12.12.2014
I.-
Giới thiệu vấn đề
Văn
học miền Nam, từ 1954 đến 1975, là một đóng góp và
một thành tựu của văn học Việt Nam, trong một giai đoạn
thuộc nửa sau thế kỷ XX. Nó chỉ tồn tại trong vòng 20
năm, nhưng nó đã là một tồn tại quan trọng và không
thể thiếu của giai đoạn này. Nói một cách thẳng thắn,
nền văn học này nối kết Việt Nam với thế giới, với
nhân loại, trong những khía cạnh hiện-hữu-người một
cách vừa bao quát vừa thâm sâu nhất. Nó chia sẻ và phản
ánh thân phận và những tình cảm của con người ở
những độ rung, những bảng mầu gần gũi với các nền
văn học hiện đại của thế giới, dĩ nhiên với những
âm vang và sắc độ riêng của đời sống xã hội và
tinh thần của người Việt.
Cũng
trong thời gian ấy, miền Bắc Việt Nam có một nền văn
học khác. Trong một cái khung xã hội và văn học riêng,
nó cũng có những giá trị riêng của nó. Chắc chắn là
thế. Dù sao, một điều chắc chắn hơn là, nền văn học
ấy, với cái khung xã hội và văn học riêng của mình,
một xã hội mà mọi người dân đều bị kiểm soát về
mọi mặt, đặc biệt là về mặt tư tưởng, một nền
văn học mà chủ trương của nó, vô tình hay hữu ý, đã
đưa đến sự minh hoạ, đồng phục trong thể hiện, và
mang tính sử thi, tô hồng cuộc chiến trong âm hưởng,
giọng điệu, đã gần như chặt đứt nó với những nhịp
cầu giao tiếp của nhân loại. Điều đó là một sự
đáng tiếc.
Nhưng
điều cần phải nói ở đây là tại Việt Nam, ngay cho
đến bây giờ, gần 40 năm sau cuộc chiến, đa số những
người cầm trịch văn học cả nước, một cách vô thức
hay hữu thức, hình như vẫn chỉ cảm nhận rằng, về
mặt âm thanh, Việt Nam, trong giai đoạn đó, chủ yếu chỉ
có hơi thở và những tiếng nói, tiếng trống trận,
tiếng thúc quân và tiếng kèn của miền Bắc, và về mặt
hình ảnh, chủ yếu chỉ có những bộ đồng phục và
những hình ảnh mang tính minh hoạ về một tiếng hát
chung, màu đỏ. Trong các tài liệu nghiên cứu và các sách
viết về lịch sử văn học được dùng trong nhà trường,
trong các tài liệu sư phạm, chỉ có văn học miền Bắc
là hiện diện trong giai đoạn ấy. Người ta đã không
thấy hay lờ đi sự có mặt hết sức đa dạng và tầm
vóc của văn học miền Nam. Nếu có nhắc đến đâu đó
thì chỉ là để phê phán hoặc mang tính cách chiếu lệ,
"hạ cố". Tâm tình của con người thì ở đâu
cũng như nhau, trong hoà bình hay trong chiến tranh. Nhưng con
người sống tại miền Bắc, lúc ấy, đã không được
cất lên tiếng nói khát khao trung thực của mình. Tiếng
nói của Nhân Văn Giai Phẩm đã bị bóp nghẹt. Cũng thế
là những tiếng nói của bất cứ một đoàn nhóm hay cá
nhân nào có cái khao khát đi tìm một hơi thở ở bên
ngoài dàn đồng ca. Cái hơi thở, cái tiếng nói đưa dẫn
con người đến gần lương tâm, gần trái tim của nhân
loại.
Dù
có như thế, để lặp lại, văn học miền Bắc trong giai
đoạn ấy cũng có những đường nét riêng của nó. Nó
phản ánh một gương mặt của chiến tranh. Và gương mặt
ấy có thật. Ở một mức độ nào đó, và trong những
góc nhìn nào đó, dù bị chỉ đạo, nền văn học ấy,
ngoài âm vọng sử thi, ngoài những tấu tụng về chiến
công, về vinh quang, nhiều khi được tô mầu một cách
khá thô sơ, vụng về, cũng nói lên được cái đời
sống, cả tinh thần lẫn vật chất, của cả một xã
hội, của những con người, với những tâm trạng, những
hy sinh và những đớn đau riêng. Và, như thế, nó cũng đã
đóng góp những đường nét của mình để vẽ nên khuôn
mặt chung của văn học Việt Nam giai đoạn ấy. Khuôn mặt
của văn học Việt Nam thời chiến.
Dù
sao, chúng ta không bàn về những điều ấy ở đây. Nó
không phải là chủ đề của bài viết này.
Ở
đây, chúng ta sẽ nói về văn học miền Nam.
Lý
do là, để lặp lại, đã gần 40 năm trôi qua kể từ khi
chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhưng đa số những người
cầm trịch văn học miền Bắc vẫn có thái độ, và cả
chủ trương nữa, là không nhìn đến văn học miền Nam
trong giai đoạn 20 năm ấy. Họ biết rõ những điểm
mạnh, những điểm đặc sắc của nền văn học này.
Biết rõ là văn học miền Nam, trong giai đoạn ấy, đã
là nhịp cầu nối liền Việt Nam với thế giới, với
con người, với nhân loại. Nhưng họ vẫn không chịu
chấp nhận là nền văn học ấy đã mọc từ rễ cây dân
tộc, lớn mạnh và nối kết dân tộc Việt với con người
trên khắp thế giới, nối kết Việt Nam với nhân loại.
Thái độ gạt bỏ, thậm chí trù dập ấy, tôi nghĩ, có
cái gốc rễ tâm lý của nó. Dù là tự ti hay tự tôn thì
cái tâm lý ấy, cái mặc cảm/phức cảm ấy (vừa không
nói ra, vừa rất phức tạp), cũng không xứng đáng và
không tốt cho văn học Việt. Nhiều trí thức, học giả,
và những người có hiểu biết, có tâm, có tầm và có
tài trong nước, đã nhìn ra điều cần thiết trong việc
nhận diện và nhu cầu kết hợp văn học miền Nam vào
văn học của cả nước trong giai đoạn này. Tôi mong con
số những người ấy càng ngày càng lớn, vì nguyên khí
quốc gia không thể bị đè bẹp. Nó cần và phải được
phát triển.
Nói
về phẩm tính là nói về những điểm tốt đẹp, những
giá trị đạt được trong việc thẩm định, đánh giá.
Để trình bày ý nghĩa của dòng văn học miền Nam trong
giai đoạn 1954-1975, đặt trong bối cảnh của văn học
Việt Nam nói riêng, và văn học hiện đại nói chung,
người ta phải nêu ra được những "phẩm hạnh",
phẩm chất của nó. Cũng thế, khi nói về phẩm tính của
dòng văn học này, ta cũng sẽ thấy được những ý
nghĩa, những giá trị mà nó cưu mang, cho dù là nó đã
cưu mang những điều ấy trong tiếng đạn bom gào xé và
trong những vùng đớn đau, đen tối của phận người.
II.
Bàn về các phẩm tính:
Trước
hết, văn học miền Nam là một nền văn học tự do, cho
dù, ở một số trường hợp, cũng có một vài sự kiểm
duyệt nhỏ, và, cho dù, chính cái tự do ấy cũng có những
lúc tạoView all cho nó. Tuy nhiên, chủ yếu, đó vẫn là
một nền văn học tự do, trong đó con người, qua văn
học, có thể nói lên những suy nghĩ, ưu tư, trăn trở và
tình cảm của mình. Cái tự do này mang tính chủ yếu,
thẩm thấu và phản ánh trong và qua tất cả các sinh hoạt
trí thức của con người miền Nam, liên hệ đến văn
học. Từ đó, trong một cái nhìn thâu tóm, người ta có
thể nhìn ra bốn tính chất căn bản của nền văn học
này. Có thể xem đó là bốn phẩm tính cốt lõi của văn
học miền Nam 1954-1975. Những phẩm tính đó có thể được
kể: một, đó là một nền văn học phát triển và mang
tính liên tục (bắt nguồn từ văn học tiền chiến);
hai, đó là một nền văn học hiện đại, tiếp cận và
liên thông với văn học thế giới; ba, đó là một nền
văn học mang đậm tính nhân bản và nhân văn; và bốn,
đó là một nền văn học khai phóng, đa sắc, và đa dạng.
Sau
đây, ta sẽ lần lượt xét từng thuộc tính quan trọng
ấy.
1.
Một nền văn học phát triển và mang tính liên tục, từ
truyền thống:
Văn
học miền Nam 1954-1975 là một dòng chảy liên tục, nhất
quán, nối tiếp và phát triển từ văn học tiền chiến,
kháng chiến (Nam bộ, 1945-1954), sang đổi mới, hiện đại.
Trong khi tại miền Bắc, dòng văn học có thể nói là bị
ngắt quãng giữa văn học tiền chiến và văn học kháng
chiến. Thật sự, văn học tiền chiến, tại miền Bắc,
ở một mức độ nào đó, trong giai đoạn đầu, vẫn có
đấy, nhưng sau đó nó đã bị lấn ép bởi nền văn học
kháng chiến. Là một chủ trương, đường lối được
chỉ đạo, văn học miền Bắc đã đi vào con đường gạt
bỏ văn học tiền chiến để dấn mình vào văn học
kháng chiến. Có một sự đứt gẫy, nếu không muốn nói
là một sự chặt đứt, từ tiền chiến sang kháng chiến
ở đây. Người ta muốn nối liền mạch văn học dân
gian và văn học kháng chiến, mà tháo gỡ, hay cắt bỏ,
văn học tiền chiến. Người ta xem nó là một thứ lãng
mạn tiểu tư sản. Là viễn mơ và không tiến bộ. Thậm
chí, là truỵ lạc. Các nhà văn nổi tiếng thời tiền
chiến, còn sống tại miền Bắc trong giai đoạn ấy, đã
bị bắt buộc lên tiếng chối bỏ tác phẩm của mình.
Xem đó là một giai đoạn ấu trĩ, chưa trưởng thành.
Hơn nữa, một giai đoạn lầm lạc. Của chính mình. Nhân
Văn Giai Phẩm, dù sao, đã ra đời, cất lên tiếng nói
trung thực của lương tâm, của con người trước số
phận của nền văn học dân tộc, của đất nước. Những
người chủ trương Nhân Văn Giai Phẩm, ngoài việc lên
tiếng cho Sự Thật, cho tự do tư tưởng, có lẽ họ còn
muốn cứu vãn Cái Đẹp, Cái Lành, Cái Thiện, Cái Yêu
Thương và Cái Mới trong văn học, trong sáng tạo của nhà
thơ, nhà văn. Nhưng họ đã bị bịt miệng. Và tiếng nói
của họ đã bị giam trong tù ngục trong suốt ba mươi
năm.
Văn
học miền Nam chính là nơi đã nuôi dưỡng và gìn giữ
những tinh hoa của văn chương tiền chiến. Trong sách báo
cũng như trong chương trình học tập tại trường học.
Cũng chính miền Nam đã lưu truyền và phổ biến tiếng
nói và tâm tình của những nghệ sĩ như Hoàng Cầm, Trần
Dần, Lê Đạt, và những nhà văn, nhà thơ khác trong nhóm
Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy sau này, những nhóm và những tạp
chí văn học tại miền Nam, đặc biệt kể từ Sáng Tạo,
đã phổ biến những tâm tình của trí thức và nghệ sĩ
miền Nam, trong những thể điệu mới mẻ khác, đi vào
con đường hiện đại, cái mầm hạt tốt tươi và mạnh
mẽ của văn chương tiền chiến vẫn đã để lại dấu
ấn của nó trong tiến trình phát triển của văn học
miền Nam.
Nói
tóm lại, trong văn học miền Nam, có một sự liên tục
tiếp nối của những chặng đường văn học, những
truyền thống văn chương. Cái đài hoa tốt đẹp kia đã
không hề bị đứt cuống. Sau khi chia tay tiền chiến để
bước vào hiện đại, văn học miền Nam vẫn giữ được
trong nó những giá trị tốt đẹp của văn chương tiền
chiến. Cái giá trị ấy giống như một cây cầu nối,
giúp cho văn học miền Nam thực hiện được một bước
chuyển đẹp đẽ.
2.
Một nền văn học hiện đại, tiếp cận rộng rãi với
văn học thế giới:
Không
bị cô lập và bóp bẹp trong tư duy, suy nghĩ một chiều,
văn học miền Nam mở rộng cửa chào đón nhiều luồng
tư tưởng đến từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt
từ châu Âu. Các trào lưu, lý thuyết văn học được tự
do giới thiệu, phát triển tại miền Nam. Chúng ta có thể
tạm kể đến chủ thuyết hiện sinh, với S. Kiekegaard, F.
Nietzsche, K. Jaspers, M. Heidegger, J.-P. Sartre, v.v.; đặc biệt
trong sáng tác và kịch bản văn học của Sartre, Camus, S.
de Beauvoir, F. Sagan. Rồi hiện tượng luận với Husserl,
Merleau-Ponty, Gabriel Marcel, Heidegger, Karl Jaspers, Paul Ricoeur,
Emmanuel Lévinas và Mikel Dufrenne. Thuyết cấu trúc, đi từ
lĩnh vực ngôn ngữ học của F. de Saussure đến nhân chủng
học và văn học với Claude-Levi Strauss, Roland Barthes, v.v…
Và phân tâm học (hay nói cho chính xác hơn là "tâm
phân học") của Freud, và, sau đó, của Jung, của
Adler, và của những nhà tâm lý khác. Phương pháp "dòng
ý thức" ("stream of consciousness") trong sáng tạo
văn học của những tác giả như Hemingway, Faulkner, James
Joyce… cũng được giới thiệu và áp dụng trong các tác
phẩm văn chương của các nhà văn miền Nam. Rồi chủ
nghĩa siêu thực của nhóm André Breton cùng quan niệm của
nhóm Dada. Trào lưu tiểu thuyết mới của những tác giả
như Claude Simon, Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, v.v…
Người ta đọc và thảo luận về Socrate, Platon, Descartes,
Kant. Viết và nói về Hegel, Marx, Lenin, Althusser. Không chỉ
thế, người ta còn tìm hiểu, nghiên cứu và thảo luận
về các nền triết học cổ đại và trung đại, về biện
chứng pháp của Platon, Hegel và Marx; từ đó, có người,
như Nghiêm Xuân Hồng, đã tìm hiểu về "Biện Chứng
Giải Thoát trong Tư Tưởng Ấn Độ", hoặc "Biện
Chứng Giải Thoát trong Giáo Lý Trung Hoa", v.v…
Chính
cái tự do tại miền Nam đã cho phép các lý thuyết, trào
lưu văn học này được giới thiệu và phát triển ở
đây, thậm chí với những khuynh hướng trái chiều nhau.
Cụ thể là về lý thuyết và chủ nghĩa hiện sinh. Việc
giảng dạy, phổ biến và đưa vào trong sáng tác văn học
đã được tiến hành khá đồng bộ. "Hiện sinh vô
thần" với Nietzsche và Sartre, chẳng hạn, có thể
cùng đi song song với "hiện sinh hữu thần" của
K. Jaspers và Gabriel Marcel. Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ
được phổ biến trong khung cảnh đại học, mà nó còn
xuất hiện trong sách báo, đi vào tâm tư người đọc.
Hơn nữa, nó còn thể hiện trong thái độ sống của
những người trẻ trong giai đoạn này. Tiêu cực thì là
lối sống mệt mỏi, buông thả và hưởng thụ, trước
một cuộc chiến kéo dài với bao nhiêu đổ vỡ, mất
mát. Tích cực thì là thái độ dấn thân, nhập cuộc,
"lên đường" hay "xuống tàu" của một
lớp tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, muốn cụ thể làm một
cái gì tích cực cho xã hội, cho đất nước, quê hương
trước một guồng máy đang tan rã.
Tất
cả những điều đó, cả những điều tích cực và một
số thái độ tiêu cực, trong việc tiếp nhận và phổ
biến các trào lưu, lý thuyết văn học tại miền Nam, đã
chỉ có thể được thực hiện trên mảnh đất của tự
do. Nó cho phép con người ta tiếp cận với những cái
mới, cái đang hiện ra, nóng hổi, cái đang được theo
dõi và tranh luận, với nhiều góc cạnh, ảnh hưởng của
chúng. Tất cả những điều ấy làm cho tâm hồn, trí
tưởng của con người như một căn phòng mở cửa để
đón gió lộng bốn phương. Có thể những luồng gió có
lúc đã làm xáo trộn phần nào mọi thứ được bày biện
trong phòng, nhưng chính những ngọn gió ấy đã làm cho
người ngồi trong phòng hít thở được những nguồn
hương lạ, dạt dào. Cửa sổ nhìn ra từ căn phòng ấy
đã giúp cho chủ nhân của nó nhìn ngắm được những
hình ảnh, phong cảnh tươi mới, đầy mầu sắc của cuộc
đời. Từ đó, chúng tạo cho con người những cái nhìn,
những viễn tượng mới, đưa tâm hồn con người đi xa
vào nhiên giới bên ngoài, cũng như đi sâu hơn vào nội
giới bên trong nó, để, từ đó, nhận biết chính con
người mình và cuộc đời hơn. Nhận biết rằng người
ta đang hiện hữu trước cuộc đời. Người ta đang sống.
Và sống với tất cả những tiềm thể, những khả thể
có thể tìm thấy trong chính con người.
Về
phẩm tính "hiện đại" của văn học miền Nam,
một điều chúng ta cũng nên đế ý đến ở đây là khía
cạnh thi pháp.
Thi
pháp mà tôi muốn nói đến ở đây là cách thể hiện
tác phẩm văn học. Là cái hình thức, cái kết cấu, cái
nguyên tắc nghệ thuật đã sáng tạo ra tác phẩm văn
học. Nó cũng có thể là cái cách viết, cách diễn ý,
dùng từ, dùng hình ảnh để tạo hiệu ứng cần thiết
cho những gì mà nhà văn, nhà thơ muốn diễn tả. Ngày
xưa, thơ văn là để nói cái đạo, cái chí (như trong
"Văn dĩ tải đạo" và "thi ngôn chí").
Lúc đó, người ta hầu như chỉ quan tâm đến cái ý, cái
chí, cái "đạo", cái nội dung mà nhà thơ, nhà
văn muốn chuyển đạt. Về sau, đặc biệt từ thời hiện
đại, người ta nhận thấy rõ rằng cái hình thức (mà
ngày xưa người ta xem thường, chỉ coi như cái "vỏ"
bên ngoài) cũng chính là cái nội dung, cái bên trong. Cái
bên ngoài, cái dùng để thể hiện, cũng chính là cái bên
trong, cái phần ruột thịt của tác phẩm. Bởi lẽ, hình
thức chính là cái mà nhà thơ, nhà văn chọn lựa, như
cách thể hiện thích đáng, đúng đắn nhất, để nói
lên những suy nghĩ và tư tưởng của mình. Nói lên những
gì mình muốn diễn đạt, trao gửi.
Thi
pháp của một dòng văn học sẽ cho thấy, hoặc không cho
thấy, tính đồng bộ, song song, cùng nhip của nó, sự bắt
kịp của nó với những cung cách, thể điệu, lối viết,
được diễn tả trên thế giới, trong một khung thời
gian nào đó.
Miền
Nam chính là vùng đất tốt đẹp và màu mỡ để những
đường nét, hình thức mới, những thể điệu, cung cách
mới, lối dùng từ ngữ, ý tưởng, hình ảnh mới mẻ
trong thơ văn được phô diễn và phát triển. Những điều
đó trong các tác phẩm của miền Nam đã cho thấy sự
nhịp nhàng và đồng bộ của nó với văn học thế giới.
Trước
hết, hãy nhìn về Thơ.
Chúng
ta hãy thử đọc những câu sau:
Anh
yêu em, yêu em vì em biết nói
Ðã biết thưa: Thưa Anh ! Em còn biết gọi
Sáng trời mưa, khiến cho anh nhớ em
Bây giờ nắng, anh nhớ em nhiều.
Ngồi xuống đây, nghe chim là chim ca hót
Ðồng cỏ như bàn tay, trời như mắt say
Ta ngó nhau, ôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi, ngồi đó như hai hòn bi
Ðã biết thưa: Thưa Anh ! Em còn biết gọi
Sáng trời mưa, khiến cho anh nhớ em
Bây giờ nắng, anh nhớ em nhiều.
Ngồi xuống đây, nghe chim là chim ca hót
Ðồng cỏ như bàn tay, trời như mắt say
Ta ngó nhau, ôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi, ngồi đó như hai hòn bi
Có
cành hoa đẹp anh hái cho em
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Và anh sẽ khóc miên man suốt ngày
Ôi chả bao giờ buồn như bữa nay …
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Và anh sẽ khóc miên man suốt ngày
Ôi chả bao giờ buồn như bữa nay …
Đây
là bài hát "Mùa Xuân Yêu Em" do Phạm Duy phổ bài
thơ "Chuyện Tình" (1) của Đỗ Quý Toàn,
viết vào khoảng năm 1959. Tôi tạm trích lời bài hát của
Phạm Duy, ở đây, mà không trích nguyên văn bài thơ của
Đỗ Quý Toàn vì bài của Phạm Duy hầu như đã dùng lại
nguyên văn những câu thơ của thi sĩ, chỉ thay đổi chút
ít cho hợp âm điệu của dòng nhạc. Lời của anh con
trai nói với người con gái, ắt hẳn là người yêu của
anh. Nó nghe như ngô nghê và không "thơ mộng" hay
"triết lý" gì cả. Có lẽ đúng như thế, vì nó
chỉ là tiếng của hạnh phúc thốt ra thành lời. Cách
nói như một dạng "baby talk" của những kẻ đang
yêu nhau. Nói với nhau như những con chim. Gù gù. Luýt
chuýt.
Nhưng
nó đã trở thành thơ. Nó mang xúc cảm và nó chuyên chở
cái hơi thở và hình ảnh của cuộc đời. Về mặt văn
học, nó cũng là một sự thử nghiệm. Thử nghiệm với
tiếng nói, với cái tình cảm sơ nguyên của con người.
Không màu mè, làm dáng, nó nói thẳng cái tiếng nói của
cảm xúc, của tình yêu con người giữa thiên nhiên và
tạo vật. Nó là thơ ở miền Nam.
Bài
thơ này của Đỗ Quý Toàn làm tôi nghĩ đến hội hoạ
của Henri Julien Félix Rousseau, một hoạ sĩ Pháp trong dòng
Hậu-Ấn Tượng (Post-Impressionism) theo cung cách Ngây Thơ,
Sơ Thuỷ (Naive, Primitive manner), nhưng đầy chất nghệ
thuật.
Hay
là cái cách "nói thơ" sau đây:
Hôm
nay Nga buồn như con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển…
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển…
Đó
là những câu mở đầu của bài thơ "Nga" của
Nguyên Sa, một thi sĩ, trong giai đoạn đó, mới từ Pháp
về. Nói về người yêu mà nói như thế! Nhưng miền Nam,
trước hết, đã cho phép anh làm thơ để chỉ nói về
những điều nhỏ bé như vậy, về những tình cảm rất
cá nhân, nhưng cũng rất con người. Sau đó, vùng đất và
cái văn học của vùng đất này cũng đã cho phép anh thử
nghiệm những giọng điệu khác nhau để nói lên những
cung bậc tình yêu khác nhau của con người. Anh sống ở
đây và anh có tự do. Anh có quyền thở và thở theo cái
nhịp riêng của mình. Đặc biệt, không ai nhòm ngó và
can thiệp vào tình yêu của anh. Nếu nó buồn cười, dị
hợm, và anh công bố nó ra trước thiên hạ, anh phải
chịu trách nhiệm về lời công bố của mình. Nếu nó có
vẻ buồn cười, nhưng lại duyên dáng và đánh được
vào những sợi dây đàn cảm xúc của người đón nhận,
anh được khen là thi sĩ. Và được người đọc yêu mến.
Thậm chí bắt chước. Ở đây, anh được tự do. Nói hay
không, và nói thế nào, hoàn toàn là quyền của anh. Sẽ
không có người đòi kiểm duyệt và yêu cầu anh phải
nói năng cho phải phép. Hoặc là cấm anh không được nói
những điều cỏn con, đầy tính "cá nhân chủ nghĩa",
và đi ngược dòng với "tiếng hát chung" như thế.
Mà phải lên tiếng về những gì vĩ đại hay cao cả hơn.
Ở
miền Nam, anh có quyền nói ra những câu thơ như thế.
Hoặc
những cách nói bâng quơ mà rất duyên dáng sau đây của
Bùi Giáng:
Thưa
em phố Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
hay:
Chấm
ngòi bút sắt se vào mực
Viết ra câu thúc giục sương mù
Viết ra câu thúc giục sương mù
Hay,
nói bâng quơ mà người nghe cảm nhận được như có gì
triết lý ở phía sau lời nói:
Xin
chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau
Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau
Thi
sĩ miền Nam có quyền bày tỏ tâm ý mình theo đúng cách
mình nghĩ và mình thích. Tiếng nói của anh sẽ không bị
mổ xẻ, hoặc bị đem ra "đấu tố" trong những
buổi họp ban này hay ban khác. Hơi thở riêng của anh sẽ
không bị "đấu tố". Đó là hạnh phúc và là
cái quyền mà người cầm bút miền Nam được trao tặng.
Bây
giờ, hãy đọc những câu thơ này:
Đến
anh thì đến hôm nay
Lỡ mai tuyết lạnh bảy ngày sẽ qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt ngắn tà váy kiêu
Đến anh mở sẵn môi điều
Cho anh hôn xuống trăm chiều ái ân
Đến anh gót chớ phân vân
Để mai sau có trăm lần đến anh
Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em. (2)
Lỡ mai tuyết lạnh bảy ngày sẽ qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt ngắn tà váy kiêu
Đến anh mở sẵn môi điều
Cho anh hôn xuống trăm chiều ái ân
Đến anh gót chớ phân vân
Để mai sau có trăm lần đến anh
Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em. (2)
Đây
là bài thơ có tựa đề là "Râu Xanh" của Cung
Trầm Tưởng, làm vào năm 1965. Ý và tứ, cũng như hình
ảnh, rất mới lạ. Cho dù nó đi theo thể lục bát. "Thân
phận tình yêu" của người con gái được nhà thơ
yêu sẽ ra sao khi phải đối diện với tình yêu "râu
xanh" của người thơ? Lấy hình ảnh chuyện "con
yêu râu xanh" của Charles Perrault, Cung Trầm Tưởng đã
thử nghiệm với cách nói mới về tình yêu. Thử nghiệm
với chính cái hơi thở của mình. Và bài thơ của người
thi sĩ đã không bị lạc mất trong cách nói đồng phục
của những người khác.
Cũng
trong cách tìm tòi ý và tứ mới như thế, ta có thể để
ý đến Trần Dạ Từ:
Hoa
và trái một đêm nào thức dậy
Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh
Con đường đó một đêm nào trở lại
Với gió mưa phùn trên cánh tay anh
Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh
Con đường đó một đêm nào trở lại
Với gió mưa phùn trên cánh tay anh
Hoa
bỗng nở và trái sầu bỗng chín
Tim xa xưa còn đó chút trông chờ
Máu thơ dại vẫn tươi mầu kỷ niệm
Bóng cây nào che mãi mắt hư vô…
Tim xa xưa còn đó chút trông chờ
Máu thơ dại vẫn tươi mầu kỷ niệm
Bóng cây nào che mãi mắt hư vô…
Đây
là hai đoạn đầu trong bài "Một Tháng Giêng"
(còn có tên gọi khác là "Mộng Đời") của ông.
Ông dùng những ẩn dụ "hoa" và "trái"
một cách mơ hồ nhưng đầy tính bí ẩn, thu hút để bắt
đầu bài thơ. Người ta có thể để ý đến việc để
nói về tình yêu, nhà thơ đã dùng những hình ảnh như
"hoa" và "trái". Rồi "đêm". Rồi
"mộng". Vân vân. Nhưng còn "máu thơ dại"
và "mắt hư vô" nữa. Có âm hưởng gì của
thuyết hiện sinh ở đây không? Hay đó chỉ là những
tiếng vọng của một bầu khí quyển bao trùm lấy con
người trong cuộc. Hình ảnh và chữ nghĩa trong bài thơ,
trong cái nhìn của riêng tôi, đã cho thấy ít nhiều những
vọng âm của thời đại. Của thuyết hiện sinh với
những khái niệm "hư vô", "xao xuyến".
Của tâm phân học Freud với những ẩn dụ mang tính ức
chế, libido, trong hình ảnh của những "hoa" và
"trái", "gió" và "mưa" và "mộng".
Và cũng có thể của tâm phân học Jung với những khía
cạnh mang nét tâm lý miền sâu trong những kết hợp của
"đêm" và "máu", "thơ dại" và
"mộng". Và cả "máu thơ dại" nữa. Tất
cả những điều ấy ánh xạ những hồi quang và vọng âm
của cả một thời đại.
Cũng
thế, đây có thể là một hơi thở thời đại khác trong
thơ Trần Dạ Từ:
Thuở
làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng bên thềm
Gió may lưng bờ dậu
Chiều sương dầy bốn phía
Lòng anh mấy ngã ba
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng bên thềm
Gió may lưng bờ dậu
Chiều sương dầy bốn phía
Lòng anh mấy ngã ba
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha
Thuở
làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố (…)
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố (…)
Đây
là bài "Thuở làm thơ yêu em", viết năm 1962, của
Trần Dạ Từ. Tôi đã có cơ hội phân tích khá kỹ và
đưa ra một vài nhận xét cũng như… rung động có tính
hơi "vũ đoán" của mình (3) về nó. Ở
đây, tôi muốn đặc biệt nhắc lại về bốn câu cuối
cùng trong phần trích đoạn này. Nó làm tôi chợt nhớ xa
gần về những câu thơ cũng rất đẹp của Apollinaire
trong bài "Le Pont Mirabeau", với hình ảnh của hai
người yêu nhau. Thi sĩ Pháp đã tả hai người nam và nữ,
hai kẻ yêu nhau, trong một tư thế thật đẹp, giống như
trong một số bức tranh vẽ tình nhân của Chagall:
Les
mains dans les mains restons face à face
Tandis
que sous
Le
pont de nos bras passe
Des
éternels regards l’onde si lasse
Vienne
la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Les jours s’en vont je demeure
Hoàng
Hưng, một thi sĩ Việt Nam khác, sau này đã dịch khá đẹp
là:
Cứ
mặt nhìn mặt, cứ tay cầm tay
Cánh tay mình kết cầu này
Cho làn nước dưới kia chạy trốn
Những ánh nhìn muôn thuở chán chường thay
Cho đêm cứ về, cho giờ cứ điểm
Tháng ngày đi anh vẫn còn đây (4)
Cánh tay mình kết cầu này
Cho làn nước dưới kia chạy trốn
Những ánh nhìn muôn thuở chán chường thay
Cho đêm cứ về, cho giờ cứ điểm
Tháng ngày đi anh vẫn còn đây (4)
Hình
ảnh cây cầu dịu dàng làm bằng vòng tay âu yếm của
hai người yêu nhau trong thơ của Trần Dạ Từ và
Apollinaire có thể là trùng hợp. Cũng có thể là những
liên tưởng "liên văn bản". Từ thi sĩ Việt Nam,
hay từ một người đọc Việt nam. Vấn đề "liên
văn bản" (5) là một vấn đề thú vị, cho
thấy văn bản nào của bất cứ một tác giả nào cũng
là một "liên văn bản", bởi lẽ "viết",
trong những cái nhìn khác nhau của các lý thuyết hiện
đại liên hệ đến "liên văn bản", luôn luôn là
"viết lại". Viết lại một điều gì đó đã
được một ai đó viết ra từ trước. Dĩ nhiên là với
dấu ấn riêng của mình. Viết lại, với ý thức, và,
trên hết, với vô thức, sau khi người viết đã đọc,
đã thẩm thấu bao nhiêu là câu chuyện, lời thơ, văn bản
khác nhau mà mình đã được đọc hay nghe trong đời. Tất
cả chữ viết của con người, kết hợp lại, là một
liên văn bản bất tận. Trong trường hợp "cây cầu"
ở đây (như tất cả những hình ảnh khác mà ta có thể
đưa ra phân tích trong bất kỳ một văn bản văn học
nào), có thể là có một sự trùng hợp bất ngờ. Và, để
lặp lại, cũng có thể đây là một hiện tượng "liên
văn bản", xảy ra với sự làm việc của vô thức
nhà thơ. Nhưng ngay cả trong trường hợp đó, chỉ có thể
sống ở miền Nam, nhà thơ Trần Dạ Từ mới dễ dàng có
cơ hội tiếp cận, trong cái đọc của mình, với những
hình ảnh và ý tưởng mới lạ, đang hiện diện trong văn
bản của đủ loại người viết khắp nơi trên thế
giới.
Dù
sao, tôi cũng nghĩ, có khi, cách dùng từ "vai cầu"
trong câu thơ này của Trần Dạ Từ chỉ là một cách
dùng đặc biệt theo lối người miền Trung, đặc biệt
người xứ Huế; nhất là khi người con gái ông yêu lại
là người của đất Thần Kinh văn vật. "Vai cầu",
khi ấy, sẽ là hình ảnh mang tính hoán dụ của cây
cầu Trường Tiền. Lấy một "vai cầu" để nói
về cả cây cầu. Thi sĩ so sánh cây cầu như một cánh
tay dịu dàng bắc ngang qua thành phố Huế. Và đó là
thành phố của tình yêu, nói chung, thành phố của kỷ
niệm yêu đương của nhà thơ, nói riêng. Đó cũng là một
cái nhìn ẩn dụ. Và như thế, so với hình ảnh thuần
ẩn dụ mà ta từng nhìn thấy trong cách phân tích
trước, là cánh tay của hai người con trai con gái bắc
qua vai nhau làm thành cây cầu dịu dàng yêu thương kia,
hình ảnh hoán dụ pha lẫn ẩn dụ trong phân tích
sau cũng có cái đẹp mềm mại và đáng yêu riêng của
nó.
Nhìn
thế nào đi nữa, tất cả cái đọc, cái suy nghĩ, cái tu
dưỡng ngày này qua ngày khác, cộng với một tài năng
riêng của mình, nhà thơ mới tạo được những câu thơ
đẹp, trong một nhịp điệu đáng yêu như thế. Và tất
cả những điều đó, những cái nghe, cái đọc, cái suy
nghĩ, tu dưỡng ấy, phải nằm trong một vùng khí quyển
nào đó. Người nghệ sĩ phải có cơ hội sống trong nó,
thở hít cái vùng dưỡng khí ấy, cái vùng dưỡng khí tự
do, mở rộng ra khắp bốn phương trời, thì mới có thể
viết ra những ý, những lời như thế. Cái vùng dưỡng
khí ở đây chính là cái khí quyển miền Nam mà ta đang
nói đến.
Thi
pháp, dù sao, có lẽ sẽ được nhìn thấy rõ nét nhất
trong hình thức của câu văn. Ở thơ, hãy thử chỉ nói
về thể lục bát. Cách ngắt nhịp thông thường và cổ
điển nhất là ngắt nhịp chẵn.
Chẳng
hạn, Nguyễn Du, với những bức tranh trong truyện Kiều:
Đầy
vườn cỏ mọc / lau thưa
Song trăng quạnh quẽ / vách mưa rã rời
Trước sau / nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái / còn cười gió đông
Xập xè / én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất / rêu phong dấu giày.
Song trăng quạnh quẽ / vách mưa rã rời
Trước sau / nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái / còn cười gió đông
Xập xè / én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất / rêu phong dấu giày.
Hoặc:
Người
về / chiếc bóng năm canh
Kẻ đi / muôn dặm một mình / xa xôi
Vầng trăng / ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc / nửa soi dặm trường.
Kẻ đi / muôn dặm một mình / xa xôi
Vầng trăng / ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc / nửa soi dặm trường.
Bây
giờ, hãy thử đọc bài thơ sau đây của một thi sĩ trẻ
miền Nam:
Đò
qua sông / chuyến đầu ngày
Người qua sông / mặc áo dài suông eo
Sông hiền / sóng lạ lùng reo
Trời bao la / cũng nhìn theo… / ái tình
Người qua sông / qua một mình
Nắng trên sông / nắng vàng hanh mái đầu
Xin em vài sợi tóc nhầu
Trói thân ta / với nghìn sầu / chung nơi
Mong em gìn lấy ơn trời
Thấy quanh năm / thấy ta đời tai ương!
Người qua sông / mặc áo hường
Nắng dương gian / nắng buồn hơn trước nhiều.
Người qua sông / mặc áo dài suông eo
Sông hiền / sóng lạ lùng reo
Trời bao la / cũng nhìn theo… / ái tình
Người qua sông / qua một mình
Nắng trên sông / nắng vàng hanh mái đầu
Xin em vài sợi tóc nhầu
Trói thân ta / với nghìn sầu / chung nơi
Mong em gìn lấy ơn trời
Thấy quanh năm / thấy ta đời tai ương!
Người qua sông / mặc áo hường
Nắng dương gian / nắng buồn hơn trước nhiều.
Người
thi sĩ trẻ mà tôi nói ở đây là Nguyễn Tất Nhiên. Và
bài thơ là bài "Chuyến Đò Cửu Long". Người thi
sĩ trẻ, vào lúc anh làm bài thơ này, năm 1972, đã thường
xuyên phá đổ cái nhịp chẵn cổ điển của lục bát
trong bài thơ của mình. Bài thơ của anh, phần nhiều đi
nhịp lẻ, từ đó, cho thấy cái nét chênh chao, uốn lượn
dập dờn của những con sóng. Sóng trên sông quê hương,
và sóng trong lòng người. Sóng trong lòng anh.
Nhịp
của bài thơ không có cái mượt mà, suôn sẻ của một
tâm trạng hạnh phúc. Nó chập chờn, như do dự, như
thiết tha, nhưng là cái thiết tha của một thứ "tình
không/chưa dám ngỏ". Nó quẩn quanh và nó phả ra một
giọng buồn xa vắng. Như cái buồn của nắng trên dương
gian. Hết cuộc đò, hay ở cuối chuyến đò, nhà thơ trẻ
chỉ còn thấy rơi lại một mầu nắng. Từ "dương
gian" trong câu thơ cuối này làm người ta liên tưởng
đến một điều gì không mấy hạnh phúc. Như hình ảnh
một linh hồn trở về nhìn lại dòng sông và chuyến đò,
và cuộc tình (có lẽ là "một chiều"), đã chớm
nở trong lòng mình một ngày trên cái "cõi dương"
cũ kỹ. Tôi nghĩ cái nhịp thơ và, cũng có nữa, những
chữ dùng trong thơ đã khiến tôi, như một người đọc,
xúc cảm với bài thơ như thế.
Một
thí dụ khác về cách phá nhịp lẻ của lục bát:
Hồn
tôi / cái đĩa thâu thanh
Tròn
nguyên nét nhạc / trung thành ý ca
Do
/ ré / mi / fa / sol / la
Ngẫm từng âm điệu / nghe ra chiều buồn
Ngẫm từng âm điệu / nghe ra chiều buồn
("Chiều"
của Cung Trầm Tưởng)
Câu
thứ ba, như thế, đã được nhà thơ ngắt nhịp lẻ, một
cách đầy sáng tạo, thành 1/1/1/1/1/1.
Về
thơ, văn học miền Nam còn nhiều con người tài tuấn
khác. Như Viên Linh hay Du Tử Lê. Như Nguyễn Đức Sơn,
Phạm Thiên Thư, hay Tô Thuỳ Yên. Họ, cùng với nhiều
nhà thơ khác, đã để lại dấu ấn của mình trong lòng
người đọc. Và, đặc biệt, là Thanh Tâm Tuyền. Người
đã, từ cái cội nguồn thơ tự do của Xuân Thu Nhã Tập
và thơ thời kháng chiến, mở rộng cái biên độ của
thơ tự do đến những cõi miền mới. (6)
Đã
nói về thơ thì chúng ta cũng phải bàn về Văn.
Người
đã có những đột phá rõ nét nhất trong việc làm mới
câu văn, trong giai đoạn hai mươi năm văn học miền Nam,
là Mai Thảo. Ngoài tài sử dụng chữ nghĩa một cách
"diệu thủ", ông cũng là người tiên phong trong
việc làm mới câu văn Việt. Ông viết nhiều câu văn
dài, gồm nhiều câu phức, liên kết, lồng ghép vào nhau,
mà ý tứ vẫn rõ ràng và đẹp. Hoặc kiểu câu dài, nối
kết nhau để diễn tả một dòng ý thức, như đoạn văn
dưới đây. Đó là một dòng chảy và cháy
không ngừng. Để ý, cả đoạn này chỉ là một câu được
phát triển với những giới ngữ (prepositional phrases) dùng
làm trạng từ chỉ thời gian.
Tôi
muốn bảo Luân, anh nhớ đến em trong tiếng súng ban đêm,
những vệt lửa dài cháy vào bóng tối, lúc bò núi sau
lưng cái hình ảnh xót thương còn mang hình trái núi, lúc
xuống đồng bằng trước mặt cái hình ảnh xót thương
đã mang hình những ngọn lửa dài, lúc anh muốn chết,
lúc anh muốn sống, lúc tuyệt vọng tối đen vực thẳm,
khi tin yêu sáng chói mặt trời, lúc nhìn xa cái hình ảnh
lớn theo ngút mắt, lúc tưởng gần cái hình ảnh thu cũng
nhỏ vào một góc trái tim như một tấm hình kỷ niệm.
Đây
là một đoạn văn trong truyện ngắn "Luân" của
Mai Thảo. Trong đoạn kết của truyện này, Mai Thảo dùng
những câu thật ngắn và gọn. Hai câu cuối cùng được
tách ra thành một đoạn riêng. Tính chất ngắn, gọn của
các câu văn ở đây khác hẳn tính chất đan kết, liên
tục, mở rộng của những ý nghĩ reo vui như những bọt
sóng trong một đoạn khác nói về tiếng nói của người
con gái tên Luân; của những yêu thương bùng cháy không
dứt như một vệt lửa cháy mãi trong đêm tối. Cái ngắn,
gọn ở đây mang tính tragic pha với pathos. Nó
nằm trong cái biểu tượng của con bướm chết. Một cái
đẹp mong manh, tàn lụi trong cái vô nghĩa và vô tình của
cuộc đời.
Sáng
hôm sau, tôi xuống núi thật sớm. Như người đi trốn.
Tôi không có can đảm ở lại để nhìn thấy cái hình
ảnh lam lũ của Luân đẩy lưỡi cày trên nền đất rừng
cằn cỗi. Trời đã sáng nhưng hai bên núi rừng còn yên
lặng ngủ. Gần tới đường lớn tôi trông thấy một
con bướm. Nó đậu trên một bụi cây thấp. Mình nó vàng
ánh với những chấm đen ở hai đầu cánh. Tôi bắt lấy
con bướm và bỏ đi không nhìn trở lại.
Suốt
dọc đường tôi nghĩ đến Luân, đến Phạm, đến
Trương, đến tôi. Lúc nhìn xuống, con bướm tự lúc nào
đã chết nát trong lòng bàn tay.
Mai
Thảo, trong cung cách làm mới câu văn, chữ nghĩa của
mình, còn đặc thù ở chỗ viết những câu văn được
cắt thật ngắn, gọn. Những câu văn có khi mềm, có khi
sắc. Nhưng luôn luôn đẹp. Chẳng hạn:
(…)
Mùa thu. Moderato, trong nhạc dân gian Phạm Duy. Lá vàng mùa
thu. Doloroso, trong nhạc trữ tình Cung Tiến.
(…)
Thơ tiền chiến về mưa thu, nắng thu lấp lánh thật
nhiều châu báu, kim cương nơi thể thơ như một bình ngọc
riêng được đúc ra để đựng hết mùa thu ngây ngất là
thể thơ lục bát. Câu sáu đội mưa thu bay. Câu tám nhặt
ngô đồng rụng.
(Văn
số 40, 10/1985)
(…)
Đích thực mưa xuân. Phơi phới, nghiêng nghiêng. Và lục
bát trên những mái nhà. Và tứ tuyệt trên những đường
phố. Và song thất ở những ngã tư. (…) Đêm qua thức
giấc, thoáng nghe thấy, thật xa, những tiếng mưa trên
những cảnh ngộ, những thân thế quê nhà. Tiếng mưa dài
như một cuộc đời buồn. Những tiếng mưa tăm tối.
(Văn
số 57, 3/1987) (7)
Một
nhà văn khác của miền Nam cũng đã có những cách tân
trong việc làm mới câu văn, tạo hình ảnh và nhịp điệu
lạ lẫm cho riêng nó, là Nguyễn Đình Toàn. Nhiều câu
văn của ông được kéo dài ra gần như một đoạn văn,
với nhiều câu văn nhỏ được dính kết, lồng ghép hoặc
xếp kề cận bên nhau, như từng mảnh rừng nhỏ. Rậm
rạp. Và thơm. Và Nguyễn Đình Toàn đã đưa vào trong
những câu văn mình cái khí hậu rất riêng do ông tạo
ra. Một khí hậu đầy ắp sương mù. Quấn quyện. Lan
toả. Và ôm lấy người đọc trong cái sinh quyển riêng
của nó. Như một "câu văn" dài có tính điển
hình sau đây trong tiểu thuyết "Áo Mơ Phai" của
ông:
Cái
lạnh, hơi nước, và đất ẩm quanh hồ, bám cả trên hai
người, nhất là Lan dù đã lên đến bờ cứ còn chần
chờ mãi chưa chịu đi về ngay, thành thử lắm lúc nàng
làm cho Quang có cảm tưởng rờn rợn như là nàng bị ma
quỷ của khu hồ nhập vào người, tiếng cười của Lan
nghe lanh lảnh, hoặc có khi nàng lặng lẽ xếp lại những
đồ dùng, quần áo tắm, gió từ dưới hồ thổi lên vẫn
không ngớt làm cho quần áo đầu tóc nàng bay tung, những
trận gió mang theo các đám sương nặng trĩu từ rừng cây
xanh đặc bên vườn Bách Thảo vẽ những đường răn reo
trên mặt sóng, mùi bèo nước, mùi rễ cây thối và xa
hơn nữa, hương thơm của những vườn hoa trong khu Ngũ Xã
trộn lẫn với nhau, lẩn khuất trong đám sương quần tụ
trên mặt hồ, những đám sương dầy đặc đến nỗi
dường vây kín lấy những dư âm hồi chuông của đền
Quan Thánh vừa đổ xuống, làm cho không tan biến đi được,
và khi dư âm của những tiếng chuông đó còn vương vất
trên mặt sóng, trong trí tưởng bị huyễn hoặc, và ngay
trên mặt da đã nổi gai vì lạnh, vì bị những ảo giác
làm cho tê điếng, những tiếng chuông nhỏ hơn, nhưng gần
hơn của chùa Trấn Quốc phía bên kia con đường, bên kia
những hàng cây, khuất sau con dốc cao giống như một con
đê nhỏ, lại chậm rãi gõ vào cái vắng lặng mênh mông
đã vây quanh bốn phía, đó là lúc bóng tối đã xoá hết
riềm cây xanh mờ của phía bờ hồ xa tít tắp, những âm
hưởng cũ còn chưa tan hết, những âm thanh mới đã dội
tới ép vào hai bên thái dương, cùng một lúc với mùi
trầm hương phảng phất, trông Lan lúc đó chỉ còn là
một cái bóng mơ hồ, nàng cử động, đi lại, cười nói
như trong một giấc mơ (…)
Câu
văn trên không có một dấu chấm; nhưng, thật sự, nó
vẫn chưa chấm dứt. Tôi tạm chỉ ghi lại khoảng ba phần
tư của nó. Đó là một câu văn dài với kỹ thuật ghép
nối, thắt bện theo lối liên hoàn mà tôi đã thử ghi
nhận ở trên. Cái đáng nói ở đây là, trong một câu
văn như thế, Nguyễn Đình Toàn đã collapse ("dồn
đẩy"), trong một số trường hợp, những câu văn
nhỏ, có thể đứng độc lập, vào nhau. Và, cùng với
hình ảnh và chữ nghĩa, cùng với cách lắp và ngắt
đoạn, tiết nhịp của các hình ảnh cộng với nhịp
điệu bằng trắc của từ ngữ, nhà văn đã tạo được
một không khí, hay đúng hơn, một thứ khí hậu đặc thù
vây hãm câu văn mình. Làm cho mọi thứ trong ấy như bám
quyện vào nhau, có tính cách bội trương, và như được
phủ lên bằng một dải sương mù, không dễ tan đi hoặc
không vội tan đi. Tất cả tạo thành một vùng "hãm
địa" thơ mộng vây kín lấy người đọc. Nhà văn
đã đạt được hiệu ứng cần thiết cho câu văn mình.
Trong sự làm mới, làm lạ nó. Và trong việc tạo một
khí hậu truyện riêng.
Cách
viết của Nguyễn Đình Toàn, phần nào, cũng làm cho ta
nhớ đến Proust, trong "À la Recherche du Temps Perdu",
người đã viết những câu văn dài cả trang giấy. Với
cấu trúc trùng bội (la duplication), kết cấu chính phụ
(la subordination), và kỹ thuật phát triển vòng tròn (le
développement cyclique), theo Jean Milly (8), những câu
văn của Proust đa tầng và rất phức tạp, được phân
nhánh chi chít như hình ảnh của một cây cổ thụ vĩ
đại, những nhịp điệu, suy nghĩ cùng với các biện
pháp chuyển nghĩa đan cài trong đó, khiến chúng được
kéo dài ra hay được làm cho thành rậm rạp, "thậm
phồn". Hiệu ứng đạt được, trong cái nhìn của
tôi, là một dòng ý thức như chảy tràn lan, vô tận
trong những ngõ ngách của hồi tưởng, hoài nhớ.
Không
phải chỉ riêng Mai Thảo và Nguyễn Đình Toàn có những
nỗ lực và thành công trong việc làm mới, làm lạ câu
văn mình. Nhiều nhà văn khác của miền Nam cũng đã,
trong những mức độ đậm nhạt khác nhau, làm được
điều ấy. Ngoài ra, nếu không chú trọng vào việc làm
mới câu văn, nhiều nhà văn miền Nam đã thành công trong
việc thể hiện tư tưởng, suy nghĩ của mình trong cách
thức diễn đạt, trong giọng điệu, hay trong cách xây
dựng tâm lý nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ
trần thuật. Võ Phiến, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng,
Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Nhật Tiến,
Viên Linh, Cung Tích Biền, Thế Uyên, Duy Lam, Nguyễn Thuỵ
Long, Thảo Trường, Văn Quang, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn
Mộng Giác, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thuỵ
Vũ, Nhã Ca, Trùng Dương, Trần Thị NgH., Lê Xuyên, An Khê,
v.v…, đã là những nhà văn như thế. Ngoài những người
này, miền Nam cũng còn nhiều nhà văn khác nữa mà ta
không thể kể hết tên ở đây.
Thi
pháp trong các tác phẩm cả thơ lẫn văn của văn học
miền Nam, như đã nói, chính là cái cho ta thấy sự bắt
nhịp, tính song song, nét hoà quyện với thế giới của
nó. Trong cung cách thể hiện, trong việc "lập trình"
tác phẩm. Không khí tự do, cởi mở và sự tiếp cận
rộng rãi với thế giới của miền Nam đã tạo điều
kiện cho các nhà văn của nó bước đi trên những con
đường đầy mầu sắc ấy.
3.
Một nền văn học đậm tính nhân bản, nhân văn
So
sánh với văn học miền Bắc, vốn là một nền văn học
mà âm hưởng, giọng điệu của nó phản ánh tính sử
thi, thiên về việc thúc giục con người bước vào trận
chiến, ca tụng chiến công, thậm chí tô mầu cho cuộc
chiến (và miền Bắc có những lý do để theo đuổi con
đường đó), văn học miền Nam phản ánh cái đau thương,
mất mát của con người trong cuộc chiến nhiều hơn. Nó
đi gần với những trạng thái nhân thế, những gập
ghềnh, chao đảo trên nẻo nhân sinh của con người hơn.
Có nghĩa là, trong văn học miền Nam, người ta có thể
nhìn thấy những rung động, những tình cảm phản ánh
toàn bộ những cung bậc sống của con người trong cuộc
chiến. Đau thương, bi phẫn, khốn khổ, cay đắng, tuyệt
vọng, lên án cuộc chiến. Lồng vào những xúc cảm đớn
đau nhưng hết sức con người ấy, đâu đó, người ta
cũng thấy có những niềm vui, những hạnh phúc nho nhỏ,
cỏn con trong đời thường, những hãnh diện, tự hào vì
vai trò của mình trong việc bảo vệ quê hương.
Nếu
bức tranh của đời sống có thể bao gồm đủ mọi sắc
độ cuộc đời, thì, không kể những niềm vui, những
tiếng cười, những nét thắm tươi mà người ta vẫn có
thể tìm thấy trong đời sống văn học miền Nam trong
giai đoạn hai mươi năm này, những cung bậc đau thương
nhất trong bản bi ca của con người cũng có thể được
tìm thấy ở đây. Tôi gọi đó là những nét nhân văn.
Những nét đẹp của con người. Văn là vẻ đẹp. Nhưng
cái-đẹp-người cũng có nhiều khuôn mặt. Có khuôn mặt
của hạnh phúc. Và có khuôn mặt của khổ đau. Tôi nghĩ
những bức tranh đời trong các tác phẩm của Dostoievsky,
những bức tranh đi gần với sự xót xa, đau khổ, dằn
vặt của kiếp người, thật sự rất nhân văn. Nhà văn
này đã nói, "Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới".
Và cái đẹp của ông là gì? Chắc chắn là nó có bao gồm
những điều muốn xé toạc thế giới, xé toạc trái tim
con người, nhưng chính những điều ấy, cùng với sự hy
sinh và kiên nhẫn của chính con người để chịu đựng
chúng, từ đó vươn lên và chiến thắng, đã tạo nên cả
khuôn mặt lẫn trái tim con người. Một nền văn học đi
gần với những điều ấy, tôi gọi đó là một nền văn
học mang tính nhân bản. Hơn nữa, nó phản ánh cái khuôn
mặt mang nét nhân văn của nhân loại.
Người
ta có thể đọc Dương Nghiễm Mậu hay Phan Nhật Nam để
nhìn thấy rõ điều đó. Dù sống trong thành phố hay ở
ngoài mặt trận, những con người cầm bút này đã trung
thực viết nên những trang văn phản ánh cuộc sống chung
quanh và trong trái tim mình. Họ đã đi dọc quê hương và
đi dọc tâm hồn người để nhìn ra những điều đớn
đau, xót xa và bi đát của thân phận con người trong cuộc
chiến. Một cuộc chiến tàn khốc mà nhiều người viết
miền Nam, kể cả những nhà văn này, đã vừa sống với
vai trò của mình như một công dân, vừa sống với trái
tim mình như một con người, để viết lên những trang
văn thấm đẫm sự khổ đau, bi phẫn với một thái độ
trung thực nhất.
Mà
không phải chỉ có Phan Nhật Nam và Dương Nghiễm Mậu.
Còn biết bao nhà văn, nhà thơ khác của miền Nam như Thảo
Trường, Y Uyên, Nhật Tiến, Thế Uyên, Nhã Ca, Võ Phiến,
Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ
Vũ, cùng với bao nhiêu khuôn mặt, cây bút khác nữa, đã
nói lên tất cả những trạng thái con người của cả
một nửa dân tộc trong cuộc chiến. Họ thẳng thắn nhìn
nhận những nỗi đau của con người, thân phận của nó,
với những tân toan cay đắng cũng như ngọt bùi hạnh
phúc, trong những nhát cắt, giống như những vết chém,
những tia sét, của một cuộc chiến tàn khốc và vô lý.
Họ nhìn thẳng vào những góc cạnh tan nát của gương
mặt quê hương. Đôi khi, họ cũng lau mồ hôi và nước
mắt trên khuôn mặt ấy, nhưng họ đã để cho cái nhân
dáng ấy được nguyên là nó. Không tô vẽ. Không giấu
giếm. Cho dù họ có xót xa, đau đớn đến mấy chăng
nữa.
Mà
cũng không phải chỉ mô tả hình ảnh một "quê hương
tan rã" (nói theo ngôn ngữ của Chinua Achebe), những
nhà văn miền Nam, trong khung cảnh chiến tranh tàn khốc,
vẫn không quên theo dõi và mô tả cuộc sống và tâm hồn
người như nó vẫn đang tiếp diễn, bất kể tên đạn
và lửa cháy vây quanh. Họ mô tả cuộc sống bên trong và
bên ngoài con người như nó vẫn đang vận hành, máy động.
Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Trùng
Dương, Lệ Hằng, Trần Thị NgH., chẳng hạn, vẫn được
phép viết về những thao thức của thân xác người nữ,
của những đam mê cháy bỏng bên ngoài hay của những dằn
vật, bùng bốc tình dục bên trong. Nguyễn Đình Toàn vẫn
được viết về cái hơi nóng âm ỉ, như một hòn than
trước khi nguội chết, của một ông già, khao khát một
thân thể phái nữ. Nhân vật chính của ông, ở đây, như
quán chiếu, nói thầm với chính lòng mình, với cơn khao
khát mình, trong một không gian đầy sương mù của lãng
quên. Và trong một giọng nói nhuốm đầy "khí hậu"
mục rữa của tuổi già.
Hay
như Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, trong một truyện ngắn, đã
viết về cái yếu đuối, tầm thường của một con
người. Truyện ngắn "Lòng Trần" kể về cuộc
đời của con người ấy. Nửa đầu là đời sống của
một cô đào hát bội tài sắc, được bao người yêu
chiều, săn đón; nửa sau, lấy chồng, là người đã mê
man theo mình, chăm sóc từng chút cho mình trong cuộc đời
duổi rong lưu diễn. Rồi chồng chết, cô cắt tóc đi tu,
trở thành một sư nữ, sống một cuộc đời khổ hạnh,
giữ gìn trai giới rất nghiêm cho tới lúc tuổi già. Thế
mà, trước khi chết, trong cơn hấp hối, người nhà bu
quanh, mong nghe những lời chỉ giáo cuối cùng, thì vị sư
nữ già chỉ khát khao xin được húp một muỗng nước
mắm. Và bà, lúc ấy, cũng chẳng còn nhớ mình là một
vị sư nữ được bao người trọng vọng, nể vì. Bà chỉ
còn nhớ mình là một cô đào hát bội mà thôi. Và người
nhà đã từ chối bà muỗng nước mắm mà bà thèm khát
ấy, với mong ước giúp bà đi cho trọn đường để
thành chánh quả. Bà chết đi trong cơn hành hạ của thể
xác vì không được thoả mãn mong ước cuối cùng. Trong
một đất nước đang trong cơn binh đao, lửa máu, câu
truyện về cái thèm muốn tầm thường, bé nhỏ ấy của
con người vẫn được viết ra và được phổ biến tại
miền Nam. Cái nhân bản, nhân văn, cái khuôn mặt người
của văn học miền Nam, ở một mức độ và góc cạnh
nào đó, cũng nằm trong ấy.
Như
thế, văn học miền Nam, trong tất cả những sắc thái
miêu tả nhân sinh, miêu tả cuộc đời, miêu tả cuộc
chiến, và miêu tả tâm hồn con người ấy, đã cho thấy
đầy đủ cái quang phổ của cuộc đời. Dù cái quang phổ
ấy như thế nào đi chăng nữa, nó đã cho người ta thấy
được con người. Và con người miền Nam cũng như tâm
hồn của nó đã được chiếu sáng trong cái dải sáng,
khi thì chập chờn, lúc lại chói gắt, nhiều mầu sắc
ấy. Ở đó, chúng ta thấy một khuôn mặt người. Một
khuôn mặt có những khi bị xé nát, dúm dó, đau khổ,
quằn quại và đầy thương tích. Nhưng đó là một khuôn
mặt người. Nó không phải một tấm mặt nạ.
4.
Một nền văn học khai phóng, đa sắc, và đa dạng
Văn
học miền Nam là một nền văn học khai phóng. Có thể
chưa phải là "khai minh", vì nó vẫn còn những
vùng tối, những giới hạn, do những yếu tố thuộc cả
về con người lẫn lịch sử. Nhưng đó là một nền văn
học mở. Nó mở ra thế giới, đón nhận nhiều luồng
gió mới với tất cả những màu sắc và đường nét của
một thứ "hương xa". Nó liên thông với thế
giới, gắn bó mật thiết với tất cả những gì thuộc
về con người. Sở dĩ như thế vì, trước hết, yếu tố
căn bản của nền văn học này, để nhắc lại lần nữa,
là tự do. Khái niệm và vấn đề hành xử quyền tự do
ấy có thể được nhìn thấy trong nhiều lĩnh vực khác
nhau.
4.1
Lĩnh vực Giáo dục
Trước
hết là trong lĩnh vực giáo dục. Đây là một nền giáo
dục mở, bắt nguồn từ những quan niệm đúng đắn và
khai phóng. Trong giai đoạn đầu, những lớp học theo
chương trình Pháp và Pháp-Việt đã đào tạo được một
lớp trí thức có cái nhìn rộng và chắc chắn về văn
chương và văn học thế giới. Lớp người này đã đóng
góp được những cống hiến quý báu cả trong lĩnh vực
sáng tác lẫn trong lĩnh vực đào luyện những thế hệ
lớp sau, nối gót họ. Giai đoạn sau, khi môi trường giáo
dục đã được chuyển hẳn qua chương trình Việt, những
nỗ lực trao truyền và phát triển tiếp tục được thực
hiện. Chương trình tiếng Việt dần dần được củng
cố, cả ở cấp độ trung học và đại học. Và nó trở
thành nguồn trao truyền và phát triển kiến thức trên đủ
mọi mặt của học sinh, sinh viên Việt Nam.
Ngay
tại trình độ trung học, học sinh đã được học tập
và hướng dẫn để đón nhận những kiến thức nền,
những kiến thức căn bản trong hiểu biết của con người
về thế giới nói chung. Ngoài phần khoa học tự nhiên,
họ được học hỏi về văn, về sử một cách khách
quan, không định kiến. Và họ bắt đầu được làm quen
với các khái niệm và những vấn đề căn bản của
triết ở năm cuối trung học, trong những lĩnh vực Luận
lý, Đạo đức, Tâm lý, và Siêu hình. Khi lên đến Đại
học, người sinh viên bước vào một khung cảnh mới mẻ
và nhiều tự do hơn nữa. Ở trình độ này, họ càng
nhận thức rõ vai trò của người trí thức nơi thái độ
độc lập trong suy nghĩ. Nền giáo dục đại học tại
miền Nam được phát triển nhờ vào tính tự trị của
đại học. Đại học không chịu áp lực hay ảnh hưởng
của chính quyền.
Trên
phương diện văn học, tại miền Nam, các giáo sư có thể
giới thiệu với môn sinh mình đủ các thứ triết thuyết
và trào lưu mới trên thế giới. Các giáo sư có thể có
những thiên hướng về triết hoặc văn học trái chiều
nhau, nhưng họ vẫn được công khai giảng dạy. Thậm
chí, họ có thể trình bày và giảng dạy cả các khuynh
hướng thiên tả hoặc về chủ nghĩa của Karl Marx mà
không có vấn đề gì. Nguyễn Văn Trung, một giáo sư đại
học và cũng là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học,
đã có thể phát biểu: "Cộng Sản, người anh em
tôi", như tựa đề một "nhận định", một
tiểu luận, của ông (Sau này, hình như đổi lại thành
"Cộng Sản, người anh em thù địch"). Cũng trong
tinh thần khuyến khích phát biểu, trao đổi và dám thẳng
thắn trình bày suy nghĩ của mình, ông còn viết các cuốn
sách như "Ca Tụng Thân Xác" và "Ngôn Ngữ và
Thân Xác", trong khi chúng ta hiểu rằng, trên căn bản,
Việt Nam nói chung, và miền Nam nói riêng, lúc ấy, vẫn
là một quốc gia chịu ảnh hưởng Khổng Mạnh. Ngoài ra,
trong khung cảnh xã hội miền Nam giai đoạn đó, "thân
xác" chưa được lên ngôi, và người ta vẫn dành cho
tinh thần một ngôi vị cao quý. Thân xác, trong văn học
và trên bề mặt đức lý, của tôn giáo cũng như của
đời sống văn học, chỉ là một "vai phụ", cho
dù đôi khi cái "vai phụ" ấy cũng cất tiếng đòi
hỏi quyền sống của nó.
Các
sinh viên được khuyến khích tham dự tranh luận theo nhiều
chiều, mở rộng nhãn quan và tư tưởng mình qua việc
tiếp cận với những trào lưu, chủ nghĩa, triết thuyết
khác nhau. Và tự do đại học là gần như tuyệt đối.
Nguyễn Trọng Văn, một giáo sư Triết trung học và cũng
là một người viết tiểu luận văn học trên một số
tạp chí giai đoạn thập niên 1970, đã có thể thuyết
trình tại đại học Văn Khoa Sàigòn đề tài "Phạm
Duy đã chết như thế nào?". Chúng ta nên nhớ là,
trong giai đoạn đó, Phạm Duy vẫn là một nhạc sĩ rất
nổi tiếng. Bây giờ, có một độ lùi thời gian để
nhìn lại, có thể hiểu rõ hơn về những phức tạp
trong nguyên nhân về vụ thuyết trình này, người ta lại
càng nhận thấy rõ tinh thần tự do, mở cửa trong phát
biểu, trao đổi, tranh luận trong không khí văn học và
sinh hoạt học thuật của miền Nam thời ấy.
4.2
Ảnh hưởng của các triết thuyết
Triết
cũng là một lĩnh vực quan trọng trong việc khai mở,
khuyến khích sự suy nghĩ và đặt vấn đề của con
người. Triết khuyến khích, thúc đẩy người ta đặt
câu hỏi về vấn đề hiện hữu, hiện hữu với tha
nhân, vấn đề sống cùng và sống với người khác, vai
trò của tôn giáo, ý nghĩa của cuộc sống, về vấn đề
