Friday, November 5, 2010

VIỆT NAM KHÔNG NÊN KỲ VỌNG QUÁ NHIỀU VÀO NGUỒN QUẶNG ĐẤT HIẾM

 

BBC
Cập nhật: 06:55 GMT - thứ hai, 1 tháng 11, 2010

Chính phủ Việt Nam vừa quyết định chọn Nhật Bản làm đối tác hợp tác trong việc khai thác đất hiếm ở trong nước.
Hai bên cũng có kế hoạch lập liên doanh khai thác đất hiếm ở Đông Nam Á, tuy không nói rõ chi tiết.
Nhật Bản đang hướng tới Việt Nam như nguồn cung cấp đất hiếm - vốn được sử dụng trong các sản phẩm công nghệ cao như máy tính xách tay, điện thoại di động, xe hơi hybrid v.v., nhằm giảm phụ thuộc vào Trung Quốc, nước cung cấp 97% lượng đất hiếm cho toàn cầu.
Tuy nhiên theo Phó Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Khắc Vinh, Chủ tịch Tổng hội Địa chất Việt Nam, không nên kỳ vọng quá nhiều, rằng bán đất hiếm sẽ thay đổi đáng kể nền kinh tế của Việt Nam.

TS Nguyễn Khắc Vinh: Đất hiếm là khoáng vật, gồm có 17 nguyên tố. Nó được sử dụng trong nhiều công nghệ cao, từ ngành vô tuyến, hàng không, cho tới chế tạo ô tô, sứ gốm vv...
Thí dụ khi làm ấm chén sứ chẳng hạn, có đất hiếm sẽ làm cho hình thức sản phẩm sáng đẹp hẳn lên.
Cả 17 loại nguyên tố đất hiếm đều hiện diện ở Việt Nam.
Trữ lượng đã được thăm dò xác định ở Việt Nam là khoảng một triệu tấn. Tuy nhiên, tiềm năng chưa được khẳng định chắc chắn, chưa có công trình thăm dò thì cỡ khoảng 10 triệu tấn.
Trên toàn thế giới, trữ lượng đất hiếm được ước tính là vào cỡ 99 triệu tấn.

BBC: Thưa ông, tại Việt Nam đất hiếm phân bổ ở các vùng nào?
TS Nguyễn Khắc Vinh: Chủ yếu là ở khu vực Tây Bắc, các tỉnh Lai Châu và Yên Bái. Tại miền Trung và miền Nam thì cũng có đất hiếm, nhưng chỉ dọc theo ven biển và chủ yếu nằm trong sa khoáng nên trữ lượng không lớn lắm.

BBC: Việc khai thác đất hiếm tại Việt Nam đã được tiến hành từ lâu chưa và như thế nào, thưa ông?
TS Nguyễn Khắc Vinh: Việt Nam đã bắt đầu khai thác đất hiếm khá lâu rồi, cách đây hai, ba chục năm, nhưng sản lượng rất ít. Lúc đó, Tiệp Khắc và Ba Lan đã tham gia khai thác đất hiếm ở Việt Nam nhưng không nhiều.
Thực ra nhu cầu đất hiếm trên thế giới cũng không cao, mỗi năm chỉ cần sản xuất chừng 125.000 tấn. Nếu lấy trữ lượng trên toàn thế giới tạm cho là 100 triệu tấn chia ra, thì phải mất cả một nghìn năm mới hết trữ lượng đất hiếm.
Vì thế, tuy gọi là "hiếm" nhưng đất hiếm lại không phải là khoáng sản "hot", không phải khoáng sản "nóng".

BBC: Mới đây Trung Quốc loan báo ngừng xuất khẩu đất hiếm. Liệu việc này có ảnh hưởng gì tới việc sản xuất đất hiếm trên thế giới hay không, thưa ông?
TS Nguyễn Khắc Vinh: Tôi cần giải thích thêm là trên thế giới có bốn quốc gia có nhiều đất hiếm là Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam.
Trước kia, Mỹ khai thác trong nước khá nhiều, nhưng tới khi Trung Quốc bắt đầu phát hiện ra đất hiếm ở vùng Nội Mông và khai thác bán ồ ạt với giá rẻ thì Mỹ ngừng khai thác ở trong nước.
Một trong các lý do là việc khai thác đất hiếm khá độc hại, ảnh hưởng tới môi trường.
Nay, Trung Quốc thông báo bắt đầu từ 2012 sẽ ngừng xuất khẩu đất hiếm. Điều này không ảnh hưởng tới Mỹ, vì họ có thể quay về khai thác ở trong nước.
Tuy nhiên, Nhật Bản không có đất hiếm, nên cần tới Việt Nam. Nhưng nhu cầu của họ cũng không lớn, mỗi năm chỉ chừng bảy tới 10 nghìn tấn.
Nói nôm na, thì vào khoảng hai xe tải chứ không nhiều.

BBC: Vậy thì thưa ông, những đồn đoán rằng kinh doanh đất hiếm có thể thay đổi bộ mặt kinh tế của đất nước là không có cơ sở ạ?
TS Nguyễn Khắc Vinh: Không có chuyện đó được. Không thể kỳ vọng rằng Việt Nam sẽ giàu lên nhờ đất hiếm, cho dù tiềm năng đứng thứ ba trên thế giới.
Đơn giản vì nhu cầu quá ít, một năm Việt Nam có thể bán ra 10 nghìn tấn, với giá tám nghìn đôla một tấn thì cũng chưa "ăn thua" gì.
-------------------------

Các bài liên quan
.
.
.

Thanh Tuyền
05/11/2010

SGTT.VN - Việt Nam có tiềm năng về đất hiếm nhưng việc khai thác nếu chỉ dừng lại ở sản phẩm thô thì giá trị kinh tế là không nhiều. Nhu cầu về loại khoáng sản này hiện cũng chưa cao. TS Bùi Đức Thắng, Tổng thư ký Tổng hội Địa chất Việt Nam chia sẻ với Sài Gòn Tiếp thị như vậy.
TS Thắng cho biết, đất hiếm được dùng rộng rãi trong đời sống bình thường và đặc biệt trong các ngành công nghệ cao. Một số công dụng của đất hiếm: công nghệ thực phẩm, y tế, đánh bóng thuỷ tinh, gốm sứ, máy tính, màn hình tivi màu, chiếu sáng, ôtô thân thiện với môi trường, nam châm, pin, xúc tác lọc hoá dầu, tên lửa, radar, công nghiệp hạt nhân, đối ứng với biến đổi khí hậu…
Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng về đất hiếm, vậy hiện nay đã có thăm dò chính thức nào về trữ lượng đất hiếm này chưa thưa ông?
Ở Việt Nam kết quả nghiên cứu tìm kiếm đất hiếm từ năm 1958 đến nay đã phát hiện được nhiều điểm tụ khoáng đất hiếm ở Bắc Nậm Xe, Nam Nậm Xe, Đông Pao (thuộc tỉnh Lai Châu), Mường Hum (Lao Cai) và Yên Phú (Yên Bái), dọc bờ biển miền Trung.
Dự báo trữ lượng đất hiếm của mình khoảng dưới 1 triệu tấn, nhưng đánh giá thăm dò chính xác thì chưa có.
Hiện nay đã có nơi nào ứng dụng đất hiếm trong đời sống, sản xuất?
Việt Nam đã nghiên cứu sử dụng đất hiếm trong các lĩnh vực nông nghiệp, chế tạo nam châm vĩnh cửu, biến tính thép, chế tạo hợp kim gang, thủy tinh, bột màu, chất xúc tác trong xử lý khí thải ôtô... nhưng cho tới nay vẫn dừng lại ở quy mô phòng thí nghiệm và bán công nghiệp.
Hàng năm Việt Nam mới chỉ khai thác nhỏ cỡ vài chục tấn quặng bastnaesit ở Đông Pao và vài ngàn tấn quặng monazit có hàm lượng 35 – 45% R203 [oxit đất hiếm] ở sa khoáng ven biển miền Trung để bán theo con đường tiểu ngạch.
Được biết, đất hiếm có nhiều công dụng, đặc biệt giúp cho nền kinh tế xanh, vậy tại sao việc khai thác và sử dụng tại Việt Nam chưa nhiều. Vì lý do công nghệ hay còn lý do gì khác, thưa ông?
Vấn đề công nghệ đã không còn trở ngại, bởi các nước trên thế giới cũng đã làm, nên việc chúng ta kế thừa, áp dụng không khó, tuy nhiên vấn đề ở đây là ở nhu cầu.
Theo tính toán, nhu cầu sử dụng đất hiếm không cao, mỗi năm thế giới chỉ sử dụng 120.000 tấn/năm, trong đó Trung Quốc đã chiếm 97% thị phần, nếu mình có làm thì cũng không đáng bao nhiêu. Đặc biệt, với tổng tài nguyên đất hiếm thế giới là 150 triệu tấn, trong đó trữ lượng là 99 triệu tấn, sản lượng khai thác hàng năm là 120 ngàn tấn, nếu tính cả nhu cầu tăng hàng năm là 8 – 10% thì thế giới vẫn còn có thể khai thác đất hiếm đến gần một ngàn năm nữa.
Có ý kiến cho rằng chúng ta đang đánh giá quá cao và hy vọng nhiều vào nguồn tài nguyên này, ý kiến của ông là như thế nào?
Theo giá thành hiện nay, giá tinh quặng bastnaesite năm 2008 là 8,82 USD/kg, 1 tấn sẽ bán được 8.000 USD, giả sử một năm làm được 10.000 tấn sẽ bán được 80 triệu USD (tương đương với 1.600 tỉ đồng) thì không hề nhiều. Nếu ứng dụng công nghệ cao để làm quặng tinh thì kim loại đất hiếm tinh khiết 99,99% giá khoảng 221.000 USD/kg (europium), 145.000 USD/kg (terbium)...
Ngoài ra, hiện nay nhu cầu thế giới chưa cao nên làm ra chưa chắc đã bán được, mặt khác chúng ta chưa thể nhập công nghệ và sản xuất được ngay loại quặng tinh khiết. Do đó, không nên đánh giá quá cao và hy vọng quá nhiều vào nguồn quặng đất hiếm của Việt Nam.
Việt Nam chắc phải từ năm 2020 trở đi, khi chúng ta trở thành nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì những ứng dụng của đất hiếm cho công nghệ cao mới thực sự rõ rệt.
----------------

Theo tài liệu của Sở Địa chất Mỹ, tổng tài nguyên đất hiếm toàn thế giới khoảng 150 triệu tấn, trữ lượng là 99 – 100 triệu tấn. Trữ lượng đất hiếm của Trung Quốc là nhiều nhất 36 triệu tấn, Úc là 5,2 triệu tấn, Ấn Độ là 1,1 triệu tấn, sau đến các nước như Srilanka, Brazil… Từ năm 1950, khai thác các sa khoáng monazite trên các bãi biển đã được tiến hành nhưng vì monazite có chứa nhiều thorium có tính phóng xạ ảnh hưởng đến môi trường nên việc khai thác bị hạn chế. Từ năm 1965 bắt đầu thời kỳ mới khai thác carbonat đất hiếm bastonaezite ở vùng núi Pass, Colorado, Mỹ. Từ năm 1983, Mỹ mất vị trí độc tôn khai thác đất hiếm vì nhiều nước đã phát hiện ra mỏ đất hiếm.

T. T.
Nguồn: Baomoi
.
.
.

No comments: