại lợi
ích cho từng cá nhân trong đảng. Đó là các biến chuyển của xã hội Việt Nam mà
người viết nhìn thấy trong những năm tới.
Sự biến chuyển này là cả một quá trình. Độ lớn của
góc nghiêng và vận tốc nghiêng tùy vào khả năng thực thi của nhà cầm quyền Việt
Nam để tối đa hóa lợi ích của đảng và của đất nước, và tối thiểu hóa rủi ro do
phản ứng của Trung Quốc và/hay của dân chúng trong nước.
Phải chăng đó là nguyên nhân khiến các tuyên bố sau
chuyến đi, dù đẹp đẽ, có nhiều phần về nguyên tắc, về thành ý, về hi vọng cho
tương lai, mà ít phần về các việc cụ thể cần triển khai, và do đó khiến một số
nhà quan sát nhận định rằng chuyến đi “đã không đem lại thành quả cụ thể nào
trên thực tế”? (Thiện Ý, VOA Tiếng Việt, ngày 15/7/2015)
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment