Sunday, March 11, 2012

TRẠNG THÁI CỦA THẾ GIỚI : ĐÁNH GIÁ CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC (George Friedman )



George Friedman
Stratfor   06.03.2012

FitFormFunction, X-Cafe chuyển ngữ
Đơn giản mà nói, Trung Quốc có ba quyền lợi chiến lược cốt lõi đáng chú ý.
Việc tối cần trong số đó là duy trì an ninh trong nước. Trong lịch sử, như họ đã làm trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi Trung Quốc quan hệ đến thương mại toàn cầu, các khu vực ven biển được thịnh vượng , trong khi phía trong nội địa của Trung Quốc - bắt đầu khoảng 160 km (100 dặm) từ bờ biển và chạy khoảng 1.600 km phía tây – thì mòn mỏi. Khoảng hai phần ba của tất cả các công dân Trung Quốc hiện đang có thu nhập hộ gia đình thấp hơn so với thu nhập hộ gia đình trung bình ở Bolivia. Hầu hết người nghèo Trung Quốc đang nằm ở phía tây của các khu duyên hải trù phú. Sự chênh lệch của sự giàu có thêm một lần nữa đã phơi bày những căng thẳng giữa lợi ích của bờ biển và những người trong nội địa. Sau cuộc khởi dậy thất bại ở Thượng Hải vào năm 1927, Mao Trạch Đông khai thác những căng thẳng đó bằng cách thực hiện cuộc Trường chinh xâu vào nội địa, đào tạo một đội quân nông dân và cuối cùng là chinh phục vùng ven biển. Ông ta đóng cửa Trung Quốc với hệ thống thương mại quốc tế, để làm cho Trung Quốc được đoàn kết hơn và bình đẳng, nhưng lại vô cùng nghèo khó.

Chính phủ hiện thời đã tìm kiếm một phương cách hòa phú hơn để đạt được sự ổn định: mua đại đa số sự tin dụng bằng việc sản xuất hàng loạt. Kế hoạch mở rộng công nghiệp được thực hiện với rất ít suy nghĩ nhằm mua thị trường hoặc tìm lợi nhuận, thay vào đó, tăng công ăn việc làm tối đa là mục tiêu chính. Tiết kiệm tư nhân được khai thác để tài trợ cho các nỗ lực công nghiệp, để lại ít vốn trong nước để mua sản phẩm.Trung Quốc phải xuất khẩu sao cho phù hợp.

Mối quan tâm chiến lược thứ hai của Trung Quốc xuất phát từ cốt lõi đầu. Cơ sở công nghiệp của Trung Quốc nhằm thiết kế sản xuất nhiều hơn so với nền kinh tế trong nước của nó có thể tiêu thụ, vì vậyTrung Quốc phải xuất khẩu hàng hoá cho phần còn lại của thế giới trong khi nhập khẩu nguyên liệu. Người Trung Quốc do đó phải làm tất cả mọi thứ có thể để đảm bảo nhu cầu của quốc tế đối với hàng xuất khẩu của họ. Điều này bao gồm một loạt các hoạt động, đầu tư tiền trong nền kinh tế của các nước tiêu dùng để thiết lập truy cập tự do đến các tuyến đường hàng hải trên toàn cầu.

Chiến lược lợi ích thứ ba là việc duy trì kiểm soát đối các tiểu lân bang. Dân số của người Hán-Trung hoa xưa nơi trọng tâm thì nhóm ở một phần ba phía đông của đất nước, nơi mà các lượng mưa phong phú làm phân biệt nó với các phần ba còn lại của miền Trung và miền Tây khô cằn. Do đó, địa thế an ninh của Trung Quốc phụ thuộcvào việc kiểm soát bốn vùng thuộc ngọai tộc Hán nằm viền ở xung quanh: Mãn Châu, Nội Mông Cổ, Tân Cương và Tây Tạng. Bảo vệ các khu vực này có nghĩa là Trung Quốc có thể cách ly được Nga từ phía bắc, bất kỳ cuộc tấn công nào từ những thảo nguyên phía tây,và từ Ấn Độ hay Đông Nam Á.

Kiểm soát được các tiểu lân bang là cung cấp cho Trung Quốc hàng rào địa lý – các khu rừng, núi, thảo nguyên và đất hoang của Siberia - rất khó để vượt qua và tạo ra một thế phòng thủ kín mà sẽ mang thế bất lợi nghiêm trọng cho bất kỳ kẻ tấn công nào.

Thách thức về quyền lợi

Ngày nay, Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức cho tất cả các quyền lợi ấy.

Suy thoái kinh tế ở châu Âu và Hoa Kỳ, hai khách hàng chính của Trung Quốc, đã làm gia tăng cạnh tranh và giảm sự ham muốn với hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc. Trong khi đó, Trung Quốc đã không thể tăng nhu cầu tiêu thụ trong nước cách thích hợp và đảm bảo truy cập toàn cầu các tuyến đường biển một cách độc lập ngọai trừ những gì Hải quân Hoa Kỳ chịu cho phép.

Những áp lực kinh tế này cũng thách thức Trung Quốc trong quốc nội. Các vùng ven biển giàu có phụ thuộc vào thương mại giờ lại bị sụt kém, và các vùng trong nghèo khó đòi hỏi trợ cấp khó khăn để cung cấp khi tăng trưởng kinh tế đang chậm lại cách đáng kể.

Ngoài ra, hai vùng đệm của Trung Quốc thì lại thay đổi liên tục. Các yếu tố bên trong Tây Tạng và Tân Cương cương quyết chống lại sự chiếm đóng của người Hán Trung Quốc. Trung Quốc hiểu rằng sự mất mát của những khu vực này có thể gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh của Trung Quốc, đặc biệt nếu các thiệt hại đó sẽ rút ra từ Ấn Độ ở phía bắc của dãy Hy Mã Lạp Sơn hoặc tạo ra một chế độ cực đoan Hồi giáo ở Tân Cương.

Tình hình ở Tây Tạng là có khả năng gây phiền hà nhất. Ngay cả cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ và Trung Quốc - bất cứ điều gì vượt ra ngoài những cuộc đụng độ nhỏ - sẽ không thể miễn được nếu cả hai được ngăn cách bởi dãy Himalaya. Không bên nào có thể duy trì cách quy mô với nhiều sư đoàn tác chiến ở địa hình đó. Nhưng Trung Quốc và Ấn Độ có thể đe dọa nhau nếu họ vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn và thiết lập một sự hiện diện quân sự ở một phía bên nào đó trong các dãy núi. Đối với Ấn Độ, các mối đe dọa sẽ xuất hiện nếu lực lượng Trung Quốc vào Pakistan với số lượng lớn. Đối với Trung Quốc, các mối đe dọa sẽ xảy ra nếu số lượng lớn của quân đội Ấn Độ vào Tây Tạng.
Trung Quốc do đó liên tục tạo thế như thể họ sẽ gửi số lượng lớn của các lực lượng vào Pakistan, nhưng cuối cùng, Pakistan không có quan tâm đến Trung Quốc chiếm đóng trên thực tế ngay cả khi chiếm đóng để chống lại Ấn Độ. Tương tự như vậy, Trung Quốc không tỏ quan tâm đến việc thực hiện các hoạt động an ninh ở Pakistan. Người Ấn Độ có ít quan tâm đến cử lực lượng vào Tây Tạng trong trường hợp có một cuộc cách mạng Tây Tạng. Đối với Ấn Độ, một Tây Tạng độc lập mà không có lực lượng Trung Quốc sẽ rất thú vị, nhưng một Tây Tạng, nơi mà Ấn Độ sẽ phải cam kết hổ trợ lực lượng đáng kể sẽ không có. Như nhiều người Tây Tạng đang tạo cho TrungQuốc một vấn đề, vấn đề đó thì có thể quản lý được. Những người Tây Tạng nổi dậy có thể nhận được một số khuyến khích và hỗ trợ tối thiểu từ Ấn Độ, nhưng không đến một mức độ mà có thể đe dọa sự kiểm soát của Trung Quốc

Vì vậy, miễn là các vấn đề nội bộ trong người Hán Trung Quốc quản lý được, thì như vậy Trung Quốc thống trị các vùng đệm, mặc dù với một số nỗ lực và một số thiệt hại về danh tiếng của Trung Quốc ở nước ngoài.

Chìa khóa cho Trung Quốc là duy trì sự ổn định trong quốc nội. Nếu phần này của người Hán Trung Quốc bị mất thăng bằng, kiểm soát các vùng đệm sẽ trở nên không thể. Giữ vững ổn định trong quốc nội đòi hỏi việc chuyển giao các nguồn lực, với yêu cầu lần lượt tiếp tục sức tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế ven biển Trung Quốc hầu tạo ra các nguồn vốn để chuyển vào nội địa. Nên nếu khi xuất khẩu và nguyên liệu nhập bị dừng lại, thu nhập trong vùng nội địa sẽ nhanh chóng bị giảm xuống đưa đến mức bùng nổ chính trị. (Trung Quốc ngày nay rất xa từ một cuộc cách mạng, nhưng căng thẳng xã hội đang gia tăng, và Trung Quốc phải sử dụng bộ máy an ninh và Quân đội Giải phóng Nhân dân để kiểm soát những căng thẳng.)

Việc duy trì những dòng chảy ấy là một thách thức đáng kể. Mô hình của việc làm và chia sẻ thị trường so với lợi nhuận phân phát sai đa số của các nguồn lực và phá vỡ các liên kết bình thường tự điều chỉnh giữa cung và cầu. Một trong những kết quả mang tính đột phá hơn là lạm phát, một mặt khác làm tăng chi phí trợ cấp cho nội địa trong khi làm xói mòn khả năng cạnh tranh xuất khẩu toàn cầu của Trung Quốc với chi phí thấp.
Đối với Trung Quốc, đây là một thách thức chiến lược, một thách thức mà chỉ có thể đối đầu bằng cách tăng lợi nhuận hoạt động kinh tế của Trung Quốc. Điều này thì gần như không thể cho việc sản xuất các sản phẩm có giá trị thấp. Giải pháp là để bắt đầu sản xuất gia tăng sản phẩm giá trị cao hơn (ít làm giày dép, làm nhiều thêm xe ô tô), nhưng điều này đòi hỏi một thể loại khác trong lực lượng lao động, những người có nhiều năm học vấn và đào tạo hơn so với các cư dân trung bình ở ven biển Trung Quốc, đở hơn nhiều so với người nào đó từ bên trong. Nó cũng đòi hỏi sự cạnh tranh trực tiếp với các nền kinh tế cũng như các thiết lập của Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ.Đây là chiến trường chiến lược mà Trung Quốc phải tấn công nếu họ muốn để duy trì sự ổn định của họ.

Phần quân sự

Bên cạnh các vấn đề với mô hình kinh tế của chính mình, Trung Quốc cũng phải đối mặt với một vấn đề chủ yếu là quân sự. Trung Quốc phụ thuộc vào các đại dương để tồn tại. Các cấu hình của vùng biển Nam Trung Hoa (Nam Hải) và Biển Đông Trung Quốc phát họa việc Trung Quốc tương đối dễ bị phong tỏa. Biển Đông Trung Quốc được kèm theo trên một đường thẳng từ Hàn Quốc (Đại Hàn) sang Nhật Bản, Đài Loan, với một chuỗi các hòn đảo giữa Nhật Bản và Đài Loan. Biển Nam Trung Hoa (Nam Hải) thậm chí còn nhiều hơn kèm theo một đường từ Đài Loan đến Việt Nam, và từ Indonesia tới Singapore. Mối quan tâm chiến lược lớn duy nhất của Bắc Kinh rằng Hoa Kỳ sẽ áp đặt vùng phong tỏa Trung Quốc, không phải bởi vị trí Hạm đội 7 ở hai bên trong những đảo rào cản này nhưng lại là bên ngoài chúng. Từ đó, Hoa Kỳ có thể buộc Trung Quốc gửi lực lượng hải quân ra xa khỏi đất liền làm mở ra một lổ hổng - và gặp phải tàu chiến Mỹ - và vẫn còn có thể đóng cửa thóat của Trung Quốc.

Khi Trung Quốc không có một lực lượng hải quân có khả năng thách thức Hoa Kỳ làm phức tạp thêm vấn đề. Trung Quốc vẫn còn trong quá trình hoàn thành hàng không mẩu hạm đầu tiên của họ, thực sự, hải quân của họ là không đủ kích thước và chất lượng để thách thức Hoa Kỳ. Tuy nhiên, quân cụ hải quân không phải là thách thức lớn nhất của Trung Quốc. Hoa Kỳ trang bị hàng không mẩu hạm đầu tiên vào năm 1922 và đã được tu chỉnh cho cả khu trục hạm và hạm đội chiến đấu từ bao giờ. Đào tạo đô đốc và đội ngũ nhân viên có khả năng chỉ huy các hạm đội chiến đấu cần tốn nhiều thế hệ. Trong khi ngay từ đầu Trung Quốc chưa từng bao giờ có một hạm đội tác chiến, họ chưa bao giờ có một đô đốc chỉ huy một hạm đội chiến đấu với hàng không mẩu hạm.

Người Trung Quốc hiểu rõ vấn đề này và đã chọn một kế hoạch khác để ngăn chặn sự phong tỏa của hải quân Mỹ: đó là hỏa tiển chống hạm có khả năng giao chiến và có thể thâm nhập hệ thống phòng thủ của hàng không mẩu hạm Mỹ, cùng với sự hiện diện đáng kể của tàu ngầm. Hoa Kỳ không có ý muốn giao chiến gì với người Trung Quốc, nhưng khi điều này thay đổi, phản ứng của người Trung Quốc sẽ đầy khó khăn.

Trong khi Trung Quốc có một hệ thống tên lửa mạnh mẽ trên đất liền, hệ thống tên lửa địa chính vốn sẽ dễ bị tổn thương đối với các cuộc tấn công của các tên lửa tuần dương, phi cơ, các phương tiện trên không không người lái hiện đang phát triển và các loại tấn công khác. Khả năng để chống lại một cuộc chiến lâu dài của Trung Quốc bị hạn chế. Hơn nữa, một chiến lược tên lửa chỉ hoạt động khi có một khả năng trinh sát hiệu quả. Bạn không thể phá hủy một con tàu nếu bạn không biết nó ở đâu. Điều này đến lượt nó đòi hỏi phải dựa trên hệ thống không gian có thể để xác định các tàu Mỹ và một hệ thống điều khiển hỏa lực tích hợp chặt chẽ. Điều đó đặt ra câu hỏi liệu Hoa Kỳ có khả năng chống lại vệ tinh. Chúng tôi sẽ giả định rằng họ sẽ có, và nếu Hoa Kỳ sử dụng nó, nó sẽ làm cho Trung Quốc bị mù đi.

Vì thế, Trung Quốc đang bổ sung chiến lược này bằng cách mua lại hải cảng truy cập trong các nước ở Ấn Độ Dương và bên ngoài khuôn Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Bắc Kinh có kế hoạch xây dựng cảng ở Myanmar, là mơn giởn tới việc kết thúc sự cô lập từ quốc tế, và Pakistan. Bắc Kinh đã tài trợ và phát triển cảng Gwadar ở Pakistan,Colombo và Hambantota ở Sri Lanka, Chittagong ở Bangladesh, và họ đang có hy vọng cho một cảng nước sâu tại Sittwe, Myanmar. Để cho chiến lược này làm việc được, Trung Quốc cần cơ sở hạ tầng giao thông vận tải kết nối Trung Quốc với các cảng. Điều này có nghĩa là đường sắt rộng lớn và hệ thống đường bộ. Ví dụ, không nên đánh giá thấp khó khăn của việc xây dựng này ở Myanmar.

Nhưng quan trọng hơn hết, Trung Quốc cần duy trì mối quan hệ chính trị mà sẽ cho phép họ để truy cập các hải cảng. Pakistan và Myanmar, ví dụ, có một mức độ của sự bất ổn định, và Trung Quốc không thể giả định rằng các chính phủ có thiện ý hợp tác sẽ luôn luôn được diễn ra tại các nước này. Trong trường hợp của Myanmar, việc mở rộng chính trị gần đây có thể dẫn đến Naypyidaw rơi ra khỏi phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc. Rất có khả năng là xây dựng cảng và đường giao thông và mưu tìm một cuộc đảo chính hoặc một cuộc bầu cử sẽ tạo ra một chính phủ chống Trung Quốc. Cho rằng đây là một trong những lợi ích chiến lược cơ bản của Trung Quốc, Bắc Kinh có thể không chỉ đơn giản giả định rằng xây dựng một cảng sẽ cung cấp cho họ việc không bị giới hạn để truy cập. Thêm vào đó đường bộ và đường sắt dễ dàng bị sự phá hoại của các lực lượng du kích hoặc bị phá hủy bởi các cuộc tấn công không kích hoặc tên lửa.

Để cho các cảng trên Ấn Độ Dương chứng minh sự hữu ích, Bắc Kinh phải có tự tin vào khả năng của mình để kiểm soát tình hình chính trị ở nước sở tại trong một thời gian dài. Kiểm soát kéo dài đó chỉ có thể được bảo đảm bằng việc có nhiều áp đảo quyền lực có sẵn cho lực lượng truy cập đến các cảng và hệ thống giao thông vận tải. Điều quan trọng phải nhớ rằng kể từ khi Cộng sản lên nắm quyền, Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động quân sự tấn công không ít thường xuyên - và kết quả không được như mong muốn. Cuộc xâm lược của Tây Tạng là thành công, nhưng họ đã được đáp ứng với một sức đề kháng có hiệu quả yếu. Can thiệp của họ tại Hàn Quốc đã đưa đến một bế tắc, nhưng chi phí khủng khiếp của người Trung Quốc, những người đã phải chịu đựng những tổn thất, nhưng rồi đã trở nên rất thận trọng trong tương lai. Năm 1979, Trung Quốc tấn công Việt Nam nhưng phải chịu một thất bại đáng kể. Trung Quốc đã dự án thu xếp một hình ảnh của chính họ như là một lực lượng quân sự có thẩm quyền, nhưng trong thực tế họ đã có ít kinh nghiệm trong dự báo lực lượng,và kinh nghiệm đó đã không là điều thú vị.
An ninh nội bộ, so với chiếu điện

Lý do cho sự thiếu kinh nghiệm này bắt nguồn từ an ninh nội bộ. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) chủ yếu được cấu hình như một lực lượng an ninh trong nước - một điều cần thiết bởi vì lịch sử của Trung Quốc luôn có căng thẳng nội bộ. Nó không phải là một câu hỏi liệu Trung Quốc hiện đang trải qua những căng thẳng như vậy, nó là một câu hỏi về khả năng. Lập kế hoạch chiến lược thận trọng đòi hỏi phải xây dựng lực lượng để đối phó với tình huống xấu nhất. Sau khi được thiết kế cho an ninh nội bộ, PLA được huấn giáo thuộc cơ sở hậu cần hơn là đối với các hoạt động tấn công. Sử dụng một lực lượng được đào tạo để bảo mật như là một lực lượng cho các hoạt động tấn công dẫn đến việc bị đánh bại rất đau đớn hoặc bị những bế tắc.Và tiềm năng kích thước của các vấn đề nội bộ của Trung Quốc, và những thách thức khi chiếm một đất nước như Myanmar, sẽ để Pakistan một mình xây dựng một lực lượng cấp thứ đủ năng lực tuy có thể không vượt quá nguồn nhân lực có sẵn của Trung Quốc, nhưng chắc chắn sẽ vượt qua mệnh lệnh và năng xuất chiến lược của họ. PLA đã được xây dựng để kiểm soát Trung Quốc, không phải họach định để tăng thế lực ra bên ngoài, và chiến lược xây dựng xung quanh các nhu cầu tiềm năng cho việc họach định này là nguy hiểm hơn nhất.

Cần lưu ý rằng kể từ những năm 1980, Trung Quốc đã được chuyển giao trách nhiệm an ninh nội bộ cho Cảnh sát vũ trang nhân dân, lực lượng biên phòng và các lực lượng an ninh nội bộ đã được bành trướng và được đào tạo để đối phó với bất ổn xã hội. Tuy nhiên, mặc dù việc tái cơ cấu lại, vẫn còn có những hạn chế rất lớn vào khả năng sức mạnh quân sự của Trung Quốc trên một quy mô đủ để thách thức Hoa Kỳ trực tiếp.

Có một dấu hàn đứt mối giữa nhận thức của Trung Quốc như một cường quốc trong khu vực và giữa thực tế. Trung Quốc có thể kiểm soát nội thất của họ, nhưng khả năng kiểm soát các nước láng giềng thông qua lực lượng quân sự thì có giới hạn. Thật vậy, nỗi sợ hãi của một cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Đài Loan là không có cơ sở. Họ không thể gắn kết một cuộc tấn công đổ bộ ở khoảng cách xa như thế, rồi để một kẻ hở nơi hậu cần một mình duy trì chiến đấu. Một lựa chọn cho Trung Quốc là lựa chọn chiến tranh du kích như ở những nơi như Việt Nam hoặc Indonesia. Vấn đề với cuộc chiến tranh như vậy là Trung Quốc cần phải mở tuyến đường biển, và du kích chiến - ngay cả du kích trang bị các hỏa tiển chống hạm hoặc các thủy lôi tốt nhất - có thể tốt hơn là đóng lại.

Giải pháp Chính trị

Trung Quốc do đó phải đối mặt với một vấn đề chiến lược quan trọng. Trung Quốc phải đặt chiến lược an ninh quốc gia của họ trên những gì mà Hoa Kỳ có khả năng làm, chứ không phải những gì Bắc Kinh dường như muốn vào trong lúc này. Trung Quốc không thể chống lại Hoa Kỳ trên biển, và chiến lược xây dựng cảng ở Ấn Độ Dương trên thực tế hao tổn chi phí của họ phải bị là rất lớn và các điều kiện chính trị để truy cập cảng thì không chắc chắn. Nhu cầu của việc tạo ra một lực lượng có khả năng truy cập bảo đảm lại đi ngược với yêu cầu nội an bên của Trung Quốc.

Miễn là Hoa Kỳ là lực lượng hải quân chiếm ưu thế trên thế giới, chiến lược của Trung Quốc phải được trung hòa với chính trị của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Bắc Kinh phải chắc chắn rằng Washington không cảm thấy bị áp lực mà chọn việc phong tỏa như là một sự lựa chọn. Vì vậy, Trung Quốc phải trình bày chính họ như là một phần thiết yếu của đời sống kinh tế của Mỹ. Nhưng Hoa Kỳ không nhất thiết phải xem hoạt động kinh tế của Trung Quốc là có lợi, và vẫn chưa rõ liệu Trung Quốc có thể duy trì vị trí độc đáo của nó với Hoa Kỳ vô thời hạn. Điều khác, việc chọn lựa nơi thay thế rẻ hơn thì luôn có sẵn. Những phát ngôn chính thức của Trung Quốc và các lập trường cứng rắn, được thiết kế nhằm tạo ra việc hỗ trợ của dân trong nước, có thể có ích lợi cho chính trị, nhưng họ làm căng thẳng mối quan hệ với Hoa Kỳ. Họ không làm căng thẳng quan hệ đến độ xung đột quân sự rủi ro, nhưng nói về điểm yếu của Trung Quốc, mọi căng thẳng bất kỳ nào cũng đều là nguy hiểm. Người Trung Quốc cảm thấy họ biết làm thế nào để đi giữa đường ranh giữa lời nói và nguy hiểm thật sự đối với Hoa Kỳ. Đó vẫn là một sự cân bằng rất tinh tế.

Có một nhận thức cho rằng Trung Quốc là một cường quốc đang lên trong khu vực và thậm chí toàn cầu. Họ có thể đang lên, nhưng họ vẫn còn xa trong việc giải quyết các vấn đề chiến lược cơ bản của họ và họ tiếp tục vẫn còn xa trong việc thách thức Hoa Kỳ. Sự căng thẳng trong chiến lược của Trung Quốc chắc chắn gây suy nhược, nếu không gây tử vong. Tất cả các chọn lựa của họ đều có điểm yếu nghiêm trọng. Chiến lược thực tế của Trung Quốc phải là tránh phải lựa chọn chiến lược rủi ro. Trung Quốc đã may mắn trong 30 năm qua có thể để tránh các quyết định như vậy, nhưng Bắc Kinh hoàn toàn thiếu các công cụ cần thiết để định hình lại môi trường đó. Xem xét bao nhiêu lối chơi trên thế giới của Trung Quốc ngay bây giờ - để tâm trí vào việc tranh chấp năng lượng tại Sudan và bước nhảy vọt thử nghiệm chính trị tại Myanmar - điều này là bản chất của một chính sách hy vọng mù quáng.

.
.
.



No comments: