Monday, November 9, 2009

LAN MAN về VĂN HOÁ DÂN TỘC thời HỘI NHẬP

Lan man về văn hóa dân tộc thời hội nhập
Bùi Trọng Hiền
Trịnh Quốc Dũng’s blog
Đăng ngày: 05:36 08-11-2009
http://vn.myblog.yahoo.com/dungtq2412_ihere/article?mid=583
"Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời", lời mở đầu trong bài hát bất tử "Tình ca" của nhạc sỹ Phạm Duy viết cách đây đã hơn nửa thế kỷ sao vẫn luôn ghi khắc trong trái tim, trong tâm hồn tôi đến vậy. Đã nhiều lần, tôi tự hỏi, cái gì đằng sau "tiếng nước tôi" kia mà khiến cho bao người phải yêu thương và trân trọng như thế. Ngôn ngữ tự thân nó đã thể hiện một cách rõ nét các đặc tính văn hóa của một dân tộc.
Vậy thì, các đặc tính văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập là gì? Nó chịu tác động như thế nào trong thời kỳ hội nhập văn hóa? Để tìm hiểu vấn đề này, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu văn hóa Bùi Trọng Hiền.
-------------------------------------------------

Lan man về văn hóa dân tộc thời hội nhập

Trong dòng chảy lịch sử, đã có một thời văn hóa dân gian được coi như tầng nền cơ bản của văn hóa dân tộc. Nó đã từng chiếm giữ một vị trí độc tôn trong lòng người dân nước Việt. Thời gian trôi qua, biết bao biến cố thăng trầm của lịch sử, những cuộc đổi thay, di dời cả một thời của văn hóa dân tộc. Chiến tranh triền miên, những cuộc xâm lăng, trước là đất đai, sau là văn hóa. Sự chống trả quyết liệt, giằng co, rồi chuyển sang thế cầm cự và chấp nhận giao lưu. TIẾP& BIẾN- số phận văn hóa dân tộc là vậy đó!
Trước hết không thể không nói đến việc chúng ta thay đổi chữ viết. Từ việc dùng chữ Hán, rồi hệ thống chữ Nôm của riêng người Việt ra đời. Lịch sử ghi nhận, để tôn vinh chữ viết dân tộc, vua Quang Trung đã từng quy định các văn bản nhà nước thống nhất sử dụng chữ Nôm. Khi người Pháp bắt đầu đặt nền móng cho cuộc đô hộ 100 năm, hệ thống chữ quốc ngữ với ký tự La Tinh đã xuất hiện. Và, theo bước chân thực dân đô hộ, nó đã dần thay thế hệ thống chữ Nôm, chữ Hán một cách có chủ đích. Cùng với nó, trào lưu văn hóa phương Tây (với văn hóa Pháp là nòng cốt) dần dà lấn lướt, bén rễ và tạo chỗ đứng vững chắc trong thành phần văn hóa dân tộc, không thể cưỡng. Dân tộc Việt Nam là vậy, vị trí địa lý "mặt tiền" cửa biển kéo dài dường như "khiến cho" lịch sử dân tộc luôn "được" đặt vào những thử thách vô cùng lớn lao và nhiều phần khắc nghiệt. Thế nên "tiếp biến" luôn được coi là bản chất của văn hóa dân tộc, để thích ứng với mọi cuộc "thử lửa" trớ trêu đó.
Thay đổi chữ viết, sẽ nhìn thấy rõ tính 2 mặt của vấn đề. Bên cạnh việc dễ phổ cập cũng như sự tiện dụng như nhiều người đã nói(?), chỉ trong khoảng một thế kỷ, chữ quốc ngữ đã thực sự trở nên một thành tố không thể tách rời của văn hóa dân tộc Việt Nam. Có thể nói, một trang sử mới của văn hóa dân tộc đã chính thức được lật mở, kèm theo sự ra đời của cả một nền văn hóa dân tộc chịu ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa phương Tây, thường được gọi là "tiếp thu văn hóa mới". Có lẽ không cần bàn nhiều về cái thành tựu rực rỡ và hệ quả sáng lạn của việc di dời này. Ở đây, xin nói đến một góc nhìn khác, một tham chiếu hoàn toàn khác với những giả định theo phép lôgic.
Nhìn lại lịch sử, hãy tưởng tượng, nếu không có sự thay đổi chữ viết theo kiểu Tây đó, chắc chắn nền Nôm tự của Việt Nam cũng sẽ tự thân vận động mà phát triển dần để thích ứng với thời cuộc, hội nhập với hoàn cảnh lịch sử. Có thể lấy nhiều ví dụ ở các nước đồng văn phía Bắc để minh chứng cho tính hợp lý của sự biện luận này. Họ cũng đều hoàn thiện dần chữ viết tượng hình, ổn định trong sự phát triển bộn bề của thời đại mới, mà "không cần" phải chuyển con chữ dân tộc sang ký tự La Tinh phương Tây [1].
Ở đây, có một điều không thể phủ nhận, rằng sau khi dân tộc ta đổi chữ viết theo ký tự La Tinh,toàn bộ hệ thống thư tịch của ông cha trong quá khứ nghiễm nhiên dần bị "đặt" ra ngoài luồng thức nhận phổ thông. Theo thời gian, lượng người có thể đọc - hiểu chữ Hán, chữ Nôm ngày càng thưa dần trong xã hội Việt Nam hiện đại. Điều đó có nghĩa, toàn bộ những di sản, những thông điệp dạng văn tự mà người xưa muốn gửi gắm, lưu truyền cho hậu thế đã vô tình bị đặt ở thế khó tiếp cận. Ở một góc cạnh, các tác phẩm của cha ông đã thực sự trở thành kiểu dạng... "ngoại ngữ" (nghĩa tương đối), không thể khác. Muốn hiểu được cha ông viết gì, buộc phải chuyển đổi các văn bản Hán tự, Nôm tự qua một cầu dịch thuật thành quốc ngữ với nhiều sự hạn chế khó tránh khỏi. Hơn thế nữa, làm sao có thể dịch hết toàn bộ kho tàng thư tịch cổ?! Càng không thể thay thế, chuyển đổi toàn bộ hoành phi, câu đối, văn bia ở hệ thống các thiết chế văn hóa cổ truyền thành... chữ quốc ngữ!!! Đành phải chấp nhận một thực tế, đó chủ yếu là lĩnh vực, là cõi riêng "đi về" của một bộ phận tri thức nhỏ. Giới trẻ mỗi thế hệ ngày càng khó có thể tiếp nhận kho tàng vô giá đó. Hoàn cảnh lịch sử khiến họ phải thu nạp thông tin ngày càng nhiều hơn các thế hệ đi trước. Giờ đây, một thanh niên tri thức thời đại mới luôn được đòi hỏi phải biết vài ba ngoại ngữ bên cạnh hàng mớ tri thức khổng lồ khác để cập nhật với thời cuộc. Sự quá tải văn hóa, ngôn ngữ, tri thức mới trong thời đại bùng nổ thông tin - "thế giới phẳng" sẽ là điều tất yếu. Trong tình trạng đó, chữ viết- tri thức của tổ tiên cũng như biết bao thành tố văn hóa dân tộc khác đương nhiên dễ bị rơi vào thế yếu trong sự lựa chọn của giới thức giả thời đại.
Nói vậy để thấy được sự quan trọng như thế nào của chữ viết dân tộc. Một trường đoạn tiếp biến, chuyển mình của lịch sử thường bao giờ cũng có 2 mặt của vấn đề. Cần phải nhìn thẳng vào sự thật lịch sử, để hiểu, để cảm nhận đúng mọi góc cạnh của nó trong sự tác động nhiều chiều lên dòng chảy của văn hóa nghệ thuật dân tộc nói chung. Có thế mới thấu cảm, thức nhận được mọi biến đổi cả về nội dung cũng như hình thức của các thành tố văn hóa Việt Nam trong suốt thế kỷ XX.
Ngày nay, sự tích hợp các yếu tố văn hóa ngoại lai trong các thành tố văn hóa dân tộc là điều không thể phủ nhận, trở nên tính tất yếu của lịch sử. Trong đó, các yếu tố Tây phương là sự lấn lướt hơn cả. Thôi thì đủ mọi thành tố, từ ngôn ngữ đến trang phục, nếp ăn nếp ở, ma chay cưới xin.., tất cả không ít thì nhiều đều nhuốm màu Tây phương. Giao lưu văn hóa luôn có 2 mặt, nếu tiếp thu các giá trị mới từ bên ngoài mà không có bản lĩnh văn hóa dân tộc, thì sự hòa tan, mất gốc... sẽ là điều khó tránh khỏi. Ngày nay, mấy ai hiểu được bản chất của việc học ngoại ngữ chính là sự mở đầu cho quá trình tiếp nhận, thụ hưởng các giá trị văn hóa của dân tộc sở hữu thứ ngôn ngữ đó. Khi đến với viện Gớt, Hội đồng Anh, Trung tâm văn hóa Pháp.., học ngôn ngữ của HỌ, đồng thời chính đó là việc TA mở ra một hướng tiếp cận- hấp thụ văn hóa dân tộc của HỌ, như một mối quan hệ gắn bó mang tính hữu cơ vậy. Lẽ thường, học gì "nhiễm" nấy, sự thâm nhập của văn hóa nước ngoài vào từng cá thể luôn là điều tất yếu trong thời đại mới, đặc biệt là khi cách mạng công nghệ thông tin bùng nổ tạo nên một "thế giới phẳng". Thế nên bản lĩnh văn hóa dân tộc mới là vấn đề cần phải bàn. Bởi nó chính là "nội lực" cân bằng, những mong tạo được thế "ỷ dốc" để con người Việt Nam thời đại vững tiến.
Xin lấy ví dụ: thời xưa, màu trắng vốn được coi là màu biểu tượng tang tóc thì ngày nay, tuyệt đại đa số các cô dâu đều muốn mặc váy đầm trắng tinh... như Tây. Nhiều năm gần đây mới thi thoảng có người dám mặc áo dài đỏ (vốn là biểu tượng HỶ của thời xưa). Lễ phục truyền thống dân tộc, mấy ai dám mặc trong dịp đại lễ? Khó thật! Ngay trong các lễ hội nơi dân dã, sẽ không mấy ngạc nhiên khi ông chủ tế mặc áo lễ kiểu cổ truyền nhưng bên trong vẫn lòi ra cái củ cà-vạt, cho chắc(?) Trên các phương tiện thông tin đại chúng, việc dùng các thuật ngữ Tây hay lai Tây thay cho các từ thuần Việt hiện nay không còn là điều hiếm thấy. Đặc biệt trong nghệ thuật, sự "Tây phương hóa" đã một thời được coi là công cuộc "hiện đại hóa, khoa học hóa, thời đại hóa" để "canh tân" văn hóa dân tộc. Ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật, dường như cứ có yếu tố Tây phương thì sẽ được coi là "trẻ trung, sôi động, thời đại". Có 1 nghìn lẻ 1 dẫn chứng cho hiện tượng này, không thể kể xiết. Đến nỗi, phải mất rất nhiều năm, chính bản thân người viết bài này mới ngộ ra được cái gọi là "bản lĩnh văn hóa dân tộc" là gì. Có rất nhiều việc, tưởng chừng như thật đơn giản, song cũng phải có thái độ tranh đấu thực sự mới mong bảo vệ được các giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc ngay trong chính bản thân. Giả sử có ai đó hiểu được cái váy đầm "tân thời" kia thực ra vốn là trang phục cổ truyền của Tây phương, đã thịnh hành từ nhiều thế kỷ trước... thì có lẽ cũng có nhiều người phải giật mình nghĩ lại (dù chưa chắc dám thay đổi nếp nghĩ). Mấy ai để ý đến dàn nhạc giao hưởng cùng với kho tàng âm nhạc cổ điển phương Tây cũng chính là một trong những di sản âm nhạc cổ truyền của HỌ. Nhiều khi chỉ cần hiểu một cách hết sức đơn giản kiểu như L.V.Beethoven là đồng đại với thời vua Quang Trung, hay J.S.Bach là vào khoảng thời Trịnh -Nguyễn phân tranh... thì dường như chúng ta có thể "bình tĩnh" mà nhìn nhận khái niệm mới - cũ giữa TA và HỌ.
Tôi tin sẽ có một ngày, trong lĩnh vực văn hóa (tôi nhấn mạnh), chúng ta sẽ cùng nhìn nhận lại tính 2 mặt của sự giao lưu, tiếp biến thời đầu thế kỷ XX, ví như tác động của phòng trào Duy tân chẳng hạn. Rằng từ đó, mái tóc dài của đàn ông Việt Nam được thay thế bằng mái tóc ngắn, rồi sự lên ngôi của Âu phục, trở thành chuẩn văn minh lịch sự... Nhiều tiêu chí đẹp- xấu, hay -dở đã được thiết lập lại "trật tự" từ đó. Hệ thống thẩm mỹ truyền thống dân tộc đã được "di dời một thời" như vậy!
Diễn giải dài dòng thế để thấy được cái nhìn toàn cảnh, thấy được cái xu thế thời đại của một trường đoạn lịch sử. Trong bối cảnh đó, văn hóa dân tộc Việt Nam không thể thoát khỏi sự chi phối lớn trong sự chuyển mình của thời cuộc. Hà tất phải bàn đến sự sinh tồn của các chân giá trị, nhất là các giá trị văn hóa nghệ thuật dân gian, vốn chỉ được lưu truyền trong lòng dân gian như nó. Điều đó có nghĩa, từ toàn bộ đến từng phần của văn hóa dân tộc Việt Nam, cái sự "nước nổi bèo trôi", "sóng cả ngã chèo" là điều không thể tránh khỏi.
Thật may mắn biết mấy, chính trong sự hội nhập toàn cầu diễn ra ngày càng toàn diện, với tốc độ chóng mặt theo đà bùng nổ của thời đại thông tin, chúng ta đã dần nhận thức đúng vấn đề. Sự bảo lưu các giá trị mang tính bản sắc trong công cuộc toàn cầu hóa đã được UNESCO đề cao hơn bao giờ. Đa dạng hóa văn hóa được nêu rõ như một tôn chỉ mang tính quốc tế. Sự hòa đồng sẽ có thể khiến cho bản sắc dân tộc bị triệt tiêu, nguy cơ đó được cảnh báo trong nhiều thông điệp từ bè bạn năm châu, chứ không chỉ trong nước. Và, công cuộc phục hưng văn hóa dân tộc ngày càng có những chuyển biến rõ rệt với tính tích cực vượt bậc so với mấy chục năm về trước. Giờ đây, những người yêu thương văn hóa cổ truyền Việt Nam nói chung, văn hóa dân gian Việt Nam nói riêng đã có cơ hội mong mỏi, hy vọng vào một ngày mai xán lạn!
Văn hóa vốn bình đẳng. Giao lưu văn hóa, tiếp thu các giá trị bên ngoài là điều hoàn toàn nên làm, nhưng hãy để bản ngã văn hóa dân tộc trường tồn. Trong phân nửa thế kỷ qua, nhiệm vụ bảo tồn các giá trị văn hóa nghệ thuật cổ truyền dân tộc là điều đã được khẳng định. Vậy tại sao trên thực tế, đó dường như chỉ là một khẩu hiệu được hô to mà thôi?! Đã có khá nhiều ý kiến "đồng thanh tương ứng" cho rằng, sự thất truyền của nhiều chân giá trị là điều... tất yếu! Người ta còn khẳng định trong sự phát triển, có "sinh" thì phải có "diệt". Thiết nghĩ, đó là sự áp dụng thô bạo thuyết tiến hóa vào văn hóa nghệ thuật!
Ở đây, tôi cho rằng THỜI ĐẠI hay cái gọi HƠI THỞ THỜI ĐẠI là các khái niệm hết sức trừu tượng. Một "thời đại" như thế nào sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của từng thế hệ. Nói nôm na là con người như thế nào thì sẽ tạo ra thời đại tương ứng. Thế nên THỜI ĐẠI không phải là cái TẤT YẾU, mang tính QUY LUẬT BẤT BIẾN mà hoàn toàn có thể tác động, thay đổi. Trong sự giáo dục bản lĩnh văn hóa dân tộc, nếu cứ lấy số đông khán giả thời đại làm "khuôn vàng thước ngọc" thì hẳn không có gì phải bàn nữa, cứ thế mà buông xuôi trong cơn lốc hội nhập, hết chuyện!

Thay lời kết
Anh hô hào bảo tồn, tôi hô hào bảo tồn. Nhưng anh vẫn chỉ thích nghe Beethoven, Mozart và cho con anh đi học piano, violon cho sang trọng. Còn tôi chỉ thích nghe nhạc pop, rock. Và, con tôi khi nghe nhạc dân tộc cải biên lại cứ tưởng là chèo cổ. Cả hai gia đình chúng ta chẳng có một ai biết và thích nghe cổ nhạc Việt Nam. Tôi và anh đều tán thành việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Songbảo tồn là gì vàbảo tồn như thế nào? Đó là chuyện của người khác, là chuyện của nhà nước. Tôi và anh không cần quan tâm. Văn hóa nói chung, nghệ thuật nói riêng là sở thích cá nhân. Chúng ta không thích nghe Ca trù, Tuồng, Chèo, Ca Huế... cũng chả phương hại gì. Váy đầm hở vai dù là trang phục cổ truyền của Tây phương từ thế kỷ 16, cũng như com-lê có từ thế kỷ 18, nhưng không sao! "Cũ người mới ta". Và tôi vẫn thích các con tôi mặc trong ngày cưới bởi trông nó rất hiện đại. Thì từ thành thị đến nông thôn Việt Nam, toàn dân ta vẫn thích com-lê, váy đầm đấy thôi. Mặc áo the khăn xếp hay áo tứ thân trông cổ hủ lắm, rồi mọi người lại chê cười. Nhân cách văn hóa dân tộc ư? Cái gì ta sử dụng mà chả là của ta! Chúng ta chính là thời đại, chúng ta chính là nhân cách văn hóa mới của dân tộc. Người ta chẳng đã khẳng định là có ông NSND của ta chơi nhạc Chopin mà vẫn thể hiện được tâm hồn Việt Nam kia mà!
Bùi Trọng Hiền
--------------------------------------------------------

1. Tháng 8/2002, nhân dịp gặp GS Tô Vũ tại hội thảo về Nhã nhạc cung đình Huế, trong một đêm dốc bầu tâm sự, tôi có chia sẻ quan điểm này với vị học giả đáng kính. Ông rất tán thành quan điểm của tôi và cho biết, trong Nam cũng có một học giả có cùng quan điểm này. Nói thế để khẳng định tôi không phải là người đầu tiên và duy nhất có ý kiến như vậy.



No comments: