Saturday, February 7, 2015

NHỮNG Ý KIẾN CHUNG QUANH 20 NĂM VĂN HỌC MIỀN NAM - PHẦN 1 (Thư Quán Bản Thảo)





4.02.2015

Điều hợp: Nguyễn Lệ Uyên
Tham dự: Luân Hoán, Trần Doãn Nho, Trần văn Nam, Trần Hoài Thư, Nguyễn Lệ Uyên,  Nguyễn Vy Khanh, Lữ Quỳnh, Phạm văn Nhàn, Trần thị Nguyệt Mai
.
Tạp chí TQBT số 63, dành phần lớn số trang cho chủ đề 20 NĂM VĂN HỌC MIỀN NAM, để một lần nữa, khẳng định sự đóng góp của các nhà văn nhà thơ trong giai đoạn máu lửa cùng giá trị nhân văn, tự do lẫn các khuynh hướng sáng tạo của họ trong giai đoạn đất nước lâm vào cuộc nội chiến tàn khốc nhất.

Văn học miền Nam 54-75 không hề mang tính chất độc hại của một loại sản phẩm văn hóa mà nhà cầm quyền CSVN gán cho cái nhãn nô dịch, phản động, đồi trụy. Ngược lại, nó đã làm tròn sứ mệnh của người cầm bút trước lịch sử văn học Việt Nam.

Những gì mà giới văn hóa văn nghệ miền Bắc, dưới sự chỉ huy của đảng CSVN đã và đang tiếp tục bức tử một nền văn học chói sáng ở một nửa đất nước, trong một cụm từ mang tính thóa mạ, báng bổ: “Văn học đô thị miền Nam” (?!), là điều không thể chấp nhận, đi ngược lại xu hướng phát triển đa chiều về văn hóa dân tộc của bất kỳ một quốc gia nào!

Đề cương văn hóa văn nghệ mà ông Trường Chinh chấp bút cách đây mấy chục năm chính là sự mù lòa của lãnh đạo CSVN du nhập từ một loại tư tưởng lạc hậu, rập khuôn và sắt máu gieo rắc vào đầu óc nhiều thế hệ, mang tính triệt tiêu ý thức tự do sáng tạo ở mỗi cá nhân và hơn hết biến những người cầm bút và người đọc thành một bầy cừu giữa vài con sói già xác xơ lông, thiết lập xã hội trên nền tảng một loại học thuyết mục ruỗng, lỗi thời, hoang tưởng.

Chúng tôi, những người cầm bút cùng một thế hệ, chịu nhiều thiệt thòi nhất, trong cuộc nội chiến tương tàn, đã cùng nhau nêu lên những ý kiến xoay quanh đề tài này để, một lần nữa xác quyết về tính nhân bản, tự do… trong sáng tạo, không bị bất kỳ một thế lực nào định hướng và ít nhiều đã góp phần cho dòng chảy sáng rực của  văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, và đang tiếp tục nối dài bởi các nhà văn trẻ thế hệ hậu chiến, trong lẫn ngoài nước, làm cho nền văn học dân tộc rực rỡ hơn, phong cách và tư tưởng đa chiều hơn trong mỗi tác phẩm.

Sau đây là ý kiến của các nhà văn, nhà thơ, nghiên cứu phê bình: LUÂN HOÁN, TRẦN HOÀI THƯ, NGUYỄN VY KHANH, LỮ QUỲNH, PHẠM VĂN NHÀN, TRẦN DOÃN NHO, TRẦN VĂN NAM, TRẦN THỊ NGUYỆT MAI, NGUYỄN LỆ UYÊN xoay quanh chủ đề này.  (TQBT)

*

LUÂN HOÁN: Trước hết chúng ta cần khẳng định chiều dài văn học miền Nam từ đâu đến đâu, trước khi bàn sâu đến các giá trị của nó?

-Trần Hoài Thư: Theo tôi nghĩ từ 1955 đến năm 1975. Gồm hai thời kỳ: Thời bình và thời chiến. Cái mốc là năm 1962, lúc chiến tranh bắt đầu thật sự bùng nổ.

-Nguyễn Lệ Uyên: Văn học miền Nam là sự nối dài từ dòng văn học tiền chiến. Riêng dòng văn học miền Bắc thì bị gẫy lìa sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, nghĩa là phủ nhận toàn bộ giá trị văn học nghệ thuật trước đó, hướng theo dòng văn chương vô sản hiện thực xã hội hổ lốn, một loại văn chương mang tính rập khuôn, tuyên truyền. Duy nhất ở miền Nam, dòng văn học này được nối dài với di sản văn chương cha ông để lại, tuy không lâu để sau đó phát triển theo chiều hướng mới, khởi đi từ tạp chí Sáng Tạo. Giai đoạn từ 54 tới 75, có thể chia dòng văn học này làm 2 phân kỳ: giai đoạn 54-63 và 63-75. Ở phân kỳ trước, là sự làm mới văn học hôm nay, theo cách gọi của Mai Thảo với hàng loạt tên tuổi luôn là những đề tài cho các công trình biên khảo văn học. Phân kỳ sau, từ 63-75 là dòng văn chương của chiến tranh, thuộc về chiến tranh mà hầu hết các tác phẩm được công bố đều là các nhà văn nhà thơ trực tiếp tham gia vào cuộc chiến, hầu hết họ đều thuộc lớp trẻ. Tôi chia làm 2 phân kỳ và nhấn mạnh đến phân kỳ sau, như sự lưu ý về một góc nhìn khách quan hơn trong các công trình biên khảo sau này.

-Nguyệt Mai: Tôi cũng có cách nhìn giống anh NLU. Theo tôi, văn học miền Nam lấy cột mốc từ 1954 -1975 là những năm đất nước bị chia cắt. Miền Bắc có nền văn học riêng của họ. Đó là nền văn học XHCN, mà tất cả các nhà văn thơ nghệ sĩ đều bị buộc phải viết một chiều: ca ngợi lãnh tụ và đảng cộng sản, tuyên truyền cho chế độ và cho cuộc chiến tranh mà họ gọi là "chống Mỹ cứu nước". Họ không được tự do viết về thân phận, tình yêu… của riêng họ, mà người cộng sản cho đó là những "lãng mạn tiểu tư sản". Sau vụ dập tắt "Nhân Văn Giai Phẩm", nhà cầm quyền miền Bắc đã "trói" tay của các văn nghệ sĩ.
Hãy nghe nhà văn Võ thị Hảo viết về nhà văn Bùi Ngọc Tấn để từ đó suy luận được đời sống của các nhà văn miền Bắc:
“Tôi đã quên tên tôi dưới mặt trời.” Câu thơ xuất sắc này của Bùi Ngọc Tấn thể hiện nhiều điều về thân phận của một con người – một nhà văn bị buộc phải sống trong một đám đông như một con kiến trong một đàn kiến, như một con cừu cúi mặt đi trong một đàn cừu. Để thích ứng, người ta phải tự mắc bệnh nhòa, cố gắng quên bản ngã, cá tính, chính kiến của mình, để được tồn tại.
(Võ thị Hảo – Ai đã giật băng tang trên vòng hoa người chết).
Nguồn: http://www.rfa.org/ – ngày 24.12.2014
Ở miền Nam, được hưởng bầu không khí tự do, các văn nghệ sĩ được tự do sáng tạo. Họ có thể trải lòng viết bất cứ những gì họ muốn, không theo đơn đặt hàng. Nên trăm hoa đua nở. Miền Nam đã có những sáng tác về mọi thể loại: văn, thơ, âm nhạc, dịch thuật, triết học….

-Nguyễn Vy Khanh: Về các giai-đoạn văn-học, chúng tôi phân chia văn học miền Nam 1954-1975 thành hai thời kỳ chính: 1954-1963 và 1964-1975. Vào giai đoạn đầu 1954-1963, một nền văn nghệ tự do sinh hoạt trong một không khí văn hóa, tin tưởng, thì đến giai đoạn sau 1964-1975, văn nghệ đa dạng hơn nhưng cũng đa tạp hơn với những người làm văn nghệ phân hóa, cả bạo động, trong một xã hội thời chiến giá trị phong hóa mất dần. Giai đoạn đầu có thể nhận ra hai thời, thời đầu 1954-1960 tự tạo niềm tin và là thời xây dựng hậu chiến và thiết lập nền chính trị cộng hòa, dân chủ, tự do; sinh hoạt văn-hóa và văn-học hồi sinh, lý thuyết cùng ảnh hưởng Âu Tây nhập dòng văn-học Việt từ miền Bắc di cư vào và dòng văn-học miền Nam bản địa (Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Hiện Đại đều đình bản năm 1960 hoặc 1961). Thời sau, 1961-1963, báo chí và ấn phẩm phục vụ giai đoạn đầu dần tự cập nhật lại. Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 không những đóng lại nền Đệ nhất Cộng hòa mà còn thay đổi cả sinh hoạt cùng não trạng văn hóa. Giai đoạn hai của nền văn-học miền Nam, 1964 -1975, đã tiến triển qua ba thời: 1964 -1968, đa nguyên văn hóa và văn chương nở rộ, văn-học chiến tranh dần rõ nét với các nhà văn thơ trẻ, thời 1968-1972 hốt hoảng sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 và cuối cùng là "Mùa Hè đỏ lửa" 1972, văn-học chiến tranh "sung mãn" một cách bi thảm theo cuộc chiến, khuynh hướng phản kháng và phản chiến ngày càng nặng nề với nguồn gốc và động cơ khác nhau. Và thời cuối 1973 -1975 với hiệp định đình chiến Paris 27-1-1973, sinh hoạt văn-học phần nào trầm hơn bên cạnh những đấu tranh chính trị.

-Trần Doãn Nho: Cho đến bây giờ, khi nói VHMN tức là nói đến văn học VNCH, một chế độ xuất hiện sau hiệp định Genève chia đôi đất nước từ năm 1954 đến 1975, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Văn học miền Nam là nền văn học từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, khác với văn học Nam Bộ chỉ giới hạn ở vùng đồng bằng Nam phần. Do điều kiện chính trị, xã hội cũng như lãnh thổ, VHMN có những đặc điểm riêng biệt, khác hẳn với văn học miền Bắc tính từ vĩ tuyến 17 trở ra Ải Nam Quan, cùng một thời kỳ.

*
TRẦN VĂN NAM: Tôi  xin đặt vấn đề rằng, Văn học Miền Nam giai đoạn 1963 đến 1975, giai đoạn nửa triệu quân Mỹ tham chiến trực tiếp ở Miền Nam, có phải văn chương không nổi trội bằng âm nhạc của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn và vài nhạc sĩ khác? Hay vì hoàn cảnh chiến tranh ác liệt làm văn học vẫn phong phú nhưng không đủ điều kiện để phổ biến những sáng tác, nhất là của các nhà văn nhà thơ đồng thời là quân nhân tác-chiến hoặc đang ở xa đô-thị?

-Trần Hoài Thư: Âm nhạc trội hơn bộ môn văn chương vì tiết tấu trầm bổng du dương dễ đi vào lòng người nghe. Ngày trở về có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ có gì văn chương đâu mà Ngày Trở Về của Phạm Duy lại được phổ biến rộng rãi.
Nhờ radio. Nhờ quán nhạc. Nhờ cây đàn. Nhờ ca sĩ. Còn văn chương thời chiến, dù phong phú cách mấy, nhưng chỉ thu hẹp trong sách vở tạp chí, và thành phần độc giả.
Thời nào cũng vậy, xã hội nào cũng vậy. Hai bộ môn khác nhau. Và có thể đối tượng cũng khác nhau. Một đàng dùng tai. Một đằng dùng mắt nhưng mắt cần phải biết chữ, phải có trình độ, kiến thức, hay tuổi tác…

-Luân Hoán: Âm nhạc vốn là một chuyển đạt tình cảm, thông tuệ trực tiếp và hữu hiện đến đại quần chúng, nên tôi không ngạc nhiên sự lấn lướt của bộ môn nghệ thuật này so với văn thơ… Một đôi khi âm nhạc chỉ cần nhắc lại, mở rộng ra một ý thơ đẹp, đủ được chào đón thưởng thức hơn hẳn ý thơ đó nằm im trong một thi tập. Trường hợp của Vũ Hữu Định và Linh Phương có thể so sánh khả năng phổ quát trong quần chúng giữa hai bộ môn thi nhạc như thế nào.

-Lữ Quỳnh: Dù chiến tranh khốc liệt đến đâu, thì âm nhạc vẫn có ưu thế hơn văn học, cho nhạc sĩ sáng tác hơn là cho nhà văn, nhất là những nhà văn ngoài chiến trường. Người ta, dù bất cứ ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn nghe dễ hơn đọc.
Đã có những người lính miền Bắc trong lúc ngồi hầm tránh bom B52 vẫn kề radio vào tai để nghe Trịnh Công Sơn, Phạm Duy… cơ mà.
Anh Trần Văn Nam nói các nhà văn, nhà thơ đồng thời là quân nhân tác chiến, không đủ điều kiện để phổ biến những sáng tác của họ. Tôi nghĩ điều này chưa hẳn đúng (dĩ nhiên là họ không có điều kiện như những nhà văn ở thành phố rồi). Điều mà tôi thấy và cảm phục ở họ, là họ viết được trong những phút dừng quân giữa rừng, đôi khi những trang bản thảo bị nhòe nước mưa và vấy cả máu. Sáng tác của họ vẫn gửi đều về và được đăng tải trên Khởi Hành, Văn, Bách Khoa… Điều mà tôi muốn nói là có những kẻ tưởng mình là nhà văn, nhà phê bình để có quyền lên tiếng, phát biểu này nọ; thực ra họ chỉ lặp lại, dựng lên những gì đã có sẵn từ trước, không có gì gọi là khám phá, mới lạ cả.

-Nguyễn Lệ Uyên: Tôi cũng có ý như Lữ Quỳnh, chưa thật tán đồng cách đặt vấn đề của anh Trần Văn Nam, bởi âm  nhạc, hội họa có tiếng nói riêng, đời sống riêng của nó… khác với thơ văn về phương diện truyền tải đến người thưởng ngoạn. Đã đành nhờ âm nhạc, thơ được vang xa hơn (phổ thơ), nhưng không phải vì vậy mà thơ tự nó mất đi giá trị nội hàm. Những bài thơ không được phổ nhạc như Chiến tranh VN và tôi của Nguyễn Bắc Sơn hay Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư ai dám khẳng định là nổi trội hay không nổi trội bằng những ca khúc của Ngô Thụy Miên, Phạm Duy, Phạm Đình Chương?
Văn học ở giai đoạn máu lửa này, từ các nhà văn nhà thơ trẻ, tác phẩm của họ được công bố rộng rãi từ nhật báo, đến tuần san chuyên biệt, đến các tạp chí văn chương… Đó, thơ của Phạm Ngọc Lư, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Lâm Hảo Dũng, Trần Kiêu Bạt, Lâm Chương, … hay văn của Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Kinh Dương Vương, Lương Thái Sỹ, Lê Văn Thiện… vẫn đều đặn xuất hiện trên báo chí và lập tức tạo sự chú ý cho độc giả, mọi thành phần. Những người lính là nhà văn, nhà thơ khi viết, họ viết về những gì họ sống với, chứng kiến… Họ viết lúc dừng quân, viết trong hầm, viết khi nghỉ chân trên đường hành quân. Sống và chết trong gang tấc, viết được và hay đã là điều kỳ diệu và khi tác phẩm của họ được đưa lên mặt báo đã là sự kỳ diệu lớn hơn. Bởi nó đã đánh động vào tâm não của độc giả, của xã hội thậm chí cả chính quyền, phần nào cảm thông được thân phận lớp trẻ thời ấy, hiểu được nỗi hẩm hiu, số phận của dân tộc nhỏ bé, hứng lấy những tai họa từ những sắp đặt của kẻ lớn.

-Trần Doãn Nho: Âm nhạc là âm nhạc, văn chương là văn chương, cũng như hội họa là hội họa, đó là những hình thái nghệ thuật hoàn toàn khác nhau. Âm nhạc, chủ yếu là hát và nghe; văn chương chủ yếu là viết và đọc. Mỗi hình thái nghệ thuật có một ảnh hưởng nhất định nào đó trên quần chúng. Âm nhạc chủ yếu nhắm đến cảm tính, ảnh hưởng của nó đôi khi ta có thể nhìn thấy ngay, cho nên nó “nổi trội”; văn chương chủ yếu nhắm đến tri thức, nhận thức và kiến thức, ảnh hưởng của nó tiềm ẩn, không thấy ngay, nhưng có tác động lâu dài về sau. Quần chúng của âm nhạc rộng và dễ dãi hơn độc giả của văn chương. Tuy nhiên, theo tôi, nhạc Phạm Duy và Trịnh Công Sơn, sở dĩ nổi trội hơn tất cả các nhạc sĩ khác vì lời nhạc của hai tác giả này có tính chất văn chương. Ưu thế của họ, nếu có, xuất phát từ đặc điểm này.

-Trần Văn Nam: Tôi nghĩ rằng, như đã xác nhận hàm chứa trong câu hỏi, vì tôi cũng đã có viết về điều này trong bài “Các Thời Kỳ Văn Học Miền Nam Từ 1963 Đến 1975”. Nay tôi có dịp bổ túc những điều được biết như sau: Qua những ý kiến của nhà văn Trần Hoài Thư, ta mới nhận ra sáng tác văn thơ về chiến tranh của nhiều tác giả (quân nhân hoặc dân sự) đã có hiện diện thật nhiều trong các tạp chí Văn, Khởi Hành và Bách Khoa thời gian ấy, đa phần là những mô tả hiện thực trong khói lửa. Vì điều kiện thời tao loạn, các tác phẩm truyện ngắn hiện thực chiến tranh của họ chưa được xuất bản thành sách, chưa được các nhà phê bình lưu tâm, nên phải nằm trong âm thầm. Một phần nào nay được lưu giữ trong 4 bộ sách “Văn Miền Nam” và 2 bộ sách “Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến” của nhà xuất bản Thư Ấn Quán. (Và cũng có hiện diện trong vài bộ sách văn học xuất bản tại hải ngoại mà tôi không nhớ hết). Nhân đây, thêm một câu hỏi của tôi và cũng xin tự trả lời nhằm mục đích ghi nhận một sự kiện văn học: Tại sao có ít nhóm văn chương ở giai-đoạn 1963-1975 hơn là ở giai-đoạn 1954-1963 trong Văn Học Miền Nam (thời Việt Nam Cộng Hòa)? Câu hỏi xem chừng dễ trả lời:  Sở dĩ có nhiều nhóm quy tụ bạn văn chương vì thời Đệ Nhất Cộng Hòa là thời chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt, chưa ở vào giai đoạn nửa triệu quân Mỹ trực tiếp tham chiến. Tình hình tương đối an ninh trên toàn thể lãnh thổ Miền Nam. Giới văn chương quy tụ ở Sài Gòn, hoặc ở các thành phố. Họ không bị phân tán khắp nơi như thời chiến tranh cao điểm: mỗi người theo nhu cầu chiến sự phải công tác ở một nơi nào đó theo chuyên môn nghiệp vụ. Được quây quần nhờ điều kiện yên ổn trong thành phố, họ dễ liên lạc nhau để tổ chức hội thảo hoặc nhắn nhủ đóng góp kịp thời bài sáng tác cho tạp-chí văn chương nào đó, nhờ thế tạo nên điều kiện hình thành nhóm. Câu hỏi và tự hồi đáp này mong được coi như một ghi nhận sự kiện thời Văn học Miền Nam. Nhân sự trong nhóm kể ra ở đây chắc không đầy đủ hoặc không đúng, mong được bổ túc và sửa sai từ giới làm văn có nhiều thân cận và hiểu biết. Những nhóm văn chương giai đoạn 1954-1963 gồm có: Nhóm Sáng tạo (Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền) – Nhóm Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca) – Nhóm Hành Trình (Nguyễn Văn Trung, Trịnh Viết Thành, Thảo Trường) – Nhóm Quan Điểm (Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng) – Nhóm Phổ Thông (Nguyễn Vỹ, Tôn Nữ Hỷ Khương, Lâm Vị Thủy, Tuệ Mai) – Nhóm Tao Đàn (Đinh Hùng, Tô Kiều Ngân) – Nhóm Tinh Việt Văn Đoàn (các nhà văn và học giả Công Giáo) – Nhóm Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Quách Thoại) – Nhóm Nhân Loại (Anh Đào, Tam Ích, Sơn Nam) – Nhóm Mùa Lúa Mới (Võ Phiến, Đỗ Tốn)… Qua giai đoạn 1963-1975, các nhóm văn chương trở nên ít hơn, nhường chỗ cho các tạp chí quy tụ rộng rãi các nhà văn thơ từ khắp nơi và không phân biệt khuynh hướng, như Tạp chí Bách Khoa, Tạp chí Văn, Tạp chí Thế Kỷ 20, Tạp chí Thời Tập; Tuần báo văn chương Khởi Hành, Tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ. Đây là thời chiến tranh khốc liệt, các truyện ngắn và thơ hiện thực chiến tranh sáng tác từ những nơi khói lửa và xa đô thị có được những diễn đàn để bày tỏ cảm nghĩ. Chỉ có ít nhóm văn chương thời kỳ này, như nhóm Trình Bầy (Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Diễm Châu); và vài nhóm  cách xa Sài Gòn như nhóm Khai Phá ở Châu Đốc (Ngô Nguyên Nghiễm, Lâm Hảo Dũng), nhóm Ý Thức ở Miền Trung (Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh). 

-Nguyễn Lệ Uyên: Tôi nghĩ, giai đoạn 63-75, chiến tranh bắt đầu lên tới cao trào, khốc liệt. Các nhà văn trẻ, hầu hết đều ở ngoài mặt trận, và tác phẩm của họ thường trên các tạp chí văn chương Sài Gòn. Trong hoàn cảnh lịch sử như vậy, phần nào giới hạn sự phát triển của các nhóm văn nghệ mang màu sắc, tiếng nói riêng biệt, nhưng điều này không có nghĩa rằng các nhà văn trẻ chỉ chịu lệ thuộc vào các tạp chí văn học lớn ở thủ đô. Trong chừng mực nào đó, họ vẫn cố gắng qui tụ những gương mặt có cùng một hoài bão, cùng một khuynh hướng sáng tác trên một tờ báo do anh em trong nhóm chủ trương. Có thể kể ra đây:
-Huế có tờ Việt, tờ báo vận động văn học nghệ thuật về nguồn, dưới hình thức in ronéo do Nguyễn Văn Ban, Tần Hoài Dạ Vũ, Kiều Trung Phương coi sóc.
-Quảng Nam, Quảng Ngãi có tờ Trước Mặt do Luân Hoán, Thành Tôn, Phan Nhự Thức… chủ trương, bên cạnh còn có thêm Ngưỡng Cửa cũng của nhóm này.
-Qui Nhơn có Nhìn Mặt do Trần Hoài Thư, Đặng Hòa chủ trương. Ngay đến một thị trấn nhỏ như An Nhơn Bình Định cũng có tờ Vỡ Đất.
-Tuy Hòa có tạp chí Sóng do Hoàng Đình Huy Quan, Nguyễn Phương Loan, Nguyễn Lệ Uyên, Phạm Cao Hoàng, qui tụ nhiều cây bút thành danh sau này, như Y Uyên, Cung Tích Biền, Lôi Tam, Đỗ Tiến Đức, Luân Hoán, Đinh Trầm Ca, Thành Tôn, Hoàng Ngọc Châu, Tần Vy, Võ Hồng, Từ Thế Mộng… Mấy năm sau, Trần Huiền Ân, Phan Việt Thủy, Mang Viên Long cho ra mắt Hiện Diện. 
-Nha Trang thì có Dựng Đất của nhóm Nguyễn Âu Hồng, Lê Minh, qui tụ nhiều cây bút tên tuổi: Võ Hồng, Dương Kiền, Thạch Trung Gỉa, Duy Năng, Chu Trầm Nguyên Minh…
-Phan Rang có Ý Thức, tờ báo in ronéo đẹp nhất miền Nam của nhóm Nguyên Minh, Lữ Quỳnh, Lữ Kiều, Lê Ký Thương, Ngy Hữu…
-Miền Tây có tờ Khai Phá của nhóm Ngô Nguyên Nghiễm, Lưu Nhữ Thụy, Lâm Chương, Hà Nghiêu Bích… Và còn nhiều nhóm khác nữa…
Những liệt kê trên, cho thấy rằng, không phải các nhà văn trẻ thiếu ý hướng lập ra những nhóm riêng lẻ, mang các khuynh hướng khác nhau, từ văn học nghệ thuật đích thực đến tình tự dân tộc, đến về nguồn… Tuy nhiên, như đã phân tích, chiến tranh cuốn hút tất cả mà hệ quả là lực bất tòng tâm, khác hơn, vấn đề tài chính và chiến tranh là hai yếu tố nhấn chìm mọi tham vọng, ước mơ của những cây bút trẻ mong có được một nhóm như trước đó thế hệ đàn anh đã từng. Duy nhất chỉ có Ý Thức là vẫn duy trì cho đến ngày nay, đổi tên Ý Thức ra Quán Văn. Điều này cũng khẳng định rằng, chỉ có miền Nam mới có tự do sáng tác, tự do đưa ra mọi khuynh hướng, chính kiến vào tác phẩm văn chương.

-Phạm Văn Nhàn: Như tôi đã từng nói, văn học miền Nam sau năm 1954 cho đến năm 1975 là một nền văn học đích thực. Tại sao gọi là một nền văn học đích thực; vì nó không mị dân, không tuyên truyền cho một chế độ. Người cầm bút có quyền viết bày tỏ sự suy nghĩ, sáng tạo, hay dựng truyện tùy theo cảm nghĩ của mình. Không lệ thuộc vào một tổ chức chính trị nào. Không ảnh hưởng đến một ai cả, đứng đằng sau chỉ đạo. Và còn nữa, chỉ có Văn Học Miền Nam mới phát huy hết được tính sáng tạo trong văn, thơ của từng tác giả.
Tuy nhiên trong 20 năm văn học Miền Nam cũng có loại văn thơ dùng cho tuyên truyền, tâm lý chiến của chế độ. Nhưng, thường những thể loại này (văn, thơ, nhạc, hội họa) đều là dở. Ít ai đọc và không đi vào lòng người.

*
TRẦN HOÀI THƯ: Một điểm chung mà văn học miền Nam cống hiến là tình thân như ruột thịt giữa những người cầm bút trẻ trong thời chiến, dù người này có khuynh hướng thiên Cộng, viết cho Đối Diện, dù người kia trốn lính hay đào ngũ. dù kẻ nọ chống Cộng cực đoan… Ví dụ Thái Ngọc San chửi THT là lính đánh thuê, nhưng khi TNS đào ngũ bị bắt, tôi và Phạm Văn Nhàn vẫn đến trại trưng binh ở Ghềnh Ráng để thăm nuôi… Hoặc dù không bao giờ thấy mặt nhau nhưng ngỡ như thân lắm…
Tại sao vậy? Văn học miền Bắc có chuyện này không?
Riêng tôi (THT), một điểm phải ghi nhận là chính những tạp chí văn học như Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Ý Thức v.v… đã giúp chúng tôi gần gũi nhau hơn bao giờ. Chúng tôi cùng đọc và cùng viết. Dù chưa một lần gặp mặt nhưng tên bút hiệu thì xem như thân nhau lắm.
Trong hoàn cảnh của chiến tranh, đưa đẩy mỗi người một phương trời, chính các tạp chí ấy là gia đình.
Đặc tính này còn tìm thấy trong hàng ngũ chung của người cầm bút ở miền Nam. Một ví dụ là việc can thiệp của giới viết văn/làm báo tại Saigon đòi chánh quyền phải thả Vũ Hạnh, dù ai cũng biết Vũ Hạnh là một thành phần nguy hiểm…
Còn những nhà văn nhà thơ miền Bắc ra sao? Tôi nghĩ tội nghiệp cho họ. Họ không có độc giả, hay bạn bè. Bởi vì, họ đâu có viết cho họ để mà có cái thân tình như tác giả miền Nam. Họ viết cho đảng, cho giai cấp, cho mục tiêu tối hậu là xâm chiếm miền Nam mà.

-Luân Hoán:  Điều anh Trần Hoài Thư nêu ra gần như là một xác nhận rõ nét tính chất nhân bản của hai bên đối đầu của hai chế độ. Điều này không phải lỗi của văn nghệ sĩ miền Bắc chỉ bởi hoàn cảnh thiếu tự do của họ. Tài hoa và lòng nhân ái của những cây bút miền Bắc có thừa. Và sự có thừa này ngày nay có thể vì ít nhiều tự ái và bảo thủ về đường hướng phục vụ lâu năm, mà họ chưa thể có những tác phẩm lớn hơn cho đại quần chúng.

-Trần Văn Nam: Thời chiến 1954-1975, không những hai phe khác quan điểm đã đả kích nhau trong chữ nghĩa mà còn khác chiến tuyến với súng đạn, thì cách đối xử lịch sự chỉ là những trường hợp cá nhân do biết nhau qua văn thơ, trong đó có thể hàm chứa sự tán thưởng về nghệ thuật sáng tác. Tấm lòng của ông (Trần Hoài Thư) đối với văn-hữu tử trận, đối với thi-tài một thời bị lãng quên, đối với dịch giả dành trọn tuổi trẻ chuyển-ngữ những tác phẩm lừng danh thế giới… đã thể hiện cụ thể trong những số tạp chí in-ấn thủ-công do ông cố gắng làm ra để tưởng niệm họ. “Văn Học Miền Nam 1954-1975” gắn bó với công-trình “Di Sản Văn Chương Miền Nam” do ông thực hiện.

-Nguyễn Lệ Uyên: Với những người viết trẻ (cách gọi của cố nhà văn Trần Phong Giao), họ có sự đồng cảm về thân phận của những thanh niên trong hoàn cảnh tàn khốc nhất của chiến tranh. Mới vừa là học sinh cuối bậc trung học, sinh viên chưa ngồi ấm ghế giảng đường, đã vội vã lên đường cầm súng. Sự sống và cái chết luôn treo lơ lửng trên đầu họ. Vì vậy, đối với họ, viết là sự bày tỏ, là thái độ đồng thời cũng là trách nhiệm với chính những dòng chữ mình viết ra trước độc giả, xã hội. Họ có cùng một tâm trạng, suy nghĩ tuy lối sống có khác nhau, cách nhìn, cảm nhận khác nhau… đã là một sợi dây nối kết với nhau.
Một cái tát của LC dành cho Thái Ngọc San ở tòa soạn Ý Thức, hay một câu “chửi” của San với Thư hay anh em khác, không phải phát xuất từ những hằn học đã được định vị từ một thái độ chính trị, mà trong tâm thế đang bị lôi kéo, bị rỉ tai cộng với nhận thức hời hợt của tuổi trẻ, như Milovan Djilas từng viết trong Giai cấp mới rằng:  “20 tuổi mà không đến với chủ nghĩa cộng sản là người không có trái tim; 40 tuổi mà không từ bỏ chủ nghĩa cộng sản là người không có cái đầu”! Tôi nghĩ thái độ của San chỉ là ý thức phản kháng hèn đớn và nhất thời.
Nên nhớ rằng lúc đó chúng ta chỉ đang ở ngưỡng “Nói với tuổi Hai Mươi” của Nhất Hạnh. Một lớp trẻ bơ vơ vừa bị ném ra mặt trận! Tôi coi khinh Cộng Sản nhưng khi thấy Thái Ngọc San co ro trong tòa soạn Ý Thức giữa trưa không còn bóng người, tự dưng tôi cảm thấy chạnh lòng…
Ngay trong lòng thủ đô Sài Gòn, bên cạnh Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, Nguyễn văn Bông… thì có Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lan, Lê Văn Ngăn, Thái Ngọc San; có Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy bên cạnh Lê Khắc Minh Nhựt, Đoàn Văn Toại… Một bên văn chương gắn liền với chính trị, nói khác là chính trị hóa văn chương bên kia là tự do hoàn toàn. Không ai không biết họ là những người cộng sản nằm vùng, sử dụng văn học và báo chí như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho những mưu đồ. Ở miền Nam, nhà văn chân chính chỉ có trách nhiệm với ngòi bút và độc giả. Chính trị đã có chính quyền và luật pháp. Thật rạch ròi.
Vì vậy, cho nên trong cùng một thế hệ, dù cho sự chọn lựa thái độ và cách hành xử và hành ngôn của mỗi người có khác nhau, nhưng trên văn đàn họ vẫn ngồi đứng trong cùng một con tàu văn học, và tạo cho dòng văn học miền Nam đa dạng đa chiều hơn. 
Điều này càng không thể so sánh với lớp trẻ miền Bắc bị bắt buộc viết theo sự chỉ đạo một chiều. Rồi bởi khi họ lên đường, họ ra đi là một đi không trở lại? Nhưng tôi vẫn tin tình người vẫn có nơi họ, trừ phi họ là những “ông chính ủy”!

*
NGUYỄN LỆ UYÊN: Tôi nghĩ, một lần nữa, chúng ta nên khẳng định giá trị nhân văn, tự do trong các tác phẩm văn học ở giai đoạn này?

-Trần Hoài Thư: Giá trị nhân văn và tự do thì 100% trong ý niệm, suy nghĩ, đường lối, khuynh hướng của người viết, nhưng khi nói đến tác phẩm thì tự do chỉ là tương đối. Chỉ có chăng là giá trị nhân văn bao trùm cả nền văn học miền Nam.
Bởi vì, muốn có tác phẩm ra đời thì phải xin kiểm duyệt. Mà một khi được cán bộ ghé mắt, với lưỡi dao, cái đục bên mình thì còn gì là tự do?
Tôi nghĩ, trong cuộc chiến vừa qua, có nhiều tác phẩm bị cấm xuất bản. Riêng bản thân tôi mỗi lần gởi bài, phải tìm đúng báo mà gởi. Những bài có vẻ “nhạy cảm” thì gởi cho tuần báo Khởi Hành là chắc ăn.
Tôi nghĩ chúng ta phải cám ơn tuần báo Khởi Hành. Nếu không có KH thì chắc chúng ta sẽ không bao giờ đọc được “Chiến Tranh VN và tôi” của Nguyễn Bắc Sơn.
Và cũng phải cám ơn Sở Kiểm Duyệt Vùng Bốn tại Cần Thơ, nếu không có nơi này thì chắc gì những thi phẩm của Nguyễn Bắc Sơn, hay của Linh Phương (Kỷ vật cho em) được giấy phép xuất bản, trong khi ở Saigon, chúng bị loại.
Tôi có một tác phẩm bị loại bởi Saigon vì nó viết về thời kháng chiến chống Tây. Đó là truyện vừa “Rặng núi ở bên kia sông” dựa vào chất liệu của gia đình tôi. Tiếc là bản thảo truyện đã bị thất lạc.  Phải chi mà tôi biết sự dễ dãi của Sở Kiểm duyệt vùng bốn, thì tôi có một tác phẩm truyện dài đầu tay mà tôi rất ưng ý rồi.
Thật nực cười, trong khi các tác giả ngoài Bắc đang hì hục nặn óc đào trí để kích động thế hệ trẻ ngoài Bắc vào Nam giết “Mỹ Ngụy”, lại được ghi vào trong chương trình học ở miền Nam, thì một tác phẩm chỉ viết về một thời kháng Pháp, lại bị cấm. 
Như vậy, giá trị của văn học miền Nam là nhân bản: đúng, nhưng tự do thì chỉ ở ngòi bút chứ không phải ở tác phẩm.

-Trần Văn Nam: Câu hỏi của nhà văn Nguyễn Lệ Uyên bao hàm trong đề-nghị hồi đáp những “Giá Trị Văn Chương Về Mọi Mặt” của 20 năm Văn Học Miền Nam như thế nào? Đây là một đề nghị hồi đáp rất bao quát cả hai giai đoạn 1954-1963 và 1963-1975, không dễ nói hết trong đôi dòng cho mọi mặt gồm Thơ, Truyện Ngắn, Tiểu Thuyết, Kịch Bản, Biên Khảo…  Vậy, tôi có đôi điều cố gắng vắn tắt thuộc về Sáng Tác mà thôi: trong giai đoạn Đệ Nhất Cộng Hòa (Miền Nam Việt Nam) thì nổi bật ở sáng tạo Hình Thức Văn Chương và Nội Dung thì nghiêng về Triết Lý. Về thơ có Thơ Tự Do, Thơ Tình Từ Ngữ Hiện Đại, Thơ Lục Bát Từ Ngữ Tân Kỳ, Thơ đề cập Siêu Hình hoặc Dục Tính. Truyện Ngắn và Tiểu Thuyết cũng nghiêng về Triết Lý Hiện Sinh. Hình Thức trong văn xuôi có lẽ chỉ có nhà văn Mai Thảo ở thể Truyện Ngắn. Kịch bản chỉ ở nhóm Quan Điểm với Vũ Khắc Khoan và Nghiêm Xuân Hồng. Kịch Nói chắc thuộc về Nghệ Thuật Trình Diễn Sân Khấu hơn là Văn Chương. Giai đoạn văn học này (1954-1963) được bàn đến nhiều. Giai đoạn Đệ Nhị Cộng Hòa 1963-1975, thời chiến tranh ác liệt: Truyện Ngắn và Thơ lưu dấu nhiều về cuộc chiến, Hiện Thực hoặc Cầu Nguyện Hòa Bình. Giai đoạn này có lẽ còn là một kho văn chương chưa khám phá hết.

-Nguyệt Mai: Văn học miền Nam, như đã nói trên là một nền văn học nhân văn, tự do… Các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ có tự do sáng tạo. Văn chương nghệ thuật miền Nam không bị “mặc” bộ đồng phục. Văn chương nghệ thuật thể hiện tinh thần yêu đời, yêu người,.. không nhất thiết phải yêu lãnh tụ hay người cùng chung chí hướng.
Như nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương đã viết:
Người lính miền Nam đi đánh giặc
Ba lô mang theo hồn thơ văn
(Người lính làm thơ trên đỉnh núi – Nguyễn Phúc Sông Hương)
Họ không mang lòng hận thù, như nhà thơ Phan Xuân Sinh đã viết và ông còn bày cuộc rượu uống cùng người lính phương Bắc
"những thằng lính thời nay không mang thù hận
bạn hay thù chẳng có một lằn ranh
thôi hãy uống, mọi chuyện bỏ lại sau
nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
bày làm chi trò chơi xương máu
để đôi bên nuôi mầm mống hận thù
ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc
"
(Uống rượu cùng người lính phương Bắc – Phan Xuân Sinh)
trong khi nhà thơ Linh Phương đã tha chết cho một nữ du kích bên kia chiến tuyến:
Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng
Xinh đẹp như con gái Sài Gòn
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân
(Hành quân – Linh Phương)
Chúng ta sẽ mỏi mắt mà không bao giờ gặp những vần thơ như thế của miền Bắc.
Có chăng là:
Máu kêu máu trả thù.
Súng đâu, anh em đâu.
Bắn nó thủng yết hầu,
Bắn tỉa nó dài lâu!”
(Xuân Diệu)
Về văn, ta có thể gặp trong Buổi Dừng Quân của Lê Bá Lăng hoặc những truyện ngắn của nhà văn Trần Hoài Thư (trong Truyện từ Văn – Thư Ấn Quán tái bản 2012) như Bệnh xá cuối năm, Về Thành, v.v…

-Nguyễn Vy Khanh: Ngoài đặc tính nhân bản mà quí anh chị đã trình bày, nhân bản của con người hôm nay, ở đây với những vấn nạn, thân phận thực hữu, văn-học miền Nam còn mang thêm tinh thần khai phóng và đa nguyên. Mở cửa tiếp nhận (và gạn lọc) các khuynh hướng văn-học Âu Mỹ cả Nga, Đông Âu, Mỹ latinh, Nhật, v.v…, góp phần đa dạng hóa văn-học, tức không minh họa, một chiều như “văn-học” miền Bắc CS cùng thời. Khai phóng còn ở tinh thần làm văn-học, ở sáng tác, ở thái độ và chủ trương khám phá tài năng trẻ, mới. Nhờ vậy mà văn-học miền Nam có nhiều tiếng nói, già trẻ, địa phương, “chiếu” lớn, “chiếu” nhỏ, thiên hữu cạnh thiên tả, “hôm nay” cạnh “dân tộc”, v.v… và có những khuynh hướng tâm linh, tôn giáo, triết lý cùng tham gia trường văn trận bút. Văn-học miền Nam với những đặc điểm nhân bản, khai phóng, đa dạng, bên cạnh tinh thần dân-chủ, tự do, đã là môi trường thuận lợi cho việc phát triển tài năng văn-chương, và đã có những tài năng thật sự, những tác-phẩm lớn. Dĩ nhiên chiến-tranh và văn-hóa tính của con người Việt-Nam đã bôi đen một số công trình cũng như gây một số thiệt hại cho nền văn-học dân-tộc!

-Nguyễn Lệ Uyên: Những nhận định và dẫn chứng minh họa của THT, TVN, NM và NVK đều chính xác. Và, về vấn đề này, đã được các nhà phê bình văn học khẳng định.
Trong các tác phẩm văn học tự nó đã được xuôi theo dòng chảy sáng tạo đa chiều như một lẽ tự nhiên mang giá trị nội hàm về tính nhân văn trong một thế giới không có rào cản, không có sự cấm kỵ. Mọi hiện thực xã hội đều được phơi bày theo cảm quan chân thật của từng tác giả mà ý thức tự do và nghệ thuật được hiểu như luôn là những tìm tòi và đứng về phía cái mới được tôn trọng, đặt lên hàng đầu. Với anh bạn thiết, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc, tôi đã từng nói: làm thầy thuốc là để cứu người, làm nhà văn là để cứu đời. Cứu đời ở đây, nằm trong nghĩa văn chương đưa đến cái đẹp cho mọi người dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đưa tác phẩm vào đời sống thật vượt thời gian, vượt mọi thiết chế chính trị. Mỗi một nhân vật trong đó đều mang một bộ mặt khác nhau, tiêu biểu cho các tầng lớp khác nhau, để tạo thành bức tranh xã hội thu nhỏ một cách hoàn hảo trong mọi thời đại. Thời phong kiến, dưới áp lực của Khổng Nho, nhưng Nguyễn Du đã có sự tự do tuyệt đối trong sáng tạo.
Trong 20 năm văn học Miền Nam, chúng ta chưa có những tác phẩm toàn bích như Truyện Kiều, nhưng mỗi một tác phẩm, tác giả cũng đã xây dựng nhân vật, bối cảnh xã hội riêng biệt và hoàn hảo không kém. Mỗi một nhà văn khai thác đề tài ở một góc nhỏ, nhưng nếu gộp chung lại những tác phẩm ấy tạo nên sự đa dạng sắc màu như một vườn hoa nở rộ giữa mùa xuân. Chính sự tự do sáng tạo, tính nhân văn trong tác phẩm đã làm nên sắc màu và hương thơm trong vườn văn ở một giai đoạn ngắn ngủi nhưng rực sáng, đáng tự hào, nếu như mang ra so sánh với dòng văn học cùng giai đoạn này với ngoài kia. 

-Trần Doãn Nho: Về điểm này, tôi có trình bày khá kỹ trong bài thuyết trình của tôi tại tòa soạn nhật báo Người Việt ngày 6/12/2014, được in lại trong số báo này.

*
NGUYỄN VY KHANH: Về VHMN 1954-1975, vẫn còn nhiều đề tài, và vấn đề để nhìn lại lắm. Gần đây tôi muốn xem lại bộ phận "phản chiến" (kiểu thực chất và huyền thoại) và cái CSVN vẫn đề cao và gọi là "văn học Mác-xít ở miền Nam" và đã ghi lại được một số ý tưởng. Tạm thời tôi xin nhắc lại để anh em thảo luận*:

-Lữ Quỳnh: Tôi coi trọng ý kiến của anh Nguyễn Vy Khanh, khi cho rằng Văn Học Miền Nam 1954-1975 vẫn còn nhiều đề tài, vấn đề để nhìn lại lắm. Mong rằng ghi nhận của anh về bộ phận "phản chiến" và cái mà Cộng Sản Việt Nam vẫn đề cao và gọi là "văn học Mác-xít ở miền Nam", được làm rõ. Bên cạnh đó, đánh giá giòng văn học Miền Nam giai đoạn 1963-1975, là thời điểm bắt đầu cuộc nội chiến cho đến ngày kết thúc, đã giết hàng triệu thanh niên hai miền một cách oan uổng, trong đó có bạn bè và gia đình chúng ta. Một nhà văn tử trận khi còn rất trẻ là Y Uyên với nhiều tác phẩm để lại, một Doãn Dân chết mất xác ở Đại lộ Kinh Hoàng – Quảng Trị năm 1972, một Trần Hoài Thư khốn khổ với những tháng năm hành quân ở Bình Định; và còn nhiều nhà văn khác nữa đã ra đi.
Những tác phẩm của họ chưa đủ tầm để được nhắc đến, được nằm trong giòng văn học Miền Nam 20 năm hay sao, bởi các nhà phê bình, trong các cuộc hội thảo?
Tôi tin anh Nguyễn Vy Khanh hiểu những trăn trở này, và, vì anh là nhà phê bình, mong anh hãy tìm hiểu, để trả lại sự công bằng, bình đẳng cho những nhà văn không đủ, không còn điều kiện để lên tiếng.

-Nguyễn Vy Khanh: Từ những năm 1964, văn-chương miền Nam dần rời vùng đất hiện sinh, con người văn-nghệ dấn thân đi đến thái độ đối kháng rồi phản kháng – chống Thượng đế, chống thẩm quyền, thượng quyền, nhóm bảo thủ, từ đó có thể thành vô chính phủ hoặc bi quan tột cùng.

Trước hết có những danh xưng cần thẩm định, định nghĩa: Phản-kháng: hiếm có tính nghệ-thuật (ngoài nhạc của TCS), đa phần có tính chính-trị (Nguyên Vũ,…). Phản kháng liên hệ và nhắm một chế độ chính-trị (cũng như phản kháng chống cộng-sản Việt-Nam của văn-học hải-ngoại sau 1975!), nhà văn phải can đảm tỏ bày thái độ chính-trị của mình đối với chế độ chính-trị đó. Và chế độ bị phản đối cũng sẽ sử-dụng thứ văn-chương phản kháng để lèo lái, cài người, để tranh thủ ‘chính nghĩa’ hay phần thắng. Nếu không có hậu ý chính-trị, đảng phái, thì thứ văn-chương phản kháng đích thực sẽ được đón nhận, hoan nghênh. Mà ở đâu có thể có phản kháng có nghĩa là ở đó đã có tự do tư tưởng; nhà văn thơ phản kháng chống cái tưởng là xấu, là tiêu cực, sự việc đó đã chứng tỏ bề mặt tích cực của chế độ!
Phản-chiến: –1, chống chiến-tranh vì chiến-tranh tàn phá đất nước và con người. Phản chiến theo nghĩa này là tiếng nói chân thật của lương tâm và lý trí con người (Thảo Trường, TCS,…); –2, chống chiến-tranh do người cộng-sản Hà-nội đưa vào miền Nam, với ý đồ thống nhất và cộng-sản hóa đất nước Việt-Nam, chiến-tranh Hà-nội thực hiện ở miền Nam với người của miền Nam (MTGP Dân tộc/ MTGPMN thực ra chỉ là chiêu bài cốt tuyên truyền, cổ võ chiến-tranh); –3, chống chiến-tranh do Mỹ và Việt-Nam Cộng Hòa chủ trì (thực ra là chiến-tranh tự vệ chống lại ý đồ xâm lăng miền Nam của Hà-nội cộng-sản, và mang ý nghĩa bảo vệ miền Nam, bảo vệ tự do, bảo vệ và cổ võ cho dân chủ). Nếu phản chiến mà nhục mạ quân lực Việt-Nam Cộng-Hòa, thì không còn là phản kháng nữa, mà là một hành động chính-trị đội lốt báo-chí, văn-học, lạm dụng dân-chủ tự do mà chế độ cho phép, để ‘phản bội’, có thể là do tập đoàn, đảng phái giật giây.
Hòa-bình: chiêu bài, biện minh cho việc cổ võ chiến-tranh; còn con người nói chung và người Việt nói riêng đều mơ ước hòa-bình.
Sau khi chế độ đệ nhất cộng hòa bị đảo chính, miền Nam rơi vào hỗn loạn, bạo động. Từ mất chủ quyền khó tránh mất "chính thống" khi tuyên truyền, chiến tranh tâm lý và chiến tranh lạnh bủa vây. Giới trẻ không kinh nghiệm cộng sản đâm ra hoang mang, mất niềm tin hoặc bất cần hoặc sống hiện sinh cho đã cái hôm nay. Từ khi chiến tranh trở nên khốc liệt cho đến cuối cuộc chiến, một dòng văn chương phản chiến càng phát triển mạnh. Càng về cuối cuộc chiến, phong trào phản chiến càng mạnh vì đồng minh Hoa kỳ đã để lộ một số bộ mặt không mấy lịch sự, "đồng minh" cho lắm, rồi Việt Nam hóa chiến tranh, xã hội đồi trụy và lãnh đạo càng lộ liễu tham nhũng, đái nát.
Theo thiển ý cần phân biệt loại phản chiến hay cấp tiến chân thành của những người làm văn hóa, những tiếng nói của lương tâm (ít ra là của họ) không thể không nói vì muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn có thể lịch sử sẽ phê bình họ sai, như Nguyễn Văn Trung, Nhất Hạnh, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín (chủ trương Đối Diện, công khai chống chính phủ Sài-Gòn  theo kiểu “sống thẳng, nói thật”, “cúi ngửa theo người quyết chẳng theo”), v.v… – với loại phản chiến có bàn tay điều khiển của Việt cộng nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Lưu Nghi, Vân Trang, Minh Quân, v.v… Những người này ồn ào giả lên tiếng "bảo vệ văn hóa dân tộc" như Lực Lượng cùng tên với tờ báo Tin Văn (1966) nhưng thực chất là gây rối ngay trong lòng "địch". Các tạp chí Hành Trình (1964), Đất Nước (1967), Trình Bầy (1968), Đối Diện (7-1969), v.v… là đất trổ cho thứ văn học phản chiến này, Văn và Bách Khoa cũng đăng nhiều thơ truyện phản chiến của các cây viết mới như Ngụy Ngữ, Hồ Minh Dũng, Trần Hoài Thư, v.v… Vấn đề là người lãnh đạo phải biết chấp nhận sinh hoạt dân chủ lắng nghe, phải tạo những cơ hội nhìn thẳng sự kiện và sự thật thường muôn mặt. Nước Việt Nam ngày nay có thể khác và hàng triệu sinh linh có thể hãy còn bên cạnh chúng ta nếu những tiếng nói "thiên hữu" thời Nhân Văn Giai Phẩm và sau đó trong lòng chế độ Hà Nội cũng như những tiếng nói "thiên tả"  ở miền Nam Cộng hòa đã được nghe!
Trở lại dòng văn học phản chiến, nói chung là những phẫn uất của trí thức nhưng không tiếng nói, những người dấn thân chính trị nhưng không có đất đứng. Xã hội điêu tàn, giá trị văn hóa đảo lộn, người miền Nam nạn nhân của chiến-tranh nhưng kêu gọi tình huynh đệ, (vô tình) đòi giải quyết chiến-tranh và chuẩn bị hòa bình.

Nhóm Trình Bầy gồm nhiều giáo-sư, trí thức và văn-nghệ sĩ ‘dấn thân’ "tiến bộ", với bích chương “chống Mỹ cứu nước,” khi ông ra ứng cử dân biểu quốc hội, như Trần Tuấn Nhậm… Nhóm Trình Bầy cổ xúy một loại văn-chương phản chiến, chính trị nhập cuộc, văn chương không thể thờ ơ trước những vấn đề lớn lao của đất nước như chiến tranh, như sự có mặt của quân đội Mỹ và đồng minh ở miền Nam… Vì thế có lúc Trình Bầy đã tấn công nhà văn Mai Thảo, người đứng đầu nhóm Sáng Tạo và gọi khuynh hướng văn chương của nhóm Sáng Tạo là “khuynh hướng văn chương…viễn mơ”, khuynh hướng văn chương chạy theo phong trào văn chương hiện sinh, quay lưng lại những khổ đau của đồng bào, đất nước!

Ngày Mai rồi Bút nhóm Việt ở Huế với Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Võ Quê, Đông Trình, Bửu Chỉ, Võ Trường Chinh, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Phú Yên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Trường Sơn Ca, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật, Lê Gành… Trước 1975, họ viết theo chỉ thị, mệnh lệnh để tố cáo chế độ miền Nam, xuyên tạc hay làm tuyên truyền, trên các báo Đối Diện, Bách Khoa, v.v… Là một nhóm trẻ theo Cộng "đánh Mỹ" và công khai chống chế độ cộng hòa miền Nam, được chế độ cộng-sản đánh bóng gọi họ là những "thanh niên trí thức đô thị miền Nam". Họ sử dụng chuyện nhỏ, tiểu tiết, ngoại lệ (ức hiếp, lợi dụng, ‘chuồng cọp’, v.v…) để tổng quát hóa làm lớn chuyện tuyên truyền.  ‘Chuồng cọp’ của trại tù miền Nam – do thực dân Pháp làm ra, nhưng làm sao có thể so sánh được với nhà tù Hỏa Lò ở Hà-nội và những trại tù ‘cải tạo’ trên khắp nước Việt-Nam sau 1975 của cộng-sản? Nếu có thống kê thì những tù nhân của ‘chuồng cọp’ có mấy người đã chết vì tù hay gần như tất cả đều trở ra sau 1975 và nhiều người được chế độ thưởng công cho giữ những chức vụ trưởng, phó đầu ngành văn nghệ, thông tin của Nhà Nước? Còn thống kê về những kẻ sống ở miền Nam bị đòn tù ‘cải tạo’ thì sao, bao nhiêu chết trong trại tù (có thể trên 100 ngàn) và bao nhiêu được thả về để chết ở nhà hoặc lê lết bệnh tật chết mòn? 

Nhóm Ý Thức ở Phan Rang và các tỉnh miền Trung có tờ báo in ronéo Ý Thức và nhà xuất bản cùng tên tụ tập những cây viết Trần Hoài Thư, Võ Tấn Khanh, Mang Viên Long, Kinh Dương Vương, Hồ Mạnh Dũng, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Trần Hữu Ngũ, Châu Văn Thuận, Phạm Văn Nhàn, Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Nguyễn Lệ Uyên, Chu Trầm Nguyên Minh, v.v… Cũng phản đối chiến-tranh nhưng nhóm Ý Thức của những người cùng tuổi với nhóm Việt, tỏ ra phẫn nộ với lương tâm và ý thức công dân khác nhóm ở Huế. Thơ truyện của họ viết chống các cấp chỉ huy xôi thịt, những cách điều khiển chiến-tranh phi lý, phí phạm, tả những cảnh cực hình lao công chiến trường (Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư) hay cảnh tòa án quân sự, hay trốn lính, đào ngũ, trình diện trễ, bất tuân thượng lệnh, v.v… Các cây viết thuộc khuynh hướng này nói lên cái tiêu cực nhưng đồng thời họ đang cầm súng chống cộng-sản và bảo vệ miền Nam. Sự có mặt của họ cùng với các nhà văn khác như Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, các nhóm Thái Độ của Thế Uyên, Hành Trình của Nguyễn Văn Trung, Trình Bầy của Thế Nguyên, Diễm Châu, Giữ Thơm Quê Mẹ của văn nghệ sĩ và tu sĩ Phật giáo, Đối Diện của trí thức tu sĩ Công giáo (Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, …), v.v..; chứng tỏ miền Nam đã trưởng thành về chính trị, chấp nhận đối lập và tiêu cực dù trong tình cảnh chiến tranh khốc liệt, dù rằng đức tính đó (và nhân đạo) đã bị lạm dụng và trong nhiều trường hợp đã tỏ ra yếu kém (Vũ Hạnh, Lữ Phương, Tin Văn, nằm vùng, gián điệp, v.v…). So với nhóm Việt, nhóm Ý Thức nhiều người cầm súng, để bảo vệ miền Nam tự do, không lựa chọn, hay nói cách khác họ phải bảo vệ đất nước của họ, dù họ biết cấp trên có người không tốt, chính quyền có thành phần lợi dụng, phung phí tài nguyên. Lời của Trần Hoài Thư: “Tôi đang viết về một thảm kịch, cho con cháu chúng ta trong tương lai, để sau này khi lớn lên chúng sẽ hiểu về cuộc chiến này. Đêm qua, cả làng bên sông, nơi mà bọn tôi đã đến và gìn giữ, sau đó bàn giao lại cho nghĩa quân và xây dựng nông thôn, đã bị pháo dập. Địch kéo về cả đại đội chọc thẳng vào làng. Từ lâu những người bên kia đã coi cái làng như một cái gai cần phải nhổ bằng bất cứ giá nào. Những người ngồi ở Sài Gòn hay Hoa-thịnh-đốn thì muốn coi ngôi làng như một thành công trong chính sách bình định phát triển. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Họ đã ngu xuẩn để hiểu về kế hoạch bảo vệ dân làng về lâu về dài. Một trung đội nghĩa quân làm sao đủ sức che chở cả ngôi làng. (…) Tôi đã đến cùng với bãi hoang tàn để hiểu rõ hơn về sự thật của cuộc chiến. Cuối cùng cũng vẫn là dân vô tội. Rõ ràng chúng ta đã bị thua. Chúng ta đã đến với họ, mang lại niềm tin cho họ, nhưng chúng ta không thể bảo vệ họ…"(Nhật Ký Hành Quân). Cuộc chiến đã khiến con người đánh mất phẩm giá, trở thành biện minh dễ dãi cho mọi hành động: “Chiến tranh, tôi phải cảm ơn nó, để tôi có thể dẹp bỏ hết những sự ghê tởm, khinh bỉ cái quá khứ rục mửa của tôi. Chiến tranh đã giúp cho tôi thấy rõ rằng mọi sự là vô nghĩa, là hư vô. Đừng bận tâm và thắc mắc. Đừng tự ái và ghê tởm. (…) Xã hội này thối nát này phải cảm ơn chiến tranh…”. Người lính của Trần Hoài Thư đáng tội, chỉ vì anh có suy nghĩ, biết nhìn thấy những bất nhân và bất công, những tâm địa và tư cách của những kẻ cùng chiến tuyến!
Cần phải nhận định lại khuynh hướng này qua các tác giả Thảo Trường, Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, Thế Uyên, Trần Hoài Thư, Nguyên Vũ, Hoàng Khởi Phong, Luân Hoán, Thái Lãng, Nguyễn Bắc Sơn,… cũng như Kinh Dương Vương, Trần Hữu Lục, Thế Vũ, Trần Duy Phiên, Cung Tích Biền,…

Văn-nghệ phản chiến đã xuất hiện – và chỉ có ở miền Nam vì miền Bắc từ sau biến cố Nhân Văn Giai phẩm đã không có tiếng nói khác với điệp khúc cổ võ chiến-tranh của Đảng và Nhà Nước, và khuynh hướng văn-nghệ này lan rộng ở miền Nam từ những năm 1965, 1966 cho đến cuối cuộc chiến tháng Tư 1975. Đây là do ảnh hưởng và là hậu quả của phong trào phản chiến ở Hoa-kỳ và một số diễn đàn thiên tả ở Âu châu, phong trào “make love, not war”, khởi từ cuộc biểu tình cho hòa bình (Mother’s day Peace March) tại Hoa Thịnh Đốn ngày 14 tháng 4 năm 1965 sau khi Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng. Các sinh viên du học như Ngô Vĩnh Long, cùng các giáo-sư thiên tả như Noam Chomsky và Howard Zinn đi đến nhiều đại học thuyết trình về sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam cũng như tác động các cuộc biểu tình phản chiến của sinh viên Hoa-kỳ. Phong trào phản chiến được nuôi dưỡng thêm với những trí thức thiên tả như Bertrand Russell, Jean-Paul Sartre,… Và dĩ nhiên có ảnh-hưởng của nhạc phản chiến, bên cạnh phong trào sống hippy ở Âu Mỹ. Những phong trào nghệ-thuật cổ võ hòa bình ở Âu Mỹ đã tạo ra dòng nhạc phản chiến với những nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Nhạc phản chiến của Bob Dylan đã vào Việt-Nam qua những ca khúc với những lời lẽ tả thực chiến tranh cốt để chống đối, phản kháng. Còn ca sĩ Joan Baez từng đến hát Hà Nội năm 1972.
Người nghệ sĩ Việt-Nam nhảy vào cuộc chống đối qua âm nhạc với khuynh hướng nhạc “tâm ca” của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Khác với phong trào Du Ca (chính thức thành lập 19-12-1966 tại đại học Ðà Lạt) và một số phong trào Thanh niên thiện chí, Sinh hoạt học đường, CPS, …, Tâm ca kêu gọi hòa bình, tình đồng bào, còn nhạc Trịnh Công Sơn thì công khai tố cáo chiến tranh (nội chiến), kêu gọi hòa bình bên cạnh những ca tụng tình người, nô lệ da vàng, thân phận nhược tiểu:
Một buổi sáng mùa xuân / Một đứa bé ra đồng
Đạp trái mìn nổ chậm / Xác không còn đôi chân.
Nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành hiện-tượng và huyền thoại Trịnh Công Sơn vào những năm 1966-1972 vì nhạc của ông đã đáp ứng lại một số khát vọng của con người thời đại, nhất là ở chốn thị tứ, học sinh, sinh viên và một số trí thức. Ông diễn tả buồn đau trong thân phận làm người. Nhạc tình và nhạc tranh đấu kêu gọi hòa-bình và thân phận con người trong chiến tranh; những ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng như Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, Ðại Bác Ru Ðêm, Tình Ca của Người Mất Trí, Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy Mặt Trời,… Chiến tranh không còn từ xa vọng về mà nay đang ở trước mắt và với ông, đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn mà chính người Việt Nam đôi bên đều là nạn nhân. Dù sao cũng phải nhìn nhận Trịnh Công Sơn đã làm mới ngôn ngữ qua cấu trúc, hình ảnh cũng như những "ý tại ngôn ngoại" bí ẩn của con chữ! Từ năm 1968 tiếp đó nảy lên một khuynh hướng nhạc đấu tranh do Việt-cộng điều động với những Phạm Thế Mỹ, Miên Đức Thắng, Tôn Thất Lập, … cùng Trịnh Công Sơn.

- Trong khi đó, ấn phẩm cộng-sản Việt Nam cổ động, hô hào chiến-tranh – Văn học phản kháng, chống đối thẩm quyền miền Nam để hỗ trợ chiến-tranh chống Mỹ và xâm chiếm miền Nam. Nếu văn-nghệ sĩ miền Nam vì ước mơ hòa-bình mà phản chiến thì văn công miền Bắc cổ võ trường kỳ chiến-tranh nhưng lại nhân danh “hoà-bình”! Ấn phẩm cộng-sản cổ võ chiến-tranh đến cùng, không ngừng nghỉ, nêu đủ lý do để chiến-tranh (chống phong kiến, phát xít, ngoại xâm, thực dân mới, v.v…) với thơ văn chiến-tranh của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, … Hà-Nội chú trọng nhiều đến việc in tài liệu tuyên truyền và báo-chí trong bưng: cổ võ chiến-tranh, giết ‘kẻ thù’, … Tóm một chữ, thơ văn sát khí, cổ võ hờn căm, phân bạn chia thù. Một văn học của chiến tranh, chống Mỹ mà họ gọi là “sen đầm quốc tế”; văn học muốn “cứu nước” và cứu người miền Nam khỏi tay thực dân mới cũ (!). Đối với Cộng Sản mà cầu hòa là đầu hàng vô điều kiện, phản chiến là từ bỏ khí giới cho địch thủ ám sát mình. Những người trí thức, dù họ là ai, cũng chỉ nhìn vấn đề trong suy luận, chứ không thể nhìn trong thực tại, mà thực tại ở Việt Nam với cuộc chiến này nó khác hẳn với các cuộc chiến tranh trên thế giới. [Trong một bài trên tạp chí Sông Hương sau này, Lê Xuân Việt cho rằng, văn học trước 1975 ở miền Bắc “tập trung xây dựng hình tượng giàu tính lý tưởng về người anh hùng” do đó “yêu cầu phản ánh kịp thời, động viên tinh thần quần chúng đôi khi lấn át cả những đòi hỏi của chất lượng hình tượng văn học đáng ra cần phải đạt được mà người nghệ sĩ phải cần mẫn, miệt mài trong sáng tác” (“Kết cấu của tiểu thuyết Việt Nam về chiến tranh”. Sông Hương 10-1996. Tr. 57)].

* Về “Mảng” văn-nghệ Mác-xít, cộng-sản 1954-1975:
Trong hơn 20 năm văn-học miền Nam, đã có sự hiện diện của một khuynh-hướng văn-nghệ Mác-xít hay Mác-Lê và cộng-sản – chúng tôi phân biệt Mác-xít hay/và Mác-Lê thiên lý thuyết chính-trị và cộng-sản khi áp dụng vào đấu tranh cách-mạng và đời-sống cụ thể.
Từ thời đầu 1954 cho đến 1975 đều có những nỗ lực đến gần chủ nghĩa Marx, nhất là đối với một số trí thức, nhà văn Công-giáo thiên về đấu tranh cho công bằng xã hội, vì tự bản chất, đạo Thiên chúa đến với trần gian (qua Jesus) để đem đến công bằng xã hội, tình người, … chống lại người Do Thái đạo đức giả, v.v… Các tu sĩ các dòng Phanxicô, anh em hèn mọn (Phước sơn), v.v… sống gần và sống vì, sống với người nghèo, khốn khó, có những cá nhân tu sĩ và hội đoàn như Thanh sinh công (trụ sở ở chợ Cầu Ông Lãnh, Sài-Gòn). Nghĩa là chủ nghĩa Marx vào miền Nam qua các trí thức, sinh viên, tu sĩ du học ở Pháp, Bỉ, Ý về. Ông cố vấn Ngô đình Nhu (thời 1954-63) có những bài viết, diễn văn theo chiều hướng thiên tả này (chủ nghĩa Cần Lao, tạp-chí Xã Hội). Sau 1963 có những hội đoàn, nhóm trí thức, nhà văn thiên tả hay xã hội như Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Thanh Lãng, Thế Nguyên, v.v… Những mảng văn-hóa này được tự do phát triển, công khai – dĩ nhiên mảng văn thơ, sách báo cách-mạng do miền Bắc và Mặt trận Giải Phóng miền Nam điều động thì bị hạn chế nhưng không bị cấm đoán (chỉ bị kiểm duyệt phần nào). Nghiên cứu mảng văn-học này cần tham khảo các tạp-chí xuất-bản thời miền Nam, nhất là Trình Bầy, Hành Trình, Đối Diện, Đất Nước, Tin Văn, Văn Học,… cũng như báo-chí sinh viên từ các phân khoa Văn, Sư phạm Sài-Gòn, đại học Vạn Hạnh, v.v…
Khác với miền Bắc mà nền văn-nghệ cùng lý luận văn nghệ Mác-xít trong thực tế là một phó bản của thẩm mỹ học Liên Xô cộng-sản, ở miền Nam khuynh-hướng này tự do đi từ lý thuyết đến phát biểu cụ thể trong sáng-tác văn-nghệ. Miền Bắc cộng-sản đã lập “khung tri thức” định hướng cho các sinh hoạt sáng tác và lý luận phê bình văn học, mà gần đây nhiều nhà lý luận văn-nghệ đã nhận chân và chứng minh những hạn chế hiển nhiên của phản ánh luận Mác-xít trong phiên bản Xô Viết, dưới ánh sáng của “nhóm Bakhtin, lý thuyết về chủ nghĩa hiện thực của G. Lukacs, v.v… Phó bản thẩm mỹ học Mác-xít Xô-Viết mà nền lý luận văn nghệ Việt Nam tiếp thu thời này đã không tránh khỏi nhiều hạn chế, với những Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Nguyên, …
Trong khi đó, ở miền Nam, nói đến triết lý và văn-nghệ Mác-xít và cộng-sản là người ta nghĩ ngay đến điểm khởi hành với các giáo-sư Trần Văn Toàn, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, v.v… Nếu giáo-sư Trần Văn Toàn trình bày giới thiệu chủ nghĩa Mác gần như thuần túy giáo khoa, triết lý – qua Tìm Hiểu Triết Học Karl Marx (Nam Sơn, 1965. 160 tr.), thì giáo-sư Nguyễn Văn Trung vừa giới thiệu vừa áp dụng vào lý luận văn-nghệ và sáng-tác. Bộ Hành Trình Trí Thức của Karl Marx chỉ mới xuất-bản tập 1 “Con người và cuộc đời” (Nam Sơn, 1969. 150 tr.), trong Lời Nói Đầu đã khởi đi từ nhìn nhận rằng “chủ nghĩa Mác chưa lỗi thời, phong trào Cộng-sản chưa trở thành một sự kiện lịch-sử đã qua vì phong trào Cộng-sản vẫn đang làm lịch-sử và trên bình diện tư tưởng, chủ nghĩa Mác vẫn cống hiến một số phạm trù, lược đồ xác đáng để lãnh hội và phân tách những thực tại chính-trị, xã-hội, văn-hóa…“ (Tr. II). Lời cuối tập là một lời thán phục con người, cuộc đời và hành trình trí thức của Karl Marx, dù có thể không đồng ý với quan niệm và chủ trương của ông ta. Có thể các lập luận này đưa đến hiện-tượng nghiên cứu, thảo luận về chủ nghĩa Mác-xít lúc bấy giờ; Mác-xít hết còn là cấm kỵ?
Giáo-sư Nguyễn Văn Trung còn soạn các giáo trình Nhận Diện Marx (Cours 1970, 212 tr.) và Lê-nin (Lý luận cách-mạng) (Giảng văn dùng cho sinh viên các trường đại học, niên khóa 1972-73). Ở cuốn trước, giáo-sư đặt vấn-đề nhận diện, còn trong cuốn sau, viết năm 1970, năm kỷ niệm 100 sinh nhật Lênin, và thể theo “yêu cầu của mấy trường Đại học, đặc-biệt trong những khóa nghiên cứu học hỏi về Chủ nghĩa Mác-Lênin”, giáo-sư cụ thể nói đến các chiến lược chiến thuật làm cách-mạng và những bài học cách-mạng mà Lênin đã để lại.
Các tác-phẩm và giảng văn nói trên đã giúp sinh viên và người đọc hiểu hơn tư tưởng và ý thức hệ Mác-Lê và có thể đã góp phần can thiệp một cách trí thức và ý thức vào những vận động cách-mạng và chính-trị ở miền Nam lúc bấy giờ. Có sinh viên đã tham gia các phong trào thiên tả, thiên cộng cả ngay ở môi trường đại học (ra báo, in tài liệu gọi là ‘học tập’ có lợi cho cộng-sản), cả vào “bưng” theo “cách-mạng” (khi bị lộ hoặc tự nguyện, như thư-từ gởi cho giáo-sư Trung từ mật khu – trường hợp Trường-Kháng Lê P.Đ.,…** ) và có sinh viên trở nên triệt để hơn trong việc chống Cộng và có người đã trở thành nạn nhân của người cộng-sản Việt-Nam (Ngô Vương Toại, Lê Khắc Sinh Nhật, Bùi Hồng Sĩ,…).
Người Cộng sản VN có lối nhìn khác, xem chiêu bài ‘văn-nghệ dân-tộc’ là văn-nghệ Mác-xít, như các giáo-sư Trần Hữu Tá, Trần Hoài Anh,… Đây là một chủ nghĩa Mác-xít bị/được các Đảng cộng-sản và chính quyền cộng-sản sử-dụng như là công cụ, phương-tiện tranh đấu, chứ không còn là một triết lý nguyên thủy. Nay thì đã rõ, đấy chỉ là chiêu bài và Vũ Hạnh theo cộng-sản từ trước đã tiếp tục ‘nằm vùng’ thi hành mặt trận văn-hóa của Việt-cộng. Mỹ học hay văn-chương đều không/khó có thể tìm thấy trong những gì Vũ Hạnh, Lữ Phương,.. đề cao, cổ động trong suốt thời-gian này. Còn quan điểm mỹ-học Mác-xít là gì? Phê-bình Mác-xít trong văn-học là gì? Chỉ là quan điểm văn-học cách-mạng dùng cho mặt trận đấu tranh tư tưởng, để đối chọi với cái được gọi là ‘cuộc xâm lăng văn-hóa’ của ‘chủ nghĩa thực dân mới’.
Thứ nữa, họ hay nhắc nhở, nói đến vai trò, trách nhiệm, sứ mạng của nhà văn! Phải đứng về phía đông đảo, phía những người bị thiệt thòi trong xã-hội! Phải đấu tranh cho tự do, dân-chủ! Phải yêu nước, phải ý thức về dân-tộc và ‘tổ quốc, quê-hương’! Phải hướng về nguồn cội! Từ đó, Vũ Hạnh phê-bình tác-phẩm của Chu Tử là thác loạn, sa đọa, ích kỷ, Vũ Khắc Khoan ảo tưởng,… Còn Lữ Phương đề cao tinh thần yêu nước và cách-mạng nhất là giới trí thức, và tác-phẩm phải gắn liền với thực tại xã-hội, từ đó phê phán nặng nề Hồ Hữu Tường, Lê Xuyên, Minh-Đức Hoài-Trinh, Chu Tử, Nguyễn Thị Hoàng, Dương Nghiễm Mậu,… Nguyễn Trọng Văn cũng theo con đường đó phê phán Nguyễn Văn Trung, Đỗ Long Vân,…
Trong một chiều hướng nào đó, nói đến dân-tộc là kéo lùi văn-nghệ, biến văn-học thành ca dao, truyện cổ,…  Ngoài đặc tính dân-tộc, văn-học bình dân có tính giai cấp, văn-chương có tác-giả và đặc tính riêng và thường là của một tầng lớp xã-hội nào đó (trí thức, tiểu tư sản,…). Khi Pháp chiếm miền Nam lục-tỉnh đã sử-dụng Nho giáo và luân lý, phong hóa Việt xưa để thu phục nhân tâm với mục-đích yên bề thống trị. Lực lượng Bảo vệ Văn-hóa Dân-tộc được thành hình từ bưng biền của MTGPMN, mặt công khai với nhóm Tin Văn và những Vũ Hạnh, Lữ Phương,… cũng sử-dụng những cái gọi là “văn-hóa dân-tộc” để gây chống đối ở miền Nam.
Lữ Phương viết Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (Hà-nội: Văn hóa, 1981, tái-bản 1985) dựa trên một thứ đạo đức (giả hiệu) và dân-tộc (tức tổ quốc thành đồng) để lý luận, phê bình chống văn-nghệ miền Nam. Tập sách của ông ta do đó khá chi tiết và có cơ sở lý luận cộng-sản. Ông ta đã chứng minh "thực dân mới Mỹ" và các chính quyền miền Nam dùng "chiến-tranh và bạo lực văn-hóa tư tưởng" để "xâm lược" và "bành trướng" cùng "chiến-tranh tâm lý là đòn bẩy của mọi hoạt-động văn-hóa – tư tưởng" (tr. 31, 37), trong đó các viện đại học cũng như nhóm văn-hóa văn-nghệ như Sáng Tạo, Hiện Đại, Văn Hữu Á-Châu, Quan Điểm,…  được đưa lên bàn mổ. Ông gọi tập thể các nhà văn hóa và văn-nghệ sĩ miền Nam là "đội quân văn-hóa phản động", là ‘tay sai của đế quốc Mỹ’, trong đó có Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Côn, Lý Đại Nguyên, Dương Nghiễm Mậu,  Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, LM Hoàng Sỹ Quý, v.v… Văn-hóa dân-tộc chủ trì bởi những Kim Định, Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Thái Văn Kiểm, Nguyễn Sĩ Tế,… là những nhà lý thuyết theo ông là "bản địa" và lạc hậu, thần bí,… không … khoa học như … Mác-Lê cộng-sản. Ông còn có âm mưu và triệt để hơn khi bàn đến các khuynh-hướng triết lý văn-học hiện sinh, cấu trúc trong chương về lối sống Mỹ hoặc văn-chương đồi trụy, tình dục,… Không riêng gì LP, các giáo-sư và giới nghiên cứu của miền Bắc trước 1975 và cho đến nay vẫn gán ghép Sartre và thuyết hiện sinh với lối sống họ gọi là ‘tiêu cực, suy đồi, công cụ của đế quốc, kẻ thù’ của một số thanh niên Pháp ở St-Germain-des-Prés là hình ảnh phụ vào ngay sau chiến-tranh 1945, từ đó gán ghép trùm lên đầu sách báo của miền Nam muốn hiện đại, cập nhật với Âu Mỹ! Từ những năm đầu thập niên 1960, giới trí thức và chính-trị ở miền Nam đã phê phán chủ nghĩa hiện sinh làm nhụt nhuệ khí chống Cộng (báo Văn Đàn…). Người cộng-sản miền Bắc cũng phê phán nặng nề Sartre và thuyết hiện sinh: Đỗ Đức Hiểu trong Phê Phán Văn-Học Hiện Sinh Chủ Nghĩa (Văn Học, 1978) đã phê phán nặng nề mảng văn-học này, như muốn làm … tiêu tan ý chí chống đế quốc, thực dân mới và tay sai.

-Trần Hoài Thư: Nếu xem văn chương đích thực là văn chương vì con người, cho con người, tôi nghĩ hầu hết nhà văn nhà thơ – trừ một số ít chủ chiến- đều ít nhiều mang tư tưởng chống chiến tranh hay nói nôm na là phản chiến.
Có điều nếu kết án một tác phẩm chống chiến tranh thì lời kết án nhẹ hơn nếu kết án tác phẩm là phản chiến. Tại sao? Có lẽ xã hội VN đã bị cái chữ “phản” này hành hạ quá nhiều nên đâm ngán. Nào là phản động, phản đảng, phản bội… Để cuối cùng là những cái chết ghê rợn như tố khổ, chôn sống, trấn nước… hay cho một phát súng cùng với bản án treo quanh cổ…
Nhưng mà, một câu hỏi là tư tưởng có thể hiện qua hành động hay không? Có bỏ ngũ để nhập vào hàng ngũ địch? Có quay mặt với trách nhiệm hay không? Có chưa đánh đã đầu hàng không? Có chu toàn nhiệm vụ hay không?
Xin nhớ hành động phản chiến khác với tư tưởng phản chiến. Hành động có thể là làm thầy tu bất đắc dĩ, trốn lính, chấp nhận ở tù hay phá hủy thân thể. Nhưng tư tưởng thì ở trong đầu và được trút ra trên giấy. Ra trận dù rét run, dù phản chiến nặng, nhưng không chạy, không bò, không hò hét xung phong, không ném lựu đạn, không bóp cò, thì một là hắn bị đưa ra tòa án quân sự, hai là hắn bị kẻ thù giết trước.  Chứ không biện hộ là tôi chống cuộc chiến nhơ bẩn này, tôi không hành quân. Ở đó mà biện hộ.
Nếu kết án thì giữa những tiếng nói trầm thống bi thiết phát xuất từ những người có mặt thật sự trong cuộc chiến như thế này: “Cuộc chiến lan rộng rồi. Cuộc chiến đã vượt qua biên giới Việt Nam, đã vượt khỏi biên giới Cam-pu-chia, đã tràn sang tới Hạ Lào.
Tôi ù tai vì tiếng động cơ, vì tiếng nổ của các thứ máy móc giết người mà tôi biết không phải là sản phẩm kỹ nghệ Việt Nam. Tôi choáng váng trước cái cảnh từng lớp người gục xuống. Về tới đơn vị, hình ảnh ghê rợn, hãi hùng của cả một tấm thảm nhiều màu dệt bằng xác người đó, đêm đêm vẫn ám ảnh tôi, chắc sẽ ám ảnh tôi đến khi thôi sống. Tôi không thể phân biệt được đâu là xác người chiến sĩ Quốc Gia, đâu là xác người Cộng Sản. Điều chắn chắn, ông ơi, thì đó chỉ là xác của người Việt. Và là những người chưa kịp sống. Nghĩa là những người trẻ. Phải làm một cái gì. Chậm quá rồi chăng?
(một lá thư, một vấn đề,  tạp chí Vấn Đề số 49 tháng 8-1971)
một đoạn trong truyện “Phố miền Nam” của Ngụy Ngữ đăng trên Vấn Đề số 50 tháng 9-71, chủ trương Vũ Khắc Khoan & Mai Thảo: “Thành phố đang sinh hoạt bình thường, chợt có tin lính rằn ri đổ đến, tất cả nhốn nháo sợ hãi và những cánh cửa tiếp theo nhau khép nhanh lại, chợ tan, người thưa thớt tới lui khép nép, khắp các đường lớn đường nhỏ không còn một bóng gái trai…” (Phố miền Nam – Vấn đề 50 tháng 9-71). 
Hay một đoạn truyện ngắn khác cũng trên Vấn Đề: “Những hình ảnh thoáng hiện, tan nhanh đi, rồi lại thảng thốt hiện ra lại, tiếp vào những hình ảnh khác: những mặt trận đêm, những trại đồn, những vách tường trơ trọi cháy đen, những thằng Đại Hàn man rợ cắm cái đầu người trước xe jeep, những xâu chuỗi kết bằng tai người khô queo, những họng súng bắn vào dân tị nạn…(Theo những đường bay đi xa – Vấn Đề 46 tháng 5-1971).
Hay trong truyện “Với trăng hạ tuần lên” của Ngụy Ngữ mà tựa truyện, tên tác giả được “vẽ thêm một lớp sơn bóng ngời” trên trang bìa, ngay phía dưới là tên hai người chủ trương Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo: “… Không. Vâng, không phải người  ta quay lại cảnh khốn nạn đó để đám thanh niên Nam Việt sợ không dám đầu quân đi lính để chết mất xác bên Miên bên Lào hoặc để lên án cuộc chiến tranh phi nhân đang thiêu sống cả một thế hệ thanh niên trên khắp bán đảo Đông Dương này, mà trái lại, là đang hỗ trợ thêm cho chiến tranh, đang vẽ thêm một lớp sơn bóng ngời trên cái vóc dáng biệt kích của bọn lính Nam Việt, ve vuốt vào cái kiêu hãnh bệnh hoạn của chúng, kéo chúng ở lại trong hàng ngũ để bảo vệ cái dải đất tăm tối thời Mỹ này khỏi rơi vào "vòng nô lệ của Cộng Sản" (Vấn Đề số 52 tháng 11-71).
Như vậy giữa tư tưởng phản chiến và những tội ác, xấu xa mà Ngụy Ngữ đã chụp trên những người lính miền Nam chúng tôi, thì cái nào mới là đáng buộc tội, lên án?
Tôi cũng tự hỏi, sau khi các truyện này đăng, không biết có phản ứng nào về phía độc giả hay nhà văn/nhà thơ/ mang áo lính tại Saigon mà sao Vấn Đề càng ngày càng thừa thắng xông lên?
Tôi tự hỏi tại sao Mai Thảo và Vũ Khắc Khoan là nhà văn xem như chống Cộng, lại chấp nhận cho đăng? Chẳng những thế còn quảng cáo ngoài trang bìa?
Hay là vì miền Nam có tự do, tôn trọng quyền tự do trong ý thức sáng tác mà tạp chí Vấn Đề chủ trương?
Tôi cũng tự hỏi, nếu người dân miền Bắc đọc các đoạn này thì họ nghĩ gì? Giữa một bản nhạc TCS: Khi đất nước tôi thanh bình tôi sẽ đi thăm… và 3 đoạn này (cùng nhiều đoạn trong hầu hết các truyện của Ngụy Ngữ), cái nào tác hại cho công cuộc chống Cộng hơn?

-Nguyễn Lệ Uyên: Đây là đề tài rộng, cần rất nhiều trang giấy. Trong khuôn khổ một tạp chí giới hạn trên dưới 300 trang thì không thể tải hết.
Vắn tắt thì thế này: Phản chiến? Từ này khó xác định. Theo tôi phản chiến dành để chỉ cho một hành động tích cực của một hay nhiều chủ thể (và ngược lại với phía đối lập) một cách rõ ràng. Hành động phản chiến của nhóm J. Fonda trong chiến tranh Việt Nam là một hành động có ý thức và tích cực đối với bọn họ và ngược lại rất dối trá với sự thật hiển nhiên đối với bên bị phản đối. Những ca khúc phản chiến của Bob Dylan và gần hơn với chúng ta là Ca khúc da vàng của TCS, thì đó là những âm thanh và ca từ mang ý thức phản kháng bắt nguồn từ nghệ thuật (kể cả những bức tranh của Picasso vẽ về cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha chẳng hạn) hướng về mục tiêu phơi bày bộ mặt phi nhân tính đối với các bên tham gia, không thiên về phe nào, bên nào.
Giai đoạn 54-75, ở miền Nam không thiếu các tờ báo núp dưới danh “đối lập, phản chiến”, thực chất là do CS giật dây. Những Lê Văn Ngăn, Ngô Kha, Thái Ngọc San, Võ Trường Chinh, Võ Quê, Lê Gành… chỉ là những kẻ theo đóm ăn tàn, chưa phải và cũng chưa xứng đáng gọi là phản chiến hay danh giá hơn theo cách gọi của CSVN là văn học Mác-xít. Đơn giản thơ văn của họ đơn điệu ở chỗ kêu gào, khi sử dụng văn vần để chuyển tải nội dung, và thiếu hẳn tính chất nghệ thuật, thiếu cả chiều sâu lắng của nội tâm. Chúng không hề là nghệ thuật, mang tính tố cáo một chiều, trái với bản chất nghệ thuật chân chính.
Giai đoạn 63-75 đặc biệt phức tạp, kể từ khi nền đệ nhất Cộng Hòa bị lật đổ và quân Mỹ kéo vào miền Nam. Xã hội bị xáo trộn, bị lật tung lên, mọi giá trị văn hóa truyền thống nhấp nhổm như làm xiếc, có nguy cơ tiêu vong từng phần. Lợi dụng tình thế này, CSVN tung cán bộ vào các bộ phận xã hội miền Nam, từ kinh tế, chính trị, tôn giáo đến văn hóa văn nghệ. Những tạp chí Đất Nước, Đối Diện, Hành Trình, Trình Bày, Tin Văn… với hàng loạt các khuôn mặt giả danh yêu nước nổi lên công kích một chiều. Hiệu ứng của nó phần nào có kết quả bởi sự có mặt của quân đội đồng minh (Nam Triều Tiên, Úc, Thái Lan) của Mỹ tại miền Nam, như hiện thân của kẻ đi xâm lược, và là nỗi ám ảnh nặng nề của người dân vừa mới thoát khỏi sự cai trị của thực dân Pháp. Chiêu bài thực dân kiểu mới được CSVN dựng lên, rồi được sự tiếp sức của những Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lữ Phương… trên những tạp chí phát hành công khai tại Sài Gòn!
Thực chất, thì với những tạp chí này, với các nhà văn này, không hề đối lập trên bình diện phản biện xã hội mà là sự lợi dụng tự do dân chủ ở miền Nam để khuấy rối xã hội, chính trị, làm nhiễu chính nghĩa cần được phát huy, bảo vệ: Tự Do, Dân Chủ.
Như vậy, vấn đề anh Nguyễn Vy Khanh đặt ra, tôi không nghĩ nó là dòng văn học Mác-xít bên cạnh dòng văn học tự do của Miền Nam; bởi dòng văn học nào, thì ít nhất nó cũng phải mang chút ít tính nghệ thuật, đằng này chỉ là những lời rao tuyên truyền, dựng đứng những sự việc không thật một cách trắng trợn để làm phân rã ý thức là mục đích cuối cùng của họ để chiếm lĩnh, nhuộm đỏ miền Nam. Nghệ thuật chưa bao giờ mang tính chất đó.
Trường hợp tạp chí Vấn Đề cho đăng những mẩu truyện của Ngụy Ngữ như anh Trần Hoài Thư vừa dẫn, tôi nghĩ là một trường hợp biệt lệ. Hai ông Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo, là những người từng hiểu cộng sản hơn ai hết. Vậy có phải chăng người phụ trách thư ký tòa soạn đọc văn bản không kỹ, vì cứ cho Ngụy Ngữ là nhà văn đã quen thuộc với độc giả rồi, xem qua loa và ném cho bộ phận sắp chữ? Thứ đến, khi nộp bản, các quan chức bên Sở kiểm duyệt tin ở hai ông VKK và MT chăng? Đây là trường hợp khá lạ lùng, xuất hiện vào thời điểm Sở kiểm duyệt bắt đầu siết chặt các tạp chí, bắt đổi thành “giai phẩm”.

-Trần Văn Nam: Câu hỏi của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh, thực ra là câu gợi ý cho ta tìm hiểu “thực chất và huyền thoại” của tính phản chiến trong chiến tranh 1954-1975, nhất là sau khi nửa triệu quân Mỹ tham chiến trực tiếp tại miền Nam thời Đệ Nhị Cộng Hòa (Miền Nam Việt Nam). Chắc còn lắm “thực chất và huyền thoại” mà ta chưa được biết. Riêng tôi có vài ý kiến về ba dạng phản chiến. Thứ nhất là “Phản Chiến Địch Vận” của phe Cộng Sản nhắm làm chán chường chiến tranh trong hàng ngũ Miền Nam. Thứ hai là “Phản Chiến Nhân Bản”: Công kích chiến tranh rộ lên từ dư luận thế giới, họ xót đau cho nhân dân Việt Nam, chủ yếu là công kích Hoa Kỳ. Và thứ ba, “Phản Chiến Thở Than Thân Phận Đất Nước”: Do có lệnh cấm rồi cứ để mặc cho phổ biến văn thơ và âm nhạc phản chiến lưu hành rộng rãi, nên ta nghĩ có thể đây là sách lược Tâm Lý Chiến của chính quyền Miền Nam. Phải chăng đó là cách động viên quần chúng Miền Nam đừng ngả về phe Xã Hội Chủ Nghĩa: ngầm nhắn nhủ người Việt ở Miền Nam đằng nào cũng phải ở về một phía trong thế kình địch giữa Cộng Sản và Tư Bản, số phận đất nước đã an bài trên bàn cờ quốc tế.
Trần Doãn Nho: Về điểm này, tôi cũng đã trình bày khá kỹ trong bài thuyết trình của tôi tại tòa soạn nhật báo Người Việt ngày 6/12/2014, mời xem lại trong số báo này.

(Xem tiếp PHẦN 2)










No comments: