APEC và ASEAN: nguy cơ và cơ hội
Nguyễn Minh
Đăng ngày 12/12/2008 lúc 00:05:00 EST
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3358
Trong hai tháng 11 và 12-2008 vừa qua, hai hội nghị lớn liên quan đến các quốc gia trong khu vực Thái Bình Dương và Đông Nam Á đã được tổ chức tại Lima, thủ đô Peru, và Cheng Mai, một thành phố phía bắc Thái Lan.
Tại sao có tới hai hội nghị, và với mục đích gì ?
Trước cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những quốc gia đang phát triển chịu nhiều thiệt hại nhất. Nguồn thu nhập chính, và cũng là thước đo tăng trưởng kinh tế của những quốc gia này, phần lớn dựa vào dịch vụ xuất khẩu, và chỉ xuất khẩu sang các quốc gia phát triển phương Tây. Khi khả năng tiêu thụ tại các quốc gia phương Tây suy giảm, nguồn thu nhập do xuất khẩu mang lại giảm theo. Vấn đề của các quốc gia đang phát triển là nguồn lợi do xuất khẩu mang lại chiếm từ 50 đến 70% tổng sản lượng quốc gia (GDP), trong khi tại các quốc gia phát triển tỉ lệ này chỉ ở mức từ 5 đến 15%, sự thiệt hại sẽ không nhiều bằng những quốc gia chỉ sống nhờ xuất khẩu. Cuộc họp mặt giữa những nhà lãnh đạo trong hai khu vực địa lý nói trên chính là để tìm ra một giải pháp vượt lên sự khó khăn này.
Tuyên bố Lima
Trong hai ngày 22 và 23-11-2008, Hội nghị hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đã được tổ chức một cách trọng thể tại Lima (Peru). Hội nghị đã kết thúc với một tuyên bố đặc biệt về sinh hoạt kinh tế thế giới, gọi là Tuyên bố Lima.
Tuyên bố này nói gì ? Đó chỉ là một lời tuyên bố suông bày tỏ quyết tâm từ bỏ các biện pháp rào cản, bảo vệ sinh hoạt kinh tế của từng quốc gia và các định mức về xuất khẩu (quota) mới. Tính đặc biệt của tuyên bố này là lời "thề" chống những biện pháp đó trong vòng... một năm.
Như những hội nghị thượng đỉnh trước đó, nội dung các cuộc thảo luận trong hội nghị thượng đỉnh lần này chỉ nhằm củng cố sự hợp tác kinh tế và thương mại với các quốc gia phát triển như lời kêu gọi của hội nghị thượng đỉnh G20, được tổng thống Bush triệu tập tại Washington ngày 5-11 vừa qua, nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế đang hoành hành tại các quốc gia trên toàn cầu.
Trong cuộc họp mặt thượng đỉnh G20 lần cuối cùng trong nhiệm kỳ của ông, tổng thống Bush đã bày tỏ sự lo lắng khi lên án "chính sách bảo vệ kinh tế dẫn đến sự huỷ hoại sinh hoạt kinh tế trên qui mô toàn cầu". Lãnh đạo các quốc gia phát triển G20 khác cùng chia sẻ ưu tư này và đồng thanh lên án chính sách bảo vệ mậu dịch đang manh nha tại một số quốc gia đang phát triển, đặc biệt là tại Đông Á và Đông Nam Á.
Từ khi Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) được thành hình năm 1995 và qui tụ hơn 150 quốc gia, sinh hoạt và trao đổi thương mại thế giới đã đi vào nền nếp, hàng hóa và dịch vụ được tự do lưu thông, sự phân công lao động và sản xuất kinh tế cũng tương đối bình đẳng. Không còn cảnh cá lớn nuốt cá bé, các quốc gia giàu mạnh áp đặt điều kiện trên các quốc gia nghèo khó thi hành, v.v. Ngày nay các quốc gia đang phát triển hay đang trên đường phát triển được quyền phát biểu một cách bình đẳng trong các hội nghị quốc tế về trao đổi thương mại, như hội nghị APEC lần này tại Lima. Nói chung, chủ trương Tổ Chức Thương Mại Thế Giới là thúc đẩy sự tự do trao đổi hàng hóa và dịch vụ, qua xuất nhập khẩu, nhằm giúp các quốc gia thuộc thế giới thứ ba có thể thu vào thật nhiều ngoại tệ để từ đó làm bàn đạp tiến lên, hay vượt qua nghèo khó, bằng cách tái đầu tư hoặc canh tân lại hệ thống hạ tầng cơ sở để kêu gọi đầu tư quốc tế.
Tuy không có định chế tài chính và tiền tệ quốc tế nào nói ra, yếu tố đầu tiên để thúc đẩy phát triển kinh tế lâu dài và ổn vững là phải có dân chủ và một xã hội dân sự tự do. Hiện nay tuy có nhiều quốc gia độc tài có tỉ lệ tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu, như trường hợp Trung Quốc, nhưng không thể đi xa hơn vì đã đạt tới mức giới hạn. Lý do là các chế độ độc tài thường bỏ qua hay coi nhẹ thị trường quốc nội, do đó không làm một cố gắng nào để nâng cao mức sống của dân chúng trong nước như tăng lương hay tăng trợ cấp xã hội. Bất cứ một sự cố nào trên thị trường quốc tế cũng để lại những ảnh hưởng tai hại cho sinh hoạt kinh tế quốc nội và đời sống người dân vì không đặt ra một định mức giới hạn an toàn. Khi hàng hóa dành cho xuất khẩu không xuất khẩu được, tai họa liền xảy ra: xí nghiệp phá sản, sa thải hàng loạt, xuống đường đòi trả lương, v.v.
Chính vì không tiên liệu được những gì sẽ xảy ra trong tương lai, khi gặp biến cố bất lợi, các chính quyền độc tài thường đơn phương lấy những quyết định tai hại: đánh thuế cao các nguồn hàng xuất nhập khẩu, ngăn chặn sự xâm nhập của hàng hóa hay nguồn vốn đến từ nước ngoài để khai thác tài nguyên nội địa, cấm nhập khẩu, v.v. Những biện pháp này tuy có mục đích bảo vệ hàng hóa nội địa nhưng đồng thời cũng tiêu diệt luôn sinh hoạt trao đổi quốc tế, vì những quốc gia khác cũng sẽ lập những hàng rào quan thuế hay ban hành những biện pháp ngăn chặn tương tự. Cuối cùng chính các quốc gia đó bị chế tài: xí nghiệp đóng cửa và sa thải nhân công nhân vì hàng hóa không bán được, trong khi thị trường trong nước chưa quen tiêu dùng những loại hàng hóa dành riêng cho xuất khẩu hay sức mua yếu kém... cuối cùng dẫn đến suy thoái kinh tế.
Trong hội nghị thượng đỉnh APEC lần này, nhiều cấp lãnh đạo quốc gia tham dự hội nghị không che giấu lo ngại trước lời thề "chống các biện pháp bảo vệ kinh tế" trong một năm này. Trả lời phỏng vấn một hãng truyền thông quốc tế, ông Mali Banguesto, bộ trưởng thương mại Indonesia, nói rằng sinh hoạt nông nghiệp của Indonesia sẽ gặp khó khăn lớn nếu không có những biện pháp bảo vệ ngành này từ một đến hai năm tới. Lý do là hiện nay các công ty khai thác lâm nghiệp trong và ngoài nước đang thi nhau chặt đốn cây rừng để xuất khẩu, hoặc đốt rừng để lấy dất trồng trọt gây ô nhiễm của một vùng rộng lớn trong một thời gian dài. Đây cũng là trường hợp của những nước Brazil, Malaysia, Lào, Myanmar và Việt Nam.
Ngoài "lời thề" nói trên, hội nghị APEC lần này cũng lên tiếng ủng hộ tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường trên qui mô toàn cầu : các loại rừng thiên nhiên, bãi san hô và nhất là chống sa thải bừa bãi các loại chất độc hóa học.
Nói tóm lại, lời thề "một năm" của hội nghị APEC lần này chỉ có một mục đích duy nhất là kéo dài thời gian để chờ xem ê kíp của vị tổng thống vừa đắc cử của Mỹ, Barack Obama, đưa ra những biện pháp nào để phục hồi nền kinh tế của Mỹ và ngăn chặn đà suy thoái kinh tế trên toàn cầu. Thái độ chần chờ này cũng là một hình thức nhìn nhận vai trò lãnh đạo kinh tế thế giới của Hoa Kỳ. Nếu sau một năm, suy thoái kinh tế vẫn tiếp tục kéo dài, chính sách bảo vệ kinh tế nội địa có nguy cơ bùng phát trở lại.
Cũng nên biết diễn đàn APEC được thành lập từ 1989 để ủng hộ sự tự do trao đổi. Hiện nay diễn đàn này qui tụ 21 quốc gia thành viên khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (Australia, New Zealand, Papua New Guinea, Trung Quốc, Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Hongkong, Canada, Hoa Kỳ, Mexico, Peru, Chili, Nga và 7 quốc gia Đông Nam Á: Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam), tập trung 41% dân số thế giới (2,6 tỉ người), với 61% tổng sản lượng thế giới và 47% trao đổi quốc tế.
Mâu thuẫn giữa Mỹ-Nga-Nhật-Trung trong hội nghị
Bên lề hội nghị APEC lần này đã xảy ra nhiều bất đồng giữa các quốc gia tham dự hội nghị.
Đầu tiền là giữa Mỹ và Nga. Ngày 22-11, tổng thống Bush đã hội đàm với tổng thống Nga Medvedev về cuộc chiến tại Georgia hồi đầu tháng 8 vừa qua. Lý do là tổng thống Bush muốn tổ chức kỷ niệm 5 năm cuộc cách mạng hoa hồng, tức cuộc chiếm chính quyền qua bầu cử tự do tại Georgia năm 2003, sự kiện không làm tổng thống Medvedev của Nga hài lòng và trả đũa bằng những thăm viếng những quốc gia chống Hoa Kỳ tại Trung Mỹ như Venezuala và Cuba. Phía Mỹ cho biết trong cuộc hội đàm cấp cao hai nước lần này, tổng thống Bush cho biết "giữa chúng tôi có sự bất đồng ý kiến, ý kiến không trùng hợp nhưng cả hai phía đều nổ lực tạo một quan hệ tốt từ tận đáy lòng". Tổng thống Medvedev cũng lập lại y hệt "dù có sự khác biệt lớn, chúng tôi cũng nổ lực làm tốt hơn và đã làm tốt hơn".
Thứ hai là giữa Nhật Bản và Nga. Trong cuộc hội đàm giữa tổng thống Nga Medvedev và thủ tướng Nhật Aso, hai bên chỉ trích sự chậm trễ trong việc giao trả hai hòn đảo nhỏ phía Bắc nước Nhật trong quần đảo Sakhaline do Nga chiếm giữ năm 1945. Thủ tướng Putin của Nga dự định sẽ chính thức viếng thăm Nhật để xúc tiến việc trao trả này. Lý do là Nga rất cần vốn đầu tư và kỹ thuật của Nhật trong việc khai thác các nguồn tài nguyên vùng đông Siberia và Sakhaline sau khi tài nguyên vùng tây Siberia bị khô kiệt và xuống giá.
Thứ ba là giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Giữa hai nước có nhiều mâu thuẫn lớn về chủ quyền trên những hòn đảo ngoài khơi biển Vàng, sự tăng cường bất bình thường khả năng quân sự của Trung Quốc và tiến trình hóa giải kho vũ khí nguyên tử của Bắc Triều Tiên. Cuộc gặp gỡ tuy ngắn ngũi (20 phút) giữa chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và thủ tướng Nhật Taro Aso nhưng cũng đã làm dịu êm những mâu thuẫn giữa hai nước về những vấn đề vừa nêu trên. Tóm tắt nội dung cuộc gặp gỡ này, thủ tướng Nhật Taro Aso nói: "tình bằng hữu chỉ là phương tiện chứ không phải mục đích ; mục đích là lợi ích chung của cả hai phía Nhật Trung". Chủ tịch Hồ Cẩm Đào chỉ có thể gật đầu vì, tuy không nói ra, nền kinh tế của Trung Quốc đang suy sụp trầm trọng, nguồn vốn khổng lồ và kỹ thuật cao cấp của Nhật sẽ là những chiếc phao cấp cứu con tàu Trung Quốc đang chìm giữa biển khơi suy thoái. Cũng nên biết Nhật vừa cho Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế vay 100 tỉ USD để tài trợ những quốc gia đang phát triển bị lâm nguy. Trung Quốc dự định sẽ bỏ ra 586 tỉ USD tài trợ các thị trường nội địa nhưng chưa biết bằng cách nào.
ASEAN+3 : có thể bị dời lại
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 lần thứ 14 dự định sẽ tổ chức trong 5 ngày, từ 14 đến 18-12-2008 tại Cheng Mai, một thành phố du lịch phía bắc Thái Lan, có thể sẽ bị dời lại. Lý do là những người đối lập đã tràn vào hai phi trường quốc tế Suvarnabhumi và Don Muang và ngăn cản các chuyến bay quốc tế trong nhiều ngày từ 26-11 đến 2-12-2008, dẫn đến sự từ chức của thủ tướng Somchai Wongsawat hồi đầu tháng 12 vừa qua.
Theo dự trù hội nghị thượng đỉnh 10 quốc gia ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn lần này sẽ bàn về những biện pháp đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái thế giới.
Từ khi cuộc khủng hoảng này bắt đầu xuất hiện tại Anh năm 2007 và sau đó tại Hoa Kỳ và châu Âu trong suốt năm 2008, cả thế giới thắc mắc tại sao châu Á lại bình lặng trước cơn bão tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Đến nay thì mọi việc đã rõ ràng, châu Á cũng như cả thế giới không có phép mầu nào để chống đỡ suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính quốc tế này. Những hậu quả xấu tại châu Á sở dĩ không được nhắc tới vì các chính quyền châu Á không khuyến khích và để dư luận quốc tế khai thác cuộc khủng hoảng tài chính tại các quốc gia phương Tây. Đây cũng là một phản ứng rất phương Đông, cam chịu và chờ sóng gió qua đi.
Chỉ mới gần đây, vào cuối tháng 11-2008, Bắc Kinh tuyên bố sẽ bỏ ra 590 tỉ USD để cứu nguy nền kinh tế của Trung Quốc. Nói tóm lại, tất cả các quốc gia phát triển Đông Á như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Singpore, và đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ không những đều lâm vào khó khăn mà còn khó khăn nặng. Bởi vì nguồn lợi tức thu được, trừ Nhật Bản và Đài Loan, phần lớn do xuất khẩu sang các quốc gia phương Tây, nay các thị trường phương Tây hạn chế việc nhập khẩu hàng hóa từ các quốc gia đang vươn lên, nguồn lợi tức này bị cắt đứt.
Vấn đề của các quốc gia đang phát triển tại Đông Á và Đông Nam Á này là đã không dự trù trường hợp bị khủng hoảng, nguồn ngoại tệ dự trữ vốn, trừ Nhật Bản và Đài Loan, đã không nhiều lại còn được dùng để mua công khố phiếu của Hoa Kỳ kiếm lời, hoặc dùng cho những mục tiêu cá nhân (tham nhũng) nên hoàn toàn trắng túi khi lâm sự. Nhưng thay vì rên la như các quốc gia phương Tây (Ireland, Tiệp, Ukraine, v.v.), các quốc gia Đông Nam Á đã lặng lẽ kêu gọi sự giúp đỡ của các định chế tài chính quốc tế và sự rộng lượng của các quốc gia Đông Á giàu có. Tất cả mọi tì hiềm vể lãnh thổ hay quyền lợi kinh tế đều được gác lại trong cố gắng tương trợ và hồi phục sau cơn khủng hoảng.
Sau khi tình hình chính trị tại Thái Lan ổn định trở lại, chắc chắn chính quyền mới sẽ mau chóng tổ chức hội nghị thượng đỉnh ASEAN này vì Thái Lan là quốc gia ở trong tình trạng khó khăn nhất so với các quốc gia khác trong vùng vì lợi tức chính của Thái Lan là xuất khẩu xe gắn máy, các sản phẩm điện khí và dịch vụ du lịch.
Rất tiếc hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 lần này bị cuộc khủng hoảng chính trị tại Thái Lan che khuất tầm quan trọng. Chương trình nghị sự chính là xây dựng một hiến chương kiểu Châu Âu để thành lập một liên hiệp các quốc gia Đông Nam Á về chính trị. Cũng nên biết trong tháng 4-2008 vừa qua Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên thành lập chức vụ đại sứ tại ASEAN, tiếp đến là Nhật Bản, Úc, New Zealand, Trung Quốc, Nam Hàn, Ấn Độ cũng thành lập các chức vụ đại sứ ASEAN.
Nguyễn Minh
(Tokyo)
No comments:
Post a Comment