Wednesday, November 18, 2009

TRUNG QUỐC - RỒNG THẬT hay VOI GIẤY ?

Trung Quốc – Rồng thật hay Voi giấy?
Tác giả: GSTS Nguyễn Mạnh Hùng - Đại Học Laval (Québec, Canada)
Bài đã được xuất bản.: 3 giờ trước (18-11-2009)
http://tuanvietnam.net/2009-11-18-trung-quoc-rong-that-hay-voi-giay-
Hiện, TQ có thể ví như một con voi. Voi bằng giấy (phủ đôla móc từ thặng dư lao động của nông dân phải đi làm công nghiệp trên thành phố), với ba chân đất sét (với môi trường bị tàn phá, lao động lão hóa, và bất bình đẳng trong phân bố lợi tức) và một chân bằng gỗ....

Nếu tính tổng sản lượng GDP, TQ có nền kinh tế đứng thứ 3 trên thế giới, với ¼ dân số địa cầu. Nếu tính GDP/đầu người thì hiện 130 triệu người TQ làm được 1 đôla mỗi ngày. 35% dân số - tức trên dưới 455 triệu người - chỉ thu nhập dưới 2 đôla mỗi ngày, tức ở mức 700-750 đô la/năm. So vớí thế giới, người TQ vẫn chưa phải là nước giàu.
Chế độ an sinh (lợi tức hưu trí, y tế xã hội…) ở TQ còn phôi thai. Mức bất bình đẳng phân bổ ở mức cao - đo bằng chỉ số Gini, cảnh báo tiềm ẩn xung đột lớn. Nếu xét đến mức phân bố theo vùng, rạn nứt giữa những khu kinh tế đặc biệt ở duyên hải và những thành phố lớn đối với nội địa (mà nông nghiệp là chính) càng ngày càng lớn. Ngoài ra, TQ phải đối mặt với hiện tượng "lão hóa" trong cơ cấu dân số. Kèm theo đó là vấn đề môi trường bị tàn phá ở mức trầm trọng vì kỹ thuật kém và vì tầm nhìn ngắn.
TQ đã khởi đầu công nghiệp nặng và trung, nhưng vẫn còn tập trung trong khâu công nghiệp nhẹ để xuất khẩu. Năm 2010, TQ sẽ là nước có mức xuất khẩu lớn nhất thế giới, nhưng vẫn ở thế "kẹt" vì phải dùng đôla làm tiền tệ thanh khoản. Những nước mới nổi BRIC (gồm Brazil, Ấn, Nga, và Trung Quốc) bàn nhau về phương sách thay thế đồng đôla. Tuy nhiên, có sớm cũng phải 5 đến 7 năm tới việc này mới khả thi, và với điều kiện BRIC duy trì được mức đoàn kết tối thiểu. Điều này xét trong bối cảnh các quan hệ Ấn - Trung và Nga – Trung. Chẳng mấy dễ dàng.
Nhưng nếu cứ có khả năng "ổn định" củng cố tập quyền về mặt chính trị, chuyện vào vai siêu cường của TQ là có cơ sở. Siêu cường - chẳng phải vì TQ có kỹ thuật không gian cao, đóng được tầu ngầm nguyên tử, hay phóng được tên lửa mang đầu hạt nhân xa 2000 km (theo sau Mỹ 20 năm). Trung Quốc có thể trở thành siêu cường vì đã bỏ vốn đi buôn, đồng thời cầm giữ đôla như giữ lửa trong tay. Trung Quốc có thể trở thành siêu cường vì - như Âu châu đầu cuộc Cách mạng Kỹ Nghệ thế kỷ 18- 19 - "vắt sức" của giai cấp lao động trong nước và lũng đoạn tài nguyên từ những nước nghèo ở các châu lục khác. Trung Quốc hoàn toàn có khả năng trở thành đế quốc mới, nhưng hiện thực vẫn phải tùy thuộc thời gian trả lời. Nhưng, lực cản đã xuất hiện. Tây Âu, Nhật, Nga…bắt đầu quan tâm và có phản ứng trước chính sách kinh tế đối ngoại của TQ. Do còn vướng tay giải quyết vấn đề kinh tế mỗi nước, hiện họ chỉ đánh động nguy cơ trước "quyền lực mềm" và khẩu hiệu "đôi bên cùng có lợi" (win-win) "hài hòa" của Bắc Kinh.
