Ngô
Nhân Dụng
Tuesday,
December 16, 2014 7:17:06PM
Tuần
trước, bà Dianne Feinstein, một nghị sĩ Dân Chủ tiểu
bang California mới công bố một bản phúc trình hàng ngàn
trang tố giác Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA) đã tra tấn
những người tình nghi thuộc tổ chức khủng bố
al-Qaeda, trái với luật pháp nước Mỹ. Bản phúc trình
cũng nói CIA không báo cáo đầy đủ cho chính phủ và
Quốc Hội Mỹ về việc tra tấn; và cho rằng phương pháp
tra tấn không đạt được mục đích tìm ra tin tức hữu
ích trong công tác chống khủng bố. Bản phúc trình của
Ủy Ban Tình Báo trong Thượng Viện Mỹ không đưa ra một
khuyến nghị cụ thể nào, ngoài các quy tắc chung chung.
Cuộc
tranh luận về vấn đề này đang sôi nổi, không riêng
trong nước Mỹ mà còn ở khắp thế giới. Ba vị cựu
giám đốc CIA và ba phó giám đốc đã viết chung một bài
trả lời bản phúc trình Feinstein. Họ cho biết CIA đã
báo cáo 30 lần với Quốc Hội Mỹ về các hoạt động
này, mà họ gọi là “chương trình hỏi cung” với “biện
pháp mạnh” (the enhanced measures).
Trước
hết, “chương trình hỏi cung” của CIA có hiệu quả,
đặc biệt đối với hai cán bộ al-Qaeda cao cấp được
bản phúc trình nói đến nhiều lần là Abu Zubaydah và
Khalid Sheikh Muhammed, gọi tắt là KSM. Các cuộc hỏi cung
được bản phúc trình Feinstein mô tả rất kỹ đã giúp
chính quyền Mỹ ngăn chặn được những vụ khủng bố
lúc còn đang được al-Qaeda hoạch định ở Mỹ và khắp
thế giới, có thể đã cứu sống hàng ngàn người Mỹ
và người nước khác. Ngoài ra, vụ tìm ra và hạ sát
Osma bin Laden cũng đều nhờ các tin tức lấy được trong
các “chương trình hỏi cung” tương tự, nhất là việc
xác định tung tích “người đưa thư” của bin Laden,
nhờ thế tìm ra nơi ông ta trú ẩn. Nhờ công tác hỏi
cung của CIA mà nước Mỹ không bị khủng bố tấn công
trong 13 năm qua.
Kể
từ năm 2002, CIA đã báo cáo với Bộ Tư Pháp Mỹ và xin
ý kiến bốn lần. CIA đã hai lần ngưng các vụ hỏi cung
“mạnh tay” trong thời gian Bộ Tư Pháp điều tra. Nhân
viên CIA đã đưa trình Bộ Tư Pháp 20 trường hợp để
xin ý kiến. Bộ Tư Pháp chỉ thấy một vụ phạm luật,
không liên can đến “chương trình hỏi cung” đang bàn
cãi; sau đó nhân viên vi phạm đã bị bỏ tù. Bộ trưởng
Tư Pháp đương nhiệm trong chính phủ Obama sau một cuộc
điều tra vào năm 2012 đã kết luận rằng công việc hỏi
cung của CIA có tính chất chuyên nghiệp, rốt ráo và
không vi phạm một lỗi lầm nào đáng bị truy tố. CIA
cũng báo cáo với Quốc Hội Mỹ 30 lần và mỗi lần đều
không đại biểu nào phản đối.
Các
vị cựu lãnh đạo CIA cũng nhấn mạnh đến thời gian
tính của việc dùng các “biện pháp mạnh” kể từ năm
2002, khi mới bắt được Abu Zubaydah. CIA đã phúc trình
với các đại biểu Quốc Hội trong các ủy ban tình báo
như các nghị sĩ Bob Graham, Richard Shelby, và các dân biểu
Nancy Pelosi, Porter Goss. Lúc đó cả nước Mỹ đang lên cơn
sốt sau vụ tàn sát 9/11 cho nên không ai phản đối khi
CIA trình bày chi tiết về các mánh khóe lảng tránh của
Zubaydah cũng như các kỹ thuật hỏi cung được áp dụng
để lấy thêm tin tức. Họ kết luận rằng bây giờ Ủy
Ban Tình Báo Thượng Viện đã thay đổi thái độ vì gió
đã đổi chiều, mối lo sợ của dân Mỹ không còn căng
thẳng như những năm trước nữa. Tóm lại, việc công bố
bản phúc trình Feinstein là do động cơ chính trị. Một
hậu quả là nhân viên CIA từ này sẽ lo lắng hơn trong
khi thừa hành nhiệm vụ, và cơ quan tình báo của các
nước đồng minh với Mỹ sẽ bớt tin tưởng vào việc
hợp tác với CIA. Theo bản phúc trình năm 2013 của một
tổ chức quốc tế, Cơ Quan Xã Hội Mở (Open Society
Foundations), thì có 54 quốc gia đã cộng tác với CIA trong
chương trình đặc biệt tìm bắt khủng bố, trong đó có
11 nước quanh vùng Trung Ðông (Algeria, Egypt, Iran, Iraq,
Jordan, Morocco, Saudi Arabia, Syria, Turkey, United Arab Emirates và
Yemen).
Người
dân Mỹ sẽ phán xét ai có lý, ai hành động vì công ích,
trong việc công bố bản phúc trình này. Nhiều người Mỹ
có thể hổ thẹn nhưng họ cũng nên hãnh diện khi cuộc
tranh luận về CIA diễn ra và phơi bày trước công luận
toàn thế giới.
Trước
hết, hiện tượng này cho thấy quyền giám sát của người
dân đối với chính phủ, áp dụng trên tất cả các cơ
quan công quyền. Bà Feinstein có thể hành động vì lý do
chính trị. Bà ngồi trên nội dung bản phúc trình này bấy
nhiêu năm, nay đem ra công bố vì từ Tháng Giêng năm 2015
bà sẽ không còn giữ địa vị quan trọng trong Ủy Ban
Tình Báo của Thượng Viện nữa, khi các nghị sĩ đảng
Cộng Hòa chiếm đa số nhậm chức. Ðây là một cơ hội
để bà “lấy điểm” trước các cử tri vẫn ủng hộ
mình. Nhưng bà cũng làm một công tác hiến định; nước
Mỹ phải có những đại biểu Quốc Hội dám chỉ trích
việc làm của các cơ quan trong nhà nước. Hành động của
bà thể hiện một quyền thiêng liêng của các công dân
Hợp Chúng Quốc: Quyền được biết các cơ quan nhà nước
làm việc như thế nào; quyền giám sát và phê phán guồng
máy nhà nước được họ ủy nhiệm làm công việc cai
trị. Quyền giám sát đó cho phép các công dân, khi bầu
chọn một chính quyền lên trị nhậm trong hai năm, sáu
năm hoặc bốn năm, bắt những người nắm quyền phải
chịu trách nhiệm về mọi hành động của guồng máy cai
trị. Hệ thống chính trị này dựa trên các định chế
dân chủ, trong đó có tinh thần tôn trọng luật pháp, tự
do ngôn luận, tư pháp độc lập, quyền phản kháng không
bạo động, và vai trò giám sát của Quốc Hội. Ðó là
những định chế giúp thể hiện nguyên tắc chính quyền
chỉ “cai trị với sự đồng ý của người bị cai
trị.” Những vị cựu giám đốc CIA có thể phản đối
những nhận xét sai lầm của bản phúc trình nhưng không
ai khước từ những quyền căn bản của các công dân
nước Mỹ.
Trong
quá khứ, các công dân Mỹ đã thể hiện một quyền căn
bản là tìm hiểu và phơi bày trước công luận những
điều họ coi là vi phạm Hiến Pháp, luật pháp, và những
nguyên tắc lớn của chế độ dân chủ; với hậu quả
là “bêu xấu” chính quyền Mỹ trước công luận thế
giới. Một công dân đã cho phép báo chí Mỹ in những
hình ảnh cuộc thảm sát Mỹ Lai. Các nhà báo đã phơi
bày những vi phạm pháp luật của Tổng Thống Nixon trong
vụ Watergate. Các công dân Mỹ đã phản đối chương
trình nghe lén điện thoại của chính phủ, gây bối rối
cho cả việc bang giao với đồng minh. Hiện nay dân Mỹ
đang phản đối hành vi của các cảnh sát viên giết lầm
những người da đen bị tình nghi vì phản ứng vội vã -
hoặc vì thành kiến chủng tộc như có người tố cáo.
Tất cả những hành động tố giác và những cuộc bàn
cãi công khai tiếp theo có thể nói là “vạch áo cho
người xem lưng.” Nhưng chính dân Mỹ làm công việc
“vạch áo” này mà không cần phải hổ thẹn. Ngược
lại, họ có thể hãnh diện vì vẫn sống đúng truyền
thống dân chủ tự do đã được nêu ra trong Bản Tuyên
Ngôn Ðộc Lập, trong Hiến Pháp nước Mỹ từ hơn 200 năm
nay. Bản phúc trình Feinstein cho thấy hệ thống chính trị
nước Mỹ vẫn đầy sinh lực giúp cho quốc gia này luôn
luôn có khả năng tự cải thiện.
Người
Việt Nam chứng kiến cuộc tranh cãi về bản phúc trình
Feinstein phải đặt câu hỏi: Bao giờ nước ta mới có
những bà Feinstein? Quốc Hội bù nhìn không bao giờ làm
công việc chất vấn về những vụ công an tra tấn. Bao
nhiêu người đã chết trong tay công an? Bao nhiêu người
bị gán cho là “tự tử” trong đồn công an sau các cơn
tra tấn?
Công
an dùng nhục hình, tra tấn là nguyên nhân gây ra bao nhiêu
vụ xử oan ở nước ta. Trong một bài trước, mục này
đã nêu trường hợp ông Hàn Ðức Long bị tử hình năm
2005 về tội hiếp dâm và giết một bé gái năm tuổi.
Qua nhiều lần kháng cáo, với 5 phiên tòa, năm 2011, tòa
án tỉnh Bắc Giang tiếp tục tuyên án tử hình. Luật sư
của ông Long cho biết khi bị điều tra ông Long đã “nhận
tội” vì tra tấn, đánh đập. Trong tất cả 5 phiên tòa
ông một mực phản cung, kêu oan, và tố cáo bị công an
truy bức bằng nhục hình, buộc phải nhận tội. Cho đến
nay, sau gần 10 năm bị bắt, tử tù Long và gia đình vẫn
không ngừng kêu oan.
Guồng
máy công an trong các xã hội độc tài đảng trị đều
dùng tra tấn; gây nên bao cảnh bất công. Ở nước ta bao
nhiêu người đã là nạn nhân của chế độ côn đồ
này. Các mạng lưới bên Trung Quốc đang sôi nổi về một
vụ án được xử lại. Năm 1996, một thanh niên 18 tuổi
người Nội Mông là Huugjilt (tên Hán Việt là Hao Các Cát
Lặc Ðồ) bị tử hình về tội hiếp dâm và giết người,
bị hành quyết ngay hai tháng sau. Năm nay, tòa án đem xử
lại và tuyên bố Huugjilt vô tội. Vì năm 2005, một tử
tội khác, một người đã phạm tội hiếp dâm và giết
người nhiều lần là Zhao Zhihong (Triệu Chí Hồng) thú
nhận rằng chính anh ta là hung thủ trong vụ án 1996.
Khi
ra tòa, công tố viên hỏi Huugjilt tại sao anh ta đã thú
tội trong đồn công an là chính mình hiếp và giết người.
Huugjilt trả lời, lời khai còn giữ trong biên bản, nói
rằng trong đồn công an họ không cho anh uống nước, cũng
không cho ăn, không cho dùng nhà vệ sinh. Họ nói (dối)
với anh rằng cô gái vẫn còn sống và chính cô ta tố
cáo anh là thủ phạm. Họ còn hứa hẹn nếu anh thú tội
thì sẽ được thả. Phải đợi 9 năm kể từ khi hung thủ
thật thú tội, 18 năm sau khi Huugjilt chết, sau khi dư luận
trên các mạng phản kháng ồn ào, Huugjilt mới được đem
xử lại và được trắng án. Quan tòa an ủi cha mẹ anh
ta bằng số tiền bồi thường 30,000 đồng nguyên, khoảng
5,000 đô la Mỹ.
Nhân
vụ trên các mạng xã hội bên Trung Quốc cũng lên tiếng
phản đối một vụ hành quyết khác. Năm 1994, anh Nie
Shubin (Nhiếp Thọ Bân) bị kết tội giống như Huugjilt,
chết lúc mới 21 tuổi. Ðến năm 2005, hung thủ thật bị
bắt vì chuyện khác cũng thú mình mới là thủ phạm.
Nhưng cho tới nay guồng máy tư pháp của Trung Cộng vẫn
chưa minh oan cho Nie Shubin.
Bao
giờ ở nước ta mới có những đại biểu Quốc Hội lên
tiếng việc dùng tra tấn, nhục hình? Chỉ khi nào những
người như Tạ Phong Tần, Bùi Thị Minh Hằng, Huỳnh Thục
Vi, Nguyễn Thị Kim Chi, vân vân, được quyền tranh cử và
được dân bỏ phiếu bầu, lúc đó mới có những bà
Feinstein trong Quốc Hội Việt Nam. Theo Tiến Sĩ Vannarith
Chheang ở Phnom Penh, giám đốc Viện Nghiên Cứu Hợp Tác
và Hòa Bình thì kể từ năm 1993 đến nay chế độ chính
trị tại Việt Nam còn thua cả Campuchia về tính chất dân
chủ và tôn trọng nhân quyền.
-------------------------
No comments:
Post a Comment