4.02.2015
(tiếp
theo PHẦN 1)
LỮ
QUỲNH: Đã có người đặt câu hỏi là, liệu
những tác giả ở trong cuộc chiến (1963-1975), tác phẩm của họ đã đủ tầm để hiện
diện bên cạnh những tác phẩm của các tác giả trước họ một thế hệ? (Sở dĩ có câu
hỏi này, vì trong sinh hoạt văn học nghệ thuật thời gian qua, họ không được nhắc
đến).
Tôi nghĩ chúng ta, nhất
là những nhà phê bình (mà hầu như thời gian qua vắng bóng) nên tìm hiểu để thấy
giá trị đích thực, một cách công tâm và công bằng cho một thời kỳ văn học máu lửa
của dân tộc.
-Luân
Hoán:
Tôi khó có nhận định theo gợi ý của anh Lữ Quỳnh, mà không nói về một chút cái
tôi: Nhờ sự rủi ro mất một bàn chân ngoài mặt trận, tôi được một vài nhắc nhở
an ủi trước cũng như sau 1975, bởi quý tác giả Cao Thế Dung (Văn Học Hiện Đại),
Võ Phiến (Văn Học Miền Nam – thơ).
Với
cá nhân, các nhà biên khảo đã bỏ lơ có thể vì thi tài của tôi còn yếu kém, chưa
đủ phản ảnh một nét gì cụ thể, một phần khác họ thiếu tài liệu cụ thể. Hai lý
do thật chính đáng.
Tuy
nhiên với các tác giả đồng thời khác, bị bỏ lơ, chính là sự thiếu sót rất đáng
tiếc của giới biên khảo, nghiên cứu về văn học nghệ thuật. Trong nhận định hạn
hẹp, không dẫn chứng, tôi tin tưởng lớp tác giả của giai đoạn 63-75 của anh Lữ
Quỳnh nêu, rất xứng và cần thiết được đặt cạnh cùng các tác giả ở giai đoạn trước.
Có như vậy mới trọn vẹn một giai đoạn văn học nghệ thuật của miền Nam. Điều cần
là tìm lại tài liệu cũ để phổ biến. Những người viết mới không đề cập gì, cũng
như không tỏ ra ảnh hưởng gì bởi tác phẩm của giai đoạn cũ, nhưng không có
nghĩa họ không tìm đọc, không có rút tỉa gì ở những cái đã qua thời.
-Trần
Văn Nam: Nhà
văn Lữ Quỳnh đặt vấn đề tại sao các tác giả văn thơ trong thời chiến ít được nhắc
đến, có phải vì văn thơ của họ chưa đủ tầm cỡ? Với bài “Các Thời Kỳ Văn học Miền
Nam Từ 1963 Đến 1975”(Trong cuốn sách “Trong Dòng Cảm Thức Văn Học Miền Nam” của
Trần Văn Nam, xuất bản năm 2006 tại Hoa Kỳ), tôi cũng có thắc mắc này. Kiểm điểm
thì chỉ biết Văn Học Miền Nam thường nhắc đến các tác phẩm như “Chiến Tranh Việt
Nam Và Tôi” của Nguyễn Bắc Sơn, “Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp” của
Thảo Trường. Phải chăng còn nhiều tác phẩm ưu tư chiến tranh, cũng có tính phản
chiến, mà chỉ lấp ló vì mang những nhan đề “không nhạy cảm” bằng các nhan đề
sách kể trên. Chỉ những bài thơ khi được phổ nhạc thì mới phổ biến sâu rộng như
“Kỷ Vật Cho Em” của Linh Phương (Phạm Duy phổ nhạc); hoặc như “Chiều Trên Phá
Tam Giang” của Tô Thùy Yên (Trần Thiện Thanh phổ nhạc)… Nay ta được biết số lượng
văn thơ viết liên hệ đến chiến tranh đã có thật nhiều trong các tạp chí Văn,
Bách Khoa. Nhất là ở tuần báo Khởi Hành nhờ được quy-chế không cần đem bài đi
kiểm duyệt, do vậy chất chứa nhiều nét hiện thực trong cuộc chiến mà không bị đục
bỏ như khi gửi đăng ở các báo khác
-Nguyệt
Mai:
Những người viết "trẻ" của thời (1963-1975) hiện nay đa số tuổi đời
đã trên dưới 70. Có thể kể đến:
Về
thơ: Nguyễn Nho Nhượn, Phan Nhự Thức, Luân Hoán, Hoàng Lộc, Vũ Hữu Định, Linh
Phương, Nguyễn Bắc Sơn, Đynh Hoàng Sa, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Tất Nhiên…
Về
văn: Nguyễn Mộng Giác, Y Uyên, Doãn Dân, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Thanh Trịnh,
Trần Hoài Thư, Nguyễn Lệ Uyên, Lữ Quỳnh,….
Tôi
nghĩ rằng họ rất xứng đáng đứng bên cạnh những tác giả trước họ một thế hệ. Họ
đã đem đến cho văn chương một sinh khí mới. Như lời nhà văn Mai Thảo khi giới
thiệu hiện tượng những người viết trẻ trên tạp chí Văn số 197 (1-3-1972)
cho rằng họ "làm sống lại thể truyện ngắn, đem lại cho truyện ngắn hơi
thở, một kích thước và những triển vọng mới sau một thời gian bị lu mờ trước ngọn
triều tràn ngập của thơ tự do và các tác phẩm truyện dài. (…) Chúng ta không chỉ
nhìn thấy những nhà văn trẻ sống và viết. Chúng ta còn nhìn thấy họ lên đường.
Và mang theo thể truyện ngắn vào một lên đường mới" (tr. 2).
-Trần
Hoài Thư:
Tôi nghĩ mỗi nhà văn đều có một thời để sống và để viết. Thanh Tâm Tuyền chỉ có
thời Sáng Tạo để có những bài thơ tuyệt vời. Chính ông đã thú nhận là kể từ năm
1960, ông không làm một bài thơ trong vòng 10 năm, trong loạt bài mang tên Âm Bản
của tuần báo Khởi Hành số 52. Võ Phiến chỉ có những tác phẩm viết về quê nhà của
ông ở Bình Định. Tương tự, Doãn Quốc Sỹ có Dòng Sông Định Mệnh, Mai Thảo có Đêm
Giã Từ Hà Nội… Còn ai nữa. Còn Vũ Khắc Khoan với Thần Tháp Rùa. Còn Mặc Đỗ với
Siu Cô Nương…
Thời
của các vị này là thời bình, còn thời chúng tôi là thời chiến.
Chúng
tôi có ít tác phẩm vì làm sao mà về SG để mà nạp bản kiểm duyệt lo phát hành,
dù bản thảo hàng ngàn trang chất ứ trong ba-lô.
Tuy
nhiên, muốn đánh giá trung thật nhất là mở ra các tạp chí văn học thời danh,
xem thử giới nào viết nhiều nhất, đóng góp nhiều nhất?
Và
làm ơn search Google để đọc bài ông Viên Linh giải thích tại sao một tuần báo
văn học là tuần báo Khởi Hành lại bán chạy như tôm tươi. Thành phần nào là nỗ lực
chính?
Văn
học miền Nam giống như cây đa tỏa ra nhiều nhánh với rất nhiều rễ. Rễ lớn rễ nhỏ.
Rễ con rễ già. Rễ nào cũng quan trọng.
Có
điều làm sao để bảo vệ, giữ gìn cây đa?
Như
cây đa trong văn Võ Phiến. Từ ngày ông bỏ quê nhà vào Saigon lo chuyện mần ăn
cũng như sống và viết, ông đã để lại cây đa ấy cho bọn trẻ chúng tôi. Con đường
qua Phù Cát, Phù Mỹ, Phù Cũ, rồi Lại Giang, cây đa nằm trơ trọi bên kia cầu buồn
bã vì nhớ ông. Trời ơi, VC đặt súng nặng từ bên kia bờ. Chiếm lại cây đa quả
khó khăn. Hết đơn vị này đến đơn vị khác rụng. Bọn tôi phải vượt sông trong
đêm, ngậm dao găm, hờm hờm lựu đạn, nghi binh để địch khai hỏa mới biết chỗ nào
đặt súng, rồi ào vào thanh toán chốt…
Sáng
ra, cây đa chiếm lại. Tự hỏi ông Võ Phiến chắc mừng… Sau đó, đơn vị lại được
tăng phái nhổ các gốc khác, và bị thiệt hại nặng.
Ngày
xưa, đọc văn Võ Phiến, hình ảnh cây đa dưới ngòi bút của ông tuyệt vời. Nhưng đọc
chẳng rung cảm bằng lúc thấy lại nó, được ngồi dưới tàn lá, trên thân vẫn còn dấu
vết lỗ đạn chi chít. Ngồi gác súng và lấy giấy ra viết vội. Trên trời nghe tiếng
trực thăng. Mặt trời sắp đáp xuống để trao huy chương. Mặc. Cứ viết. Viết về
đêm vượt sông. Viết về cây đa tái chiếm. Viết về nỗi vui mừng khi được ngồi lại
dưới những nhánh dây chằng chịt. Nhà văn Võ Phiến chỉ kể lại kỷ niệm, hoài niệm
đẹp. Còn tôi thì khác, kể lại niềm vui:
(…)
Cây
đa. Có mặt khi nào nhỉ
Có phải nơi này là quê hương
Có phải mỗi con người trôi dạt
Cất trong tim: bóng mát thiên đường
Có phải nơi này là quê hương
Có phải mỗi con người trôi dạt
Cất trong tim: bóng mát thiên đường
Cây đa. Vươn giữa trời bi lụy
Những thổ thần hoang lạnh lư nhang
Lửa cháy Trường Lưu, đò đã chặn
Chị ra sông, ơi ới đoạn trường
Cây
đa. Ngàn rễ đâm lòng đất
Như tấm lòng người với Bồng Sơn
Đa bám làng, tôi đi bám đất
Đất và làng, thương quá quê hương…
Như tấm lòng người với Bồng Sơn
Đa bám làng, tôi đi bám đất
Đất và làng, thương quá quê hương…
Sự
khác nhau giữa một tác giả thời 1954-1975 và 1963-1975 là thế đấy. Một đằng
quay mặt với lịch sử. Một đằng bị bầm dập bởi lịch sử. Không phải chỉ chữ nghĩa
không thôi mà còn cả máu lệ hòa nhập vào chữ nghĩa nữa.
-Nguyễn
Lệ Uyên:
Anh Trần Hoài Thư chỉ mới đề cập sự khác nhau về những hoài niệm và thực tế giữa
hai thế hệ, giữa thời bình và thời chiến. Tôi nghĩ, sự khác nhau không chỉ dành
riêng cho một phía, ở một cái lõi của cuộc sống mà hơn thế, một bên bị ném vãi
ra ngoài đời trầy trụa, bầm dập và một bên thì nhìn sự vật bên ngoài bằng những
rung cảm trong khung cửa kính an toàn, có thể là có thật, nhưng mức độ không
sâu bằng.
Ví
dụ, trong truyện ngắn Hai đứa trẻ một cây cầu của nhà văn Nguyễn Mạnh
Côn, cũng viết về chiến tranh đấy, cũng có nỗi sợ hãi, cũng bom đạn vãi ra như
trấu ở hai bên đầu cầu, ở đó có hai đứa trẻ con ở hai phía lằn đạn, và gánh lấy
thảm họa do cha ông chúng gieo xuống. Đọc xong ta cũng cảm động, cũng thấy xót
xa. Nhưng cũng viết về chiến tranh, dưới cái nhìn khác, cũng trong thời chiến
63-75, dù không trực tiếp tham gia, chỉ đứng bên lề nhưng hai truyện ngắn Bão
Khô và Tiếng hát của người gác cầu của Y Uyên thì mức độ nặng hơn
nhiều về mọi mặt của ý nghĩa, của sự chuyển tải, những dằn vặt, xót xa, đau đớn
trong cái tầm thường nhất, chứ không cần phải gào thét, phẫn nộ, cũng không lên
án do bên nào gây ra, không có một tiếng súng nổ. Y Uyên chỉ phơi bày mặt trái
của chiến tranh, như một con cá ươn thối được xào nấu, bày ra trên đĩa. Sự khác
nhau này phải chăng là do hoàn cảnh xã hội nó thế, nó đẩy lớp trẻ tới chỗ tận
cùng của ranh giới bi thương? Và còn đó những tác phẩm của Phan Nhật Nam, Thảo
Trường, Trang Châu, Ngô Thế Vinh…
Những
tác giả thời chiến này, anh Lữ Quỳnh luôn ray rứt rằng “tại sao họ ít được nhắc
tới” và như vậy chỉ có những Mai Thảo, Mặc Đỗ, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sĩ Tế,
Nguyên Sa… là xứng đáng đại diện tiêu biểu cho văn học miền Nam? Tôi nghĩ họ,
những nhà văn trẻ mang chiến tranh từ chiến trường vào trang giấy là họ đã làm
tròn thiên chức của người cầm bút rồi. Đâu cần các nhà phê bình biên khảo để mắt.
Tôi nhớ lán mán Viên Linh viết ở đâu đó một câu nhận xét về Y Uyên mà cho tới
giờ tôi thấy chính xác, mặc dù ông ít khen ai bao giờ: “Y Uyên là nhà văn viết
về chiến tranh hay nhất mà tôi đã từng đọc”.
Anh
Lữ Quỳnh băn khoăn: “… chúng ta, nhất là những nhà phê bình (mà hầu như thời
gian qua vắng bóng) nên tìm hiểu để thấy giá trị đích thực, một cách công tâm
và công bằng cho một thời kỳ văn học máu lửa của dân tộc”. Đúng là các nhà
phê bình hình như ít quan tâm đến thời kỳ máu lửa này thật. Tại sao? Tôi
nghĩ, dấu mốc 30/4 là thảm họa cho cả dân tộc. Các nhà văn trẻ trong thời kỳ
này bị cái biến cố kia “đè bẹp”: Tù đày, vượt biển, kinh tế mới. Những người
may mắn thoát được thì phải thích nghi với xã hội mới, những người ở lại phải
tìm đủ trăm phương nghìn kế mưu sinh. Phe “thắng cuộc” thì luôn tìm cách truy bức
dẫn tới hầu hết các nhà văn miền Nam “bị mắc kẹt” phải xếp xó giấy bút, nhường
chỗ cho cái bao tử của biết bao con người trong gia đình. Dòng văn học đang rực
sáng bỗng dưng tắt phụt, đột ngột, không đủ thời gian để công bố các tác phẩm của
họ. Nhưng tôi nghĩ, những gì họ để lại là rất đáng trân trọng, góp phần làm
sáng lóa, rực rỡ dòng văn học 63-75.
Thêm
một chi tiết, khi viết 2 tập Trang sách và những giấc mơ bay, có vài người
hỏi tại sao không thấy nhắc đến các nhà văn nữ, sao không viết về những Nguyễn
Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam… trong đó? Vâng,
sách báo viết đầy nhẫy cả ra rồi, các nhà phê bình văn học đã nói nhiều rồi;
tôi thọc bút thêm vào có được tích sự gì với độc giả? Tôi chọn những Nguyễn Bắc
Sơn, Linh Phương, Lâm Hảo Dũng, Đỗ Hồng Ngọc, Trần Hoài Thư, Luân Hoán… bởi họ
cùng thế hệ với tôi, bị lịch sử ném vào bãi rác! Tôi chia sẻ cùng các tác phẩm
của họ, có thể nó (tác phẩm) chưa có chỗ trong các tập biên khảo, phê bình văn
học, nhưng những dòng chữ của họ thì lồng lộng khói trời chinh chiến. Họ xứng
đáng được tôn vinh, trân trọng… Tôi trân trọng ngay cả những người chưa tên tuổi,
như bài thơ của một người lính biệt kích vô danh nào đó, có tựa “Gửi em… cô gái
Bình Long”, tôi đọc đâu đó, có chất giọng hào sảng, kinh khoái đến vô cùng: “Nhớ
theo Hổ Xám vào An Lộc/Đội pháo trên đầu như đội mưa/Múa kiếm đứng ngăn thù cửa
Bắc/Mà tưởng mình là Nguyễn Huệ xưa./Trong tiếng đạn reo mù khói trận/Bỗng gặp
em, cô giáo như mơ/Em ngồi rũ tóc trong hầm tối/Đọc tiếng kinh cầu, như đọc
thơ”… Có nhà phê bình văn học nào đi sao lục những bài thơ của những người
lính vô danh này để đưa vào các tập biên khảo của họ chưa? Chắc chắn rằng chưa.
Nhưng tôi tin bài thơ sẽ sống mãi: Đọc tiếng kinh cầu, như đọc thơ !?
-Luân
Hoán:
Trong một lần điện đàm cùng nhà biên khảo Nguyễn Văn Lục, em giáo sư Nguyễn Văn
Trung, anh Lục có than nhiều người nghiên cứu về Văn Học Miền Nam đã bỏ sót đoạn
cuối của chiều dài giai đoạn sinh hoạt này. Tôi đồng tình cùng anh Lục, vì đã
nhận ra điều này từ lâu, vốn không chuyên phát biểu và cũng chẳng có cơ hội để
vu vơ đôi lời bày tỏ. Nhưng điều chính là tôi thật sự không muốn nhắc đến sự bỏ
sót trên, bởi giản dị, tôi có mặt ít nhiều trong giai đoạn đó. Nêu lên có vẻ
như muốn nhắc khéo đến mình, không được tốt mấy.
Theo
tôi, sự thiếu sót này có thể từ nguồn tài liệu thiếu sót bởi dòng văn học có thể
gọi là “dấn thân” của miền Nam trước 1975 vốn khá rời rạc, khoanh vùng, chưa tạo
được vóc dáng phương phi cần có, dù nó hiện hữu thật. Một lý do khác, người nhắc
lại chuyện xưa hình như thật tình muốn lơ, không nhắc đến. Đây có lẽ là trường
hợp của những tay viết còn tại nội, ngại ngùng và có chút thiếu lòng. Lê Vĩnh
Thọ, được kể là một nhà thơ rất nhân bản, đóng góp rất nhiều cho dòng văn học
này, anh vẫn đang tồn tại, nhưng gần như tôi chưa thấy ai nhắc đến bao giờ. Thật
sự những người viết trong nước nhiều khi chỉ cần nhắc đến một cái tên của một
người của 1975 đã bị gạch rồi, như trường hợp Hoàng Lộc và tôi. Chúng ta vẫn
còn rất nặng nề trong chia cách, đố kỵ. Cái lòng văn học nghệ thuật vẫn chỉ
nông nông vậy thôi. Sau 75, cũng có vài công trình cho giai đoạn trước 75, tại
miền Nam, nhưng vẫn chưa thoát ra nổi cái vòng khoanh địa lý trong văn hóa nghệ
thuật.
-Phạm
Văn Nhàn:
Theo tôi nhận xét, tôi đồng thuận với câu hỏi của nhà văn Lữ Quỳnh; vì nhận thấy
trong sinh hoạt văn học hôm nay, nhất là ở hải ngoại. Nhiều nhà diễn giả trong
những buổi hội thảo hôm nay, họ ít nói đến hay phủ nhận tính sáng tác của những
người lính vừa cầm súng vừa sáng tác ở ngoài mặt trận. Tại sao vậy? Có lẽ, theo
tôi, vì họ ít có tác phẩm chăng? Có cần thiết như thế không. Mà họ thường chỉ đề
cao đến những nhà văn, nhà thơ từ 1954-1963 cũng là những quân nhân, nhưng họ
có điều kiện hơn là ở thành phố yên ổn để ngồi viết. Họ có điều kiện hơn khi tiếp
xúc với nhà xuất bản, báo chí. Tôi không muốn nêu tên. Nhưng chắc là các bạn đều
biết tôi muốn nói đến ai.
Còn
những người lính cầm bút ở ngoài mặt trận thì sao? Ta hãy nghe nhà văn Hoàng Ngọc
Hiển, một người lính đóng ở An Lộc, có nhiều truyện ngắn đi trên Khởi Hành, Văn
đã viết trên TQBT số 62: "thú thật, lúc đó, tôi lo sống trước đã, lo
làm tròn trách nhiệm một người lính chiến trước đã…" Còn Trần Hoài Thư
thì sao? Tôi biết: anh viết bất cứ lúc nào, khi chờ trực thăng bốc quân, viết ở
tiền đồn, viết ở quán cà phê nếu có dịp về phố, viết trong quân y viện khi bị
thương… và, còn nhiều người lính viết văn nữa. Vì từ năm 1963 chiến tranh ở miền
Nam như một cơn lốc xoáy cuốn hầu hết tất cả anh em chúng tôi vào quân trường rồi
ra chiến trường thì làm sao họ có nhiều tác phẩm như những ông nhà văn lính ở hậu
phương yên ổn mà ngồi viết?
Và,
buồn thay, những tác phẩm của họ hình như ít ai nói đến. Ví dụ như Nguyễn Bắc
Sơn (Chiến Tranh Việt Nam và Tôi). Ví dụ như Linh Phương (Kỷ Vật Cho Em) và còn
nhiều người lính viết văn khác nữa. Họ là những người trực tiếp ngoài mặt trận,
chưa có một giây phút yên ổn, cận kề với cái chết thế mà họ vẫn viết. Viết lên
thân phận của chính họ. Viết lên nỗi thống khổ của người dân. Viết lên nỗi dằn
vặt của chính họ, của những người dân bị ảnh hưởng giữa hai ý thức hệ cộng sản
quốc gia trong những vùng xôi đậu. Và, họ mơ đến… hòa bình.
Cho
nên cũng vì mơ đến hòa bình, có người gọi họ là những nhà văn, nhà thơ phản chiến!
Không. Tôi khẳng định như vậy. Họ vẫn viết và vẫn làm nhiệm vụ, như nhà văn
Hoàng Ngọc Hiển đã viết: lo làm tròn trách nhiệm một người lính chiến trước
đã.
Phải
nói những tác phẩm của họ từ 1963 -1975 đã xuất hiện nhiều trên những tạp chí một
thời lừng danh ở Sài Gòn. Thế mà, hôm nay, những cây viết trẻ ấy gần như không
ai nhắc đến qua những lần hội thảo văn học. Họ chỉ nhắc đến những cây viết cổ
thụ có điều kiện ở Sài Gòn. Cho nên, để góp ý một phần nhỏ thôi trong chủ đề
người lính viết văn đã góp mặt làm nên một nền văn học đích thực của miền Nam
trong 20 năm. Trả lại cho họ với những tác phẩm (dù ít) nhưng đã góp phần tạo
nên một nền văn học đích thực của một miền Nam. Mà trong luồng văn học này, nhà
văn Trần Hoài Thư còn nói đến "tính nhân bản" trong từng tác phẩm. Họ
viết nhưng lòng họ không hận thù, không khát máu. Họ viết với tấm lòng nhân hậu
của một người lính cầm súng ngoài mặt trận.
Tôi
xin góp mặt trong hai câu hỏi của Lữ Quỳnh và Trần Hoài Thư. Hãy trả lại cho những
người lính viết văn trong thời chiến cái giá trị đích thực của họ trong thời
khói lửa chiến tranh.
-Trần
Doãn Nho:
Riêng cá nhân tôi, trong bài thuyết trình tại tòa soạn nhật báo Người Việt, tôi
đã đề cập đến khá nhiều những người lính viết văn. Tôi trích văn của Trần Hoài
Thư, Lê Văn Thiện, Y Uyên, Trần Dzạ Lữ, Trang Châu, Thảo Trường. Và nhắc đến
(nhưng không thể trích dẫn, vì giới hạn của một bài viết) những người lính Lê
Bá Lăng, Lữ Quỳnh, Kinh Dương Vương, Luân Hoán, Phan Nhật Nam, Hồ Minh Dũng,
Lương Thái Sỹ, Phạm Ngọc Lư, Nguyễn Chí Kham, Nguyễn Nho Sa Mạc, Mang Viên
Long, Vương Thanh…
-Trần
Hoài Thư:
Anh Lữ Quỳnh cho rằng “Tại sao những tác giả thời chiến không được nhắc đến, có
phải vì tác phẩm của họ chưa đủ tầm cỡ để có mặt trong dòng văn học Miền Nam
54-75? Như đã có một số ý kiến. Tôi thấy câu hỏi của Nguyễn Vy Khanh rất hay,
nhưng ít người trả lời vào vấn đề”. Câu hỏi tôi nêu ra cũng thế.
-Thật
sự tôi không bận tâm về cuộc thảo luận tại California. Nếu mà kể thì có biết
bao nhiêu sự thiếu sót không được đề cập như: mảng dịch, mảng biên khảo, mảng
triết học, mảng kaki…
Những
câu hỏi và trả lời ở Bàn Tròn qua Email này, chứng tỏ là các anh ít bận tâm đến
chuyện California…
Việc
không chú ý này có những lý do. Thứ nhất là chúng ta đã có rồi. Nó đến từ độc
giả chớ không phải nhà nhận định hay phê bình. Nó đến từ một sự hãnh diện: cho
hơn là nhận. Không cần đền đáp.
Tôi
đưa ra ý nghĩ này qua ý Cây đa của Võ Phiến ở trong một câu hỏi: Tại sao chúng
ta không tự thả hỏa châu trong cõi tối đen của văn học miền Nam sau 1975 mà lại
nhờ người khác?
*
TRẦN
DOÃN NHO: Trong tạp chí Văn hồi đó, anh Trần
Phong Giao đặt tên cho một số anh em là "Những cây bút trẻ" như Mường
Mán, Trần Hoài Thư, Yên My, Lê Văn Thiện, Hồ Minh Dũng, Lê Bá Lăng, Nguyễn Lệ
Uyên, Lương Thái Sỹ, Kinh Dương Vương, Thành Tôn, Trần Dzạ Lữ, Trần Doãn Nho,
Cao Thoại Châu… Thỉnh thoảng, Văn cho ra một số đặc biệt về những cây bút trẻ.
Thực ra, không chỉ ở Văn, mà ở Bách Khoa, Khởi Hành hay Vấn Đề… cũng có những
cây bút trẻ.
Thế nào là "Những
cây bút trẻ"? Theo tôi, những cây bút trẻ là những cây bút xuất hiện từ thập
niên 1964-1974, lứa sau Sáng Tạo và sau những cây bút thành danh khác trên Văn
Đàn như Viên Linh, Nguyễn Xuân Hoàng, tuổi đời cỡ từ 25 đến ngoài 30 tính đến
tháng 4/1975.
Câu hỏi của tôi là:
Những cây bút trẻ này đóng góp như thế nào trong 20 năm VHMN? (Có thể chi tiết
hơn: diện mạo, thành phần, tác phẩm, khuynh hướng hay văn phong…) Có thể mở rộng
ra; Thơ tình lớp trẻ, thơ, văn chiến tranh…
-Trần
Hoài Thư:
Sáng Tạo bị bức tử vào năm 1961, mặc dù tạp chí hô hào đổi mới văn hóa, đòi
thanh toán với quá khứ, cố gắng mang ý thức chống Cộng vào văn chương, nhưng phải
đầu hàng vì chế độ miền Nam bấy giờ là chế độ bảo thủ của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm, đến nỗi Mai Thảo phải gọi những kẻ chống đối ST là “bọn bảo thủ phản tiến
hóa”. ST đã không tạo nên một ảnh hưởng nào, trừ tạo nên cái cớ mà miền Bắc
dùng nó tấn công miền Nam về mặt trận văn hóa. Đó là chính sách thực dân kiểu mới,
là âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ, là văn chương nô dịch, bởi vì ST có liên hệ
đến Phòng thông tin Hoa Kỳ…
Nhìn vào những người có bài đóng góp cho ST về bộ môn thơ có tất cả 34 người. 34 người trong 5 năm!
Trong khi đó, từ năm 1964 đến năm 1974 con số ấy khủng khiếp. Riêng chỉ bộ thơ miền Nam trong thời chiến, chúng tôi sưu tập con số đã lên tới 200. Đó là chưa kể biết bao nhà thơ thiếu sót, vì sưu tập không hết, vì đăng trên nhật báo, tuần báo… 200 tác giả có bài đăng trên những tạp chí thời danh đã nói lên một trận bão đánh đổ cái nền văn học tháp ngà. Văn số 8 là bia mộ cáo chung loại văn chương hoang tưởng, dài lê thê, một bài thơ ba bốn trang giấy Sáng Tạo, với chủ đề “Thơ Văn Có Lửa”. Dương Nghiễm Mậu là nhà văn duy nhất từ Sáng Tạo còn viết, và viết dữ dội hơn bao giờ. Lý do ông là phóng viên chiến trường. Ông đi và viết. Thanh Tâm Tuyền thì bế tắc, và thú nhận sự bế tắc này qua bài Âm Bản đăng trên Khởi Hành số 52. Mặc Đỗ bị chống đối dữ dội bởi giới trẻ nhập cuộc khi ông làm phán quan qua bài “Mặc Cảm Ka Ki” được đăng trên Khởi Hành. Nguyên Sa thú nhận là mình có lỗi, và những bài thơ tình nổi tiếng của ông không xứng đáng sau khi ông bị động viên khoác bộ đồng phục.
Nhìn vào những người có bài đóng góp cho ST về bộ môn thơ có tất cả 34 người. 34 người trong 5 năm!
Trong khi đó, từ năm 1964 đến năm 1974 con số ấy khủng khiếp. Riêng chỉ bộ thơ miền Nam trong thời chiến, chúng tôi sưu tập con số đã lên tới 200. Đó là chưa kể biết bao nhà thơ thiếu sót, vì sưu tập không hết, vì đăng trên nhật báo, tuần báo… 200 tác giả có bài đăng trên những tạp chí thời danh đã nói lên một trận bão đánh đổ cái nền văn học tháp ngà. Văn số 8 là bia mộ cáo chung loại văn chương hoang tưởng, dài lê thê, một bài thơ ba bốn trang giấy Sáng Tạo, với chủ đề “Thơ Văn Có Lửa”. Dương Nghiễm Mậu là nhà văn duy nhất từ Sáng Tạo còn viết, và viết dữ dội hơn bao giờ. Lý do ông là phóng viên chiến trường. Ông đi và viết. Thanh Tâm Tuyền thì bế tắc, và thú nhận sự bế tắc này qua bài Âm Bản đăng trên Khởi Hành số 52. Mặc Đỗ bị chống đối dữ dội bởi giới trẻ nhập cuộc khi ông làm phán quan qua bài “Mặc Cảm Ka Ki” được đăng trên Khởi Hành. Nguyên Sa thú nhận là mình có lỗi, và những bài thơ tình nổi tiếng của ông không xứng đáng sau khi ông bị động viên khoác bộ đồng phục.
Văn
chương thành thị bắt đầu di tản về các tiền dồn, các thị trấn heo hút, các núi
rừng, đầm lầy, các sông biển kênh rạch. Hoài Lữ – Lữ Đắc Quảng, nhà thơ trẻ có
thi tập Mắt Cỏ được báo Mai giới thiệu nồng nhiệt qua hai trang báo khổ lớn, có
lẽ là nhà thơ trẻ đầu tiên tử trận vào năm 1964 tại đồn Bình Chánh ở Gia Định.
Nhưng tiếng nổ, và tiếng kêu, tiếng gào ở ngoài vòng đai Saigon chắc gì có ai
nghe. Không, vẫn có người nghe. Đó là các ông Lê Ngộ Châu, Trần Phong Giao, Mai
Thảo, Viên Linh. Họ nghe, và họ trân trọng. Họ gọi chúng tôi là những người viết
trẻ, những cây bút trẻ. Họ không gọi chúng tôi là nhà văn. Bởi nhà văn là
người viết chuyên nghiệp. Là một nghề như mọi nghề. Còn người viết thì khác. Một
tay cầm súng và một tay cầm viết. Vừa đánh giặc vừa viết.
Vâng,
thời ấy chúng tôi viết rất nhiều. Bởi vì văn chương chữ nghĩa như là niềm cứu rỗi.
Không
viết thì chúng tôi sống bằng gì bây giờ?
Bởi
viết là một nhu cầu. Ngay cả bất cứ người lính bình thường, cũng tìm niềm vui
qua giấy và viết. Viết để mang nỗi nhớ nhung về người thân, và để vỗ về an ủi
người yêu, người mẹ xa cách. Viết để dặn dò. Ngay cả người lính không biết chữ
cũng nhờ “ông thầy” viết giùm để mai có trực thăng đến và mang về hậu cứ để nơi
đây chuyển giùm.
Viết
trên đường giải vây An Lộc. Hình chụp người lính biệt kích dù đang viết
nhật ký hành quân khi dừng quân tại Suối Rô cách An Lộc 4 cây số. Nguồn:
Internet
Và
suốt cả 13 năm, những bài văn/bài thơ viết trong hoàn cảnh, và điều kiện như thế
đã tràn ngập trên các tạp chí như Văn, Khởi Hành, Ý Thức, Thời Tập, Bách Khoa,
Vấn Đề, Văn Học, Trình Bầy v.v… Thử lật bất cứ một tạp chí nào cũng thấy bút hiệu
của chúng tôi. Chúng tôi không có nhóm. Chúng tôi không đầu quân vào một ban chủ
trương. Chúng tôi chỉ biết viết. Và Viết. Sống để viết.
Rõ
ràng chúng tôi đã mang văn học chiến tranh về SG. Chúng tôi đã bồi dựng nó,
giúp các tờ báo ấy được thêm độc giả, sống vững, sống mạnh.
Một
ví dụ là tuần báo Khởi Hành. Đây là một tuần báo văn học duy nhất của miền Nam,
có số lượng phát hành khủng khiếp. Có khi lên đến 10 ngàn số. Mà hầu hết người
viết cũng như người đọc là quân nhân.
Có
khi bài chưa lên khuôn, hay bài chưa kịp thấy, thì tác giả tử trận. Đó là trường
hợp nhà văn Doãn Dân. Mơ ước của anh là thấy đứa con tinh thần thứ hai “Bàn tay
cho Yến” được ra đời, thì anh tử trận trước khi tác phẩm hoàn thành. Mà nếu giả
dụ anh có thấy đứa con của anh, chắc gì anh vui. Bởi nhan đề mà anh chọn là
“Bàn Tay cho Yến” đã bị đổi lại thành “Tiếng gọi thầm”(! )và cái truyện BTCY
cũng bị rút ra khỏi tác phẩm! (Xin đọc tạp chí Văn số đặc biệt về Doãn Dân, thời
nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng làm thơ ký tòa soạn)
Vâng,
ngày chiến tranh, người lính viết văn: anh luôn luôn ở về hướng mặt trời lặn.
Thường thường lúc mặt trời lặn là lúc đẹp nhất. Triền đồi cỏ tranh một màu vàng
kim, và cuối trời hực lên một màu đỏ lửa. Chỉ một thời gian ngắn ngủi, để rồi
bóng đêm lại chụp xuống, và anh lại bắt đầu bằng những bất trắc mới, để thần
kinh anh như điên khùng, vì trăm ngàn quả pháo, hay tiếng nổ của bom yểm trợ,
hay những biển người cuồng điên ngoài kia phòng tuyến…
Và
vì mặt trời lặn, nên người thường tình không thấy, không nhận ra. Dĩ nhiên.
-Nguyễn
Lệ Uyên:
Anh Trần Doãn Nho đặt vấn đề tưởng như đơn giản, nhưng hóa ra quá rộng khi anh
mở thêm ngoặc đơn: “Những cây bút trẻ này đóng góp như thế nào trong
20 năm VHMN? (Có thể chi tiết hơn: diện mạo, thành phần, tác phẩm, khuynh hướng
hay văn phong…). Có thể mở rộng ra; Thơ tình lớp trẻ, thơ, văn chiến tranh…”.
Hy vọng, trong một dịp khác chúng ta sẽ có thì giờ để bàn rộng về diện mạo,
thành phần, tác phẩm, khuynh hướng… hay thơ tình, văn thơ chiến tranh. Còn vắn
tắt, thì gói gọn một câu: Những nhà văn trẻ miền Nam dầm mình trong cuộc chiến
tương tàn, đã đóng góp cho dòng văn học miền Nam, một gia tài đồ sộ mà chưa có
ai khai thác. Trước đây, Cao Huy Khanh, trên bãi tập bắn ở quân trường Thủ Đức,
có tâm sự với tôi rằng: Sau loạt bài Sơ thảo văn học Việt Nam, khi chiến tranh
chấm dứt moa sẽ tiếp tục về những nhà văn trẻ trưởng thành trong bom đạn… Tuy vậy,
CHK không tiếp tục những ấp ủ, âu cũng là sự thiệt thòi lớn đối với các nhà văn
trẻ trưởng thành trong binh lửa!
-Nguyễn
Vy Khanh:
Khi nghiên cứu về văn-học miền Nam 1954-1975 có những cách nhìn và quan điểm
khác nhau và còn tùy phe nhóm khiến có những kết luận tôi thấy vội vàng và đầy
thiên kiến. Thời 1954-1975 không phải chỉ có Nguyên Sa, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền,…
những vị này thường tự xem hoặc được "xem" như đại diện cho cả nền
văn-học cả miền, ví dụ Thanh Tâm Tuyền khi lớn tiếng Tôi Không Còn Cô Độc (và
thơ tiễn Quách Thoại) là nói với nhau trong cùng nhóm, và trong cuộc
"tranh luận" về thơ tự do đã trịch thượng không trả lời những chống đối
hoặc trao đổi,…
Theo
tôi, thời đầu 1954-1960 (cố gắng thêm những năm 1968-72 với Nghệ Thuật, Vấn
Đề,…) đã là thời của họ, của những Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Hiện Đại, nhưng
từ khi cuộc chiến mới (tự vệ) chống Cộng sản lan rộng ngày càng mãnh liệt, tàn
bạo, nhiều cây viết trẻ đã xuất hiện và được độc giả đón nhận cũng như ảnh hưởng
ít nhiều đến các phong trào xã hội và chính trị ở miền Nam – Chúng tôi đã từng
ghi nhận hiện tượng này từ năm 2000 trên tập san Chủ Đề và xuất bản năm
2004, trên Thư Quán Bản Thảo [nhiều năm trước - mà tôi đang xa nhà không
xem lại được, và trong số 56] cũng như đang cập nhật và khai triển thêm trong
biên khảo về Văn-học Miền Nam.
Như vậy, "mảng" văn-học của các nhà văn thơ trẻ là có thật, đa dạng,
có giá trị và nội dung riêng biệt, đã là một phần quan trọng của văn-học miền
Nam 1954-1975: lãng mạn, tình cảm, có, mà chiến tranh, "kêu thương"
cũng có, với những văn phong đặc biệt, cá biệt,… không hề thấy ở giai đoạn trước
đó, ở những tác giả "trẻ" thời đất nước mới phân chia ở vĩ tuyến 17.
Sự "bỏ quên" này (gần như) là thật và tái xuất ở hải ngoại: "chiếc
chiếu" của một số vị được lau chùi đánh bóng verni lại khi ra ngoài nước
sau tháng Tư 1975 nay đã nát rồi mà như vẫn khư khư độc quyền với nhau, và điều
đáng tiếc là có những người trẻ mới thành danh ở hải ngoại lại chạy theo hơi hướm
của những người đã từng nổi danh một thời!
-Trần
Văn Nam: Câu
hỏi của nhà văn Trần Doãn Nho về những đóng góp như thế nào của các nhà văn được
ông Trần Phong Giao gọi là “Những Cây Bút Trẻ”. Thỉnh thoảng tạp chí Văn lại
cho ra một số đặc biệt về họ, và có lẽ thường liên hệ với chủ đề “Thơ Văn Có Lửa”.
Những người gọi là trẻ đó cũng chính là chung cho thế hệ đi vào cuộc chiến
trong giai đoạn khốc liệt với nửa triệu quân Mỹ tham chiến tại Miền Nam Việt
Nam. Văn thơ của họ ít nhiều mang nét hiện thực của chiến tranh tàn khốc mà nhà
văn Trần Hoài Thư nay đã cố gắng thu thập cho xuất hiện lại tại Hoa Kỳ trong
các bộ sách rất dầy về văn thơ thời chiến như đã nói ở đoạn trên. Đa phần văn
thơ trong đó chắc chắn mang nhiều nét hiện thực chiến tranh và xã hội lầm than
trong cuộc chiến. Một số truyện ngắn đã được sáng tác ngay lúc đi hành quân,
lúc dừng quân chuẩn bị cho ngày mai có thể đụng trận. Họ e ngại cho ngày mai đó
có thể không còn nữa trên cõi đời, nên không chừng họ đã viết cấp bách, ghi vội
cảm nghĩ, do đó có thể không sâu lắng để lựa chọn từ ngữ hay cách phô diễn nhắm
gây âm hưởng lớn như trong lời nhạc và nhạc điệu của các nhạc sĩ một thời gây
xúc động cả một thế hệ trong chiến tranh.
-Trần
Doãn Nho:
Nên chăng, TQBT dành riêng một số để chỉ thảo luận về “Những cây viết trẻ”? Trước
hết, 1. Định danh: thế nào là “những cây bút trẻ” trong VHMN? 2. Liệt kê
(trong điều kiện có thể) những nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo “trẻ”; 3. Các tạp
chí họ cộng tác; 4. Các tác phẩm đã in (nếu có); 5. Các truyện ngắn hay thơ hay
tiểu luận (nếu chưa in); 6. Các đề tài chính tìm thấy trong các tác phẩm của họ,
chẳng hạn như: chiến tranh, tình yêu, xã hội…; 7. Nói một cách tổng quát, nhưng
cây bút trẻ này KHÁC với “những cây bút không-trẻ” ở những điểm nào: về văn
phong, nội dung, đề tài…8. Họ đã đóng góp cho VHMN như thế nào? Về số lượng? Về
kỹ thuật? Về tính nhân bản?….
*
Kết
luận:
Chủ
đề cho cuộc thảo luận trên TQBT kỳ này chỉ là những vấn đề có tính gợi mở. Những
ý kiến đóng góp của các nhà văn, nhà phê bình văn học đã nêu lên nhiều vấn đề
trong dòng văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, đặc biệt là các nhà văn trẻ mà
các nhà phê bình chưa thật sự quan tâm. Những ý kiến xoay quanh đề tài này chỉ
mới đưa ra cái nhìn bao quát, chứ chưa thể đào xới sâu vào bên trong, bởi khuôn
khổ tạp chí có hạn.
Các
tác giả đóng góp ý kiến, mỗi người một hoàn cảnh, ở một thành phố, một quốc
gia… cách xa nhau hàng chục ngàn cây số, nhưng với trách nhiệm của người cầm
bút trước lịch sử văn học miền Nam đã cố gắng nêu lên những vấn đề có liên
quan, những tồn nghi, một cách khách quan phần nào giúp cho độc giả có cái nhìn
bao quát về nền văn học ở giai đoạn này
Hy
vọng, trong một ngày không xa, với điều kiện có thể, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề
theo những gợi ý của nhà văn Trần Doãn Nho.
Trân
trọng cảm ơn các anh chị đã góp công sức tham gia. (TQBT)
(Nguồn:
Thư Quán Bản Tháo, số 63, tháng 2 năm 2015)
--------------------
1
bình luận :
… có phải văn chương
không nổi trội bằng âm nhạc của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn và vài nhạc sĩ khác? (TVN)
Có
lẽ tác giả Trần Văn Nam muốn nói đến ca khúc tân nhạc. Đúng ra âm nhạc thời VNCH
không thể không kể đến cổ nhạc, cải lương phát triển rực rỡ phong phú không kém
tân nhạc.
Tôi chỉ có ý kiến trong phạm vi ca khúc, songs. Ca khúc có thể coi như gồm 3 yếu tố chính: Giai điệu melody, lời nhạc lyrics và tiết tấu rhythm.
Dĩ
nhiên âm nhạc khác văn chương. Nhưng giữa các bộ môn nghệ thuật có sự tương
quan lẫn nhau. Như chất thơ hiện diện hầu hết trong các môn khác. Và ngược lại
hình ảnh hội hoạ hay tiếng nhạc vẫn có thể nằm trong thơ ca. Có người cho rằng
tân nhạc thời VNCH thì ca khúc phổ thông – Popular hay Pop music phát triển nhiều
nhất. Sự thật đúng là như vậy.
Ca
khúc không thể không nói đến lời. Theo tôi, lời ca lyrics cũng chính là một
hình thức văn học hay văn chương. Ca khúc thời VNCH gần như là người anh em
song sinh với văn học VNCH. Nó cũng chịu chung số phận “bất hạnh” như văn học
sau ngày 30/4/75. Nếu văn học bị gán cho những từ ngữ như phản động, đồi truỵ
và theo chân đế quốc thì ca khúc cũng bị y chang như vậy: vàng, uỷ mị lai căng
và sến.
Ngoài
ra, ca khúc VNCH mà chỉ loanh quanh có PD cùng TCS thì có hạn hẹp lắm không ?
Nó cũng giống như bảo rằng văn học VNCH chỉ có Duyên Anh, Võ Phiến , Sơn Nam
Ai lên xứ hoa đào dừng
chân bên hồ nghe chiều rơi
Nghe hơi giá len vào hồn người chiều xuân mây êm trôi
Thông reo bên suối vắng lời dìu dặt như tiếng tơ
Xuân đi trong mắt biếc lòng dạt dào như ý thơ
Nghe tâm tư mơ ước mộng đào nguyên đẹp như chuyện ngày xưa
(Ai Lên Xứ Hoa Đào – Hoàng Nguyên)
Nghe hơi giá len vào hồn người chiều xuân mây êm trôi
Thông reo bên suối vắng lời dìu dặt như tiếng tơ
Xuân đi trong mắt biếc lòng dạt dào như ý thơ
Nghe tâm tư mơ ước mộng đào nguyên đẹp như chuyện ngày xưa
(Ai Lên Xứ Hoa Đào – Hoàng Nguyên)
Tôi nhớ hoài một chiều
dừng chân ghé qua thăm miền ước mơ
Hà Tiên mến yêu đẹp như xứ thơ xa cách tôi còn nhớ
Nhớ ghi muôn đời nước trời biển mơ
Xanh xanh màu ánh mắt em gái chiều năm xưa
Như vấn vương ai trên bến chiều xa vắng năm tháng còn ngẩn nhơ
(Hà Tiên Mến Yêu – Lê Dinh)
Hà Tiên mến yêu đẹp như xứ thơ xa cách tôi còn nhớ
Nhớ ghi muôn đời nước trời biển mơ
Xanh xanh màu ánh mắt em gái chiều năm xưa
Như vấn vương ai trên bến chiều xa vắng năm tháng còn ngẩn nhơ
(Hà Tiên Mến Yêu – Lê Dinh)
Riêng
cá nhân tôi, thú thật lời nhạc tân, cổ thời VNCH lại là những “văn bản” để tôi
trau giồi và yêu thêm tiếng Việt, rất tiện dụng trong hoàn cảnh sinh hoạt hiện
tại. Đang lái xe thì có thể nghe ngay năm mười bản nhạc mà mình yêu thích một
cách dễ dàng.
Xin
nghe 2 nhạc bản quen thuộc thời VNCH
https://www.youtube.com/watch?v=dtNevE12AOA
https://www.youtube.com/watch?v=s7IKjv91nK8
https://www.youtube.com/watch?v=dtNevE12AOA
https://www.youtube.com/watch?v=s7IKjv91nK8
-
04.02.2015 vào lúc 10:51 am
------------------------
TOÀN BỘ BÀI VIẾT :
HỘI THẢO
VỀ 20 NĂM VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975
*
Xem toàn bộ (Tạp
chí điện tử Da Màu)
No comments:
Post a Comment