Hiện, TQ có thể ví như một con voi. Voi bằng giấy (phủ đôla móc từ thặng dư lao động của nông dân phải đi làm công nghiệp trên thành phố), với ba chân đất sét (với môi trường bị tàn phá, lao động lão hóa, và bất bình đẳng trong phân bố lợi tức), một chân bằng gỗ (quân đội trung kiên với quyền lực chính trị). Nhưng TQ đã cấm quân đội "làm ăn". Chân gỗ hẳn chẳng còn được đóng đế sắt, và lung lay thế nào thì xin đợi vòng quay sau của bánh xe lịch sử.
Một Trung Quốc trong vai đế quốc thế kỷ 21? Vào vai siêu cường còn khó khăn thì khả năng TQ trở thành đế quốc vẫn là một viễn cảnh chưa thể hình dung được. Ngược dòng lịch sử, Đế quốc La Mã khai sinh từ một tổ chức quân đội kỷ luật và có khả năng kỹ thuật cao, sau rao giảng Kitô giáo - một hệ thống giá trị hoàn thiện hơn những nền văn hoá phôi thai ở Âu châu thời đó. Đế quốc của Hồi giáo đến sau, quân lực hùng hậu, phát triển thêm một nền khoa học. Với kỹ thuật dẫn thủy độc đáo, và kèm vào kinh Coran, cũng từ truyền thống tôn giáo vùng Trung-Cận Đông, họ mang tới châu Phi những giá trị mới. Đế quốc Anh, thống trị mặt biển, khai mào cùng một số nước Âu châu chính sách thuộc địa, mang theo hành trang những tư tưởng thời Phục Hưng và Khai Sáng. Đế quốc Mỹ, thắng Thế Chiến II, chia thế giới thành hai, rồi đi rao giảng những giá trị Dân chủ, Tự do…
Kể sơ như vậy, dẫu biết là không đầy đủ, nhưng tôi vẫn nói nhằm nhấn mạnh hai điểm sau: điều kiện cần để thành Đế quốc là lực lượng quân sự và kỹ thuật (kể cả kỹ thuật chiến tranh) cao; và điều kiện đủ là một hệ thống giá trị mới đi kèm, có khả năng thay thế những giá trị cũ kỹ lỗi thời. Về điểm đầu, TQ còn khá lạc hậu so với tiềm lực quân sự những nước tiên tiến. Về điểm thứ hai, thật khó tưởng tuợng nổi một hệ thống giá trị thời Xuân Thu-Chiến Quốc xưa hàng mấy ngàn năm lại có thể ảnh hưởng lên những con người thời đại hôm nay, với những phương tiện truyền thông hiện đại.
Dù có lập 70 Văn Miếu thờ Đức Khổng ở nhiều nơi trên trái đất, và mặc dầu không có ác cảm gì với nhà tư tưởng này, tôi vẫn tự thấy mình quả rất khó chấp nhận khi tưởng tượng ra một thanh niên da đen sì sụp lạy Đức Khổng, miệng lẩm nhẩm "Quân", "Sư", "Phụ"…như thứ bùa chú để giữ ổn định cho những vị lãnh đạo Phi châu. Việc đi xây Văn Miếu này chứng tỏ những nhà lãnh đạo TQ đang bế tắc trong sự tìm kiếm một mô hình văn hóa có giá trị phổ quát toàn cầu ở ngưỡng cửa thế kỷ 21 này.

Bàn cờ mới - Thế trận mới
Năm 2010 tới đây là một năm bản lề. Ở khía cạnh lạc quan như chuyên gia nói kinh tế Tây Âu và Mỹ sẽ tăng trưởng - nhưng chừng mực nhất định. Ở góc độ bi quan, nhiều người cho rằng kinh tế sẽ trồi sụt kiểu chữ W, vì vẫn còn bong bóng, và những cứ liệu căn bản không có gì mới mặc dù giá chứng khoán có tăng từ tháng 3 – 2009.
Quay lại thời kỳ Cục dự trữ Liên Bang Mỹ bơm hơn một ngàn tỉ vào nền kinh tế hầu cứu ứng nan đề "cạn nguồn" tín dụng - lý do khiến những đại công ty tài chính và ngân hàng không cho vay, cơ xưởng đình trệ, tức nền kinh tế "thật" suy thoái. Tín dụng (tiền tệ) là giấy, ảo, và là đơn vị trung gian giữa mua và bán những mặt hàng thật ( như trả lương lao động, mua nhiên vật liệu… chẳng hạn). Trên lý thuyết, bản vị trung gian tín dụng không tác động lên nền kinh tế "thật", nhưng trong thực tế cuộc trầm thoái vừa qua, thì không thế.
Tại sao? Giới tài phiệt đã đi qua chức năng truyền thống của ngân hàng, lao vào hoạt động đầu cơ may rủi qua những quĩ đầu tư, và ngay khi được hỗ trợ, họ giữ tiền chứ không cho vay để bôi trơn hoạt động kinh tế "thật". Bằng chứng là: vài tháng sau khi nhận tiền, khi chính phủ Mỹ định kiểm soát "tiền thưởng" của lãnh đạo những tập đoàn kinh tài vẫn lên đến 900 triệu đô (trong năm 2008 thua lỗ), họ đòi trả lại tiền đã nhận và từ chối không cho chính phủ Mỹ "điều tiết" tiền thưởng của họ! Mặc dù tân Tổng thống Obama được dư luận quần chúng ủng hộ, ông ta cũng đành "chịu thua".
Wall Street thắng Main Street, tài phiệt đã xử dụng nền kinh tế "thật" như con tin để ép nhà nước Mỹ lấy tiền dân cung ứng hỗ trợ họ. Mới đây, trong hội nghị thượng đỉnh G-20 ở Pittsburg, những điều kiện chế tài vẫn lỏng lẻo, thậm chí đề nghị đánh thuế mua bán chứng khoán để giới hạn hoạt động đầu cơ thôi mà cũng không được thông qua. Với lãi suất hiện ở mức bằng 0, người ta cứ vay đôla mà không phải trả lãi, mang đi mua chứng khoán ở những nơi giá trị tiền tệ tăng lên so với đồng đôla, tạo ra khả năng thổi những quả bong bóng mới trên thị trường. Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy mạnh miệng lên tiếng nhiều lần, cho rằng tương lai của kinh tế tư bản thị trường mấp mé bờ vực phá sản với sự lũng đoạn của khu vực tài chính - ngân hàng, nhưng tiếng ông dường như rơi vào thinh không. Đây có lẽ là vấn đề cam go nhất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: "ảo" thắng "thực", và tài phiệt chễm chệ trên đầu mọi người (kể cả tổng thống, thủ tướng, quốc hội) ở những quốc gia dân chủ tiên tiến.
Sau trầm thoái, phân bố quyền lực kinh tế (và chính trị, như hệ luận) sẽ khác. Bên mất đi, hay suy giảm là các nước Mỹ, Nhật, Tây Âu và những nước Đông Âu mới gia nhập Cộng đồng châu Âu. Bên được là những nước nhiều tài nguyên, như Brazil, Nga, Úc, Canada. Còn TQ vẫn tiếp tục tăng trưởng, và nhân cơ hội sử dụng đôla đi buôn tài nguyên và đi "buôn vua" - kiểu Lã Bất Vi thời Chiến quốc, chắc sẽ phát huy trong một chừng mực nhất định vị trí của mình. Ở châu Phi, TQ giữ vai bảo kê cho những chính quyền độc tài, thao túng quyền lực chính trị địa phương, khai thác tài nguyên đồng thời để lại di sản là môi trường bị hủy hoại, mượn tiếng sử dụng lao động để di dân hòng đối phó vấn đề nhân mãn (ở mẫu quốc), tìm cách kiểm soát và điều hành yếu tố sinh tử là nguồn nước.
Về thực lực khoa học - kỹ thuật, TQ chưa phải là tiên phong. Và mang những giá trị phong kiến Khổng-Mạnh ra rao giảng như hệ lý luận trụ cột cho phương thức "ổn định để phát triển" đúng là đi giật lùi ít ra hai ngàn năm. Trong tình huống trầm thoái kinh tế toàn cầu, với túi đôla khổng lồ, TQ hoàn toàn có khả năng bành trướng. Nhưng mức độ phủ bóng của Trung Quốc chỉ trong một chừng mực, vì khi tương đối ổn định, những cường quốc kinh tế khác sẽ không thể ngồi yên xem con Rồng Trung Quốc tự do vẫy vùng mãi. Phi châu là chiến trường của cuộc xâm lăng kinh tế thế kỷ 21, và sự cố Tân Cương hẳn sẽ tác động tiêu cực lên cách người Phi châu - mà đa số theo đạo Hồi nghĩ - về khả năng hợp tác "hài hoà" với Bắc Kinh.
Tóm lại, thế giới thế kỷ này là thế giới đa cực: điều này rất tích cực, cho phép những nước chưa phát triển - trong đó có Việt Nam - thời cơ hợp tác đa phương với mọi đối tác. Quốc gia nào khép mình bó chặt vào bất cứ một quan hệ đơn phương nào cũng là tự nhốt mình trong cũi.

Quan hệ phức tạp Việt – Trung
Dân gian có câu "bán anh em xa mua láng giềng gần". Đó là trong việc cưu mang nhau. Nhưng nếu không cưu mang mà còn ngược lại, thì Việt Nam rất cần anh em xa để "hài hòa" các mối quan hệ. Hai lần Bắc thuộc mà Việt Nam chưa biến thành quận huyện TQ là điều thần kỳ. Ai đó coi chuyện Việt Nam phải vào quỹ đạo kinh tế của TQ như điều tất yếu hiển nhiên là một sai lầm chiến lược mà hậu quả là truyền đời.
Người Việt đã đổ ra không biết bao nhiêu xương máu và nước mắt để giữ nước. So với thời Nguyên Mông lùa quân sang xâm chiếm nước ta vào đời nhà Trần thì có hai điều phải xác minh ngay. Tương đối mà nói, Nguyên Mông xưa hùng cường hơn TQ ngày nay nhiều (đặt trong bối cảnh lịch sử từng thời kỳ). Và họ dùng quân sự để thôn tính nước khác, vì cách đây 500 năm chưa có những hình thái khác. Ở thế kỷ này, dùng giải pháp quân sự đi xâm lăng là bất cập. Thay vào đó là xâm lăng kinh tế, với sự đồng lõa của quyền lực chính trị địa phương. Thâm-và-hiểm hơn nữa, song song với kinh tế là xâm lăng văn hóa qua phim ảnh, sách báo, truyền hình, xây Văn Miếu, tượng đài… cho chiến lược đồng hóa.
Trở lại đời nhà Trần, Vua gọi họp Hội nghị Diên Hồng tìm đồng thuận toàn dân. Trần Hưng Đạo bỏ thù nhà để lo đền nợ nước, quan tướng một lòng, không chia rẽ vì cái tư riêng, góp sức với nhau cứu lấy sơn hà. Đời nay, thiển nghĩ cũng phải vậy. Xin hãy chấn dân khí, vì dân là nguồn lực chính giữ nước. Nước nhỏ, chúng ta hòa hiếu (theo nghĩa khác hẳn "bạc nhược"). Nằm sát nách một thế lực lớn, chúng ta tránh đụng độ, "nhu" hơn là "cương" - "như" hiểu theo nghĩa không có nghĩa là nằm chết nhẹp. Không "tham-sân-si", nhưng cũng không "bài xích" một người-láng-giềng-lớn. Chúng ta đã từng chung sống hòa bình với nhân dân TQ. Chúng ta có thể tiếp tục sống với họ, bên cạnh họ, trong khuôn khổ "tương kính tương thân".
Ngoài ra, còn kể đến các "anh em xa" - hiểu rộng ra là cả cộng đồng quốc tế muốn xây dựng một thế giới công chính. Phần tôi, tôi tin là có một nhân loại tiến bộ, công bằng, hành xử có chuẩn mực đạo lý, không làm ngơ trước "bá quyền". Người Việt Nam - không chỉ lớp lãnh đạo và chính quyền, làm thế nào để được sự hỗ trợ anh em vừa nói là điều đáng suy ngẫm. Và đó là yếu tố cho phép chúng ta tiếp tục tồn tại như một dân tộc.



No comments: