Wednesday, July 15, 2015

Cuộc chơi dài hạn và đầy toan tính (Lê Diễn Đức)





Lê Diễn Đức
Monday, July 13, 2015 1:08:04 PM 

Ngày 7 tháng 7, 2015, tại phòng Bầu Dục của Toà Bạch Ốc, Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama tiếp ông Nguyễn Phú Trọng trong tư cách là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam.

Trong hệ thống chính trị Mỹ, ông Trọng không có người “tương nhiệm.”

Trong một bài phân tích trên tờ Diplomat, Giáo Sư Carl Thayer nói rằng, “Cuộc gặp giữa Tổng Thống Barack Obama và Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng như là một hành động công nhận vai trò của Ðảng Cộng Sản trong hệ thống chính trị Việt Nam, và sẽ dọn đường cho những chuyến công du tương tự trong tương lai.” [1]

Nhận định này của ông Thayer đúng, nhưng đây không phải lần đầu tiên chính phủ Mỹ thừa nhận vai trò của Ðảng Cộng Sản trong một hệ thống chính trị khác hẳn về ý thức hệ với Mỹ.
Trước năm 1989, Mỹ đã từng có quan hệ ngoại giao với tất cả các nước cựu Cộng Sản Ðông Âu, Liên Xô và thừa nhận các Ðảng Cộng Sản có vai trò lãnh đạo trong hệ thống đó.

Tuy nhiên, bang giao là để có cơ hội gần gũi và đối thoại, hơn là đóng cửa, nhưng song song, học thuyết làm tan rã khối Cộng Sản Châu Âu là do Tổng thống Mỹ Ronald Reagan chủ xướng và thực hiện.

Thực chất khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam và thiết lập trao đổi cấp đại sứ, Mỹ đã thừa nhận chế độ Cộng Sản Việt Nam. Chính phủ Mỹ cũng đã tiếp các nhà lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Việt Nam khác tại Toà Bạch Ốc như Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang.

Lần này tiếp Nguyễn Phú Trọng không nắm một cương vị nào trong nhà nước, nhưng là lãnh đạo cao nhất của đảng cầm quyền, và là đảng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội theo Hiến Pháp Việt Nam. Ðiều này cho thấy việc tiếp ông Trọng là hợp lý và chẳng có gì quá quan trọng. Trước Barack Obama,Tổng Thống Ronald Reagan, người đã đề ra và thực hiện chủ thuyết làm tan rã hệ thống Cộng Sản tại Châu Âu, đã từng tiếp các thủ lĩnh thánh chiến Taliban vào năm 1983, kẻ thù số 1 của Mỹ hiện nay, nhằm ngăn chặn cuộc xâm lăng của Xô-Viết ở Afghanistan, cũng tại Phòng Bầu Dục. Ngày 29 tháng 1 năm 1979, Tổng Thống Jimmy Cater cũng đã tiếp Ðặng Tiểu Bình tại đây.

Chính sách đối ngoại của Mỹ thường được hoạch định dài hạn, thông qua các cơ quan nghiên cứu, các think-tank, ít nhất cũng cho 25 năm. Các vị tổng thống lên nắm quyền dù thuộc đảng Cộng Hoà hay Dân Chủ, chỉ xử lý cụ thể các diễn biến nhưng tuân thủ chính sách chung.

Chiến luợc quay trục lại Châu Á, đến thời Barack Obama mới thực sự rõ ràng, nhưng thực tế đã được thực hiện xuyên suốt từ thời Tổng Thống Bill Clinton đến W. Bush.

Tiếp theo Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam năm 2000, sau 5 năm bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, năm 2006, Tổng Thống W. Bush cũng đã đến Hà Nội thăm chính thức Việt Nam và dự Hội nghị lãnh đạo kinh tế APEC-14. Chính phủ của Tổng Thống W. Bush cũng đã ủng hộ và hỗ trợ Việt Nam tham gia Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO trong năm 2007.

Mỹ quan hệ với Việt Nam dựa trên chính sách “xâm nhập để ảnh hưởng” mà Tổng Thống W, Bush là người đã đưa ra.

Trong chiến lược an ninh Châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam có một vị thế địa chính trị quan trọng trong toàn khối Asean. Trong cuộc chơi này Mỹ rất tỉnh táo và thận trọng. Việt Nam vẫn là một quốc gia Cộng Sản, toàn trị và có xu hướng nghiêng về Trung Quốc, vừa kinh tế, vừa chính trị, là một nước có cùng ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, để bảo vệ sự tồn tại. Tuy nhiên, xu hướng này đi ngược với tâm tư và ý chí dân tộc của người Việt Nam. Không người Việt Nam nào không biết dã tâm thôn tính Việt Nam của mọi triều đại Trung Quốc từ hơn hai ngàn năm nay.

Cuộc khảo sát của Pew Global Attitudes & Trends, hôm 23 tháng 6, cho thấy, 78% người Việt Nam được hỏi cho biết họ có cái nhìn tích cực về nước Mỹ, tăng hai điểm phần trăm so với năm 2014, chỉ có 13 phần trăm nói ngược lại. Trong khi đó, tới 74% có cái nhìn không thân thiện về Trung Quốc.

Chơi với Việt Nam, Mỹ nắm bắt được yếu tố căn bản này.

Mặt khác, như Giáo Sư Thayer nhận định, “Sự khác biệt quan điểm trong các phe phái trong nội bộ Bộ Chính Trị phức tạp hơn, không chia rõ rệt thành phe thân Trung Quốc hay phe thân Mỹ, mà sự khác biệt chủ yếu là trên sự đánh giá về cách xử lý các quan hệ với các cường quốc như thế nào để đừng phương hại tới các lợi ích của quốc gia.”

Gần hơn với Việt Nam trong chính sách để kìm toả tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên Biển Ðông, bảo vệ tự do hàng hải trong khu vực này, Washington hợp tác với Hà Nội, nhưng vẫn không quên sử dụng áp lực ngoại giao để thúc đẩy Hà Nội cải thiện nhân quyền. Tuy nhiên Washington không làm quá mạnh để có thể đẩy Việt Nam vào vòng tay Trung Quốc, khiến Việt Nam trở thành một pháo đài Cộng Sản như Bắc Triều Tiên.

Hà Nội cũng biết điều rất rõ lợi thế của mình nên không ngần ngại tiếp cận và lợi dụng Mỹ. Thị trường Mỹ đã trở nên quan trọng hàng đầu của Việt Nam với mức xuất khẩu xấp xỉ 40 tỷ USD, bằng gần 20% tổng thu nhập quốc dân GDP (2014). Quyền lực cứng và mềm của Mỹ là sức mạnh duy nhất cho phép ngăn chặn mọi sự hiếp đáp của Trung Quốc.

Trong cuộc chơi này, không ai đặt lòng tin hoàn toàn vào nhau, và có một khoảng cách giữa hai phía.

Khi còn chế độ Cộng Sản, Hà Nội chắc chắn không thể trở thành đồng minh quân sự của Mỹ, nhưng ngược lại Mỹ cũng là thế lực luôn phải cảnh giác trong con mắt của Hà Nội.

Thời Ân Hoằng, giáo sư về Quan hệ Quốc tế và Nghiên cứu Chiến lược, Ðại học Nhân dân Trung Quốc, Bắc Kinh nói:
“Lo ngại về ‘sự lật đổ’ của phương Tây về ý thức hệ, ít nhất là trong lòng giới đảng viên lớn tuổi và đồ đệ của họ, và nhu cầu có quan hệ kinh tế không thể thiếu với Trung Quốc, điều mà hầu như tất cả trong đảng và chính phủ Việt Nam đều thừa nhận, sẽ hạn chế mức độ hợp tác với Mỹ trong cân bằng quan hệ với Trung Quốc. Hà Nội phải chơi một trò chơi, và nói chung trong mấy năm qua, Hà Nội đã chơi tốt trò chơi này.” [2]

Rõ ràng, Việt Nam đang du dây khá thành công, chơi với Mỹ nhưng nhất định không làm hỏng mối quan hệ “hữu nghị” với Trung Quốc.

Cuộc gặp gỡ Obama của Nguyễn Phú Trọng, một nhân vật được cho là thân Trung Quốc, vì vậy, không mang lại một điều gì đột phá ngoài những cam kết mà Mỹ đã thoả thuận với Việt Nam qua chuyến công du Mỹ của Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang năm 2013, nâng mối quan hệ lên “hợp tác toàn diện” và tầm nhìn chung về quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt mà Bộ Trưởng Quốc Phòng Ashton Cater ký hồi tháng 6, 2015.

Chuyến công du chỉ có ý nghĩa tìm kiếm lòng tin và thiết lập sự tôn trọng lẫn nhau và mong muốn Mỹ cam kết không “chơi xỏ” trong ván bài này. Nhưng ai biết được! Mỹ đã từng đón Tổng Thống Ngô Ðình Diệm hoành tráng rồi sau đó giết chết thảm hại, từng hy sinh 58 ngàn binh sĩ để chặn làn sóng đỏ Bắc Việt tràn xuống phía Nam nhưng năm 1972 lại bắt tay với Trung Quốc bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà!

Cuộc tiếp đón Nguyễn Phú Trọng của Mỹ có chừng mực nhưng trọng thị. Obama nhận lời thăm Việt Nam nhưng về thời gian khá mơ hồ. Không biết chuyến công du Châu Á vào mùa Thu năm nay ông có kết hợp ghé Việt Nam không, có lẽ còn phụ thuộc vào những bất đồng giữa Việt Nam và Mỹ về vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo mà ông Obama đã không né tránh trong cuộc gặp mặt.

Về Hiệp ước Ðối tác Thương mại Xuyên Thái Bình Dương TPP, Barack Obama có trao đổi với Trọng, nhưng việc hoàn tất đàm phán với Việt Nam được xem như đã gần xong. Các tiêu chuẩn lao động của TPP và công nhân tự do lập hội ít nhất là ở cấp độ nhà máy, có thể được phía Mỹ châm chước, trì hoãn trong một hạn định 3-5 năm, vì “lý do kỹ thuật.”

Tóm lại trong chiến lược an ninh của trục Châu Á-Thái Bình Dương, vì lợi ích của mình, Mỹ không thể không quan hệ tốt với Việt Nam, nhưng cẩn trọng. Ngược lại Việt Nam cũng tận dụng tối đa các quan hệ với Mỹ, nhưng dè chừng. Cuộc chơi sẽ dài hạn, không dễ dàng và đầy toan tính. Tôi không nghĩ đây là một chuyến công du thuần tuý “dối già” (giải trí về già) như một nhà bình luận đã nhận định.

Trong bối cảnh này, dân chủ và nhân quyền không còn là vấn đề quan trọng trong mối quan hệ song phương, nhưng là trách nhiệm của một cường quốc dân chủ và của các giá trị tự do mà người Mỹ tin tưởng.

Mỹ vẫn sẽ thúc đẩy dân chủ và nhân quyền trong cuộc chơi này nhưng không phải là động lực để làm thay đổi hệ thống chính trị. Sự thay đổi đó thuộc về sự đòi hỏi thật sự và tinh thần tranh đấu của người Việt. 






No comments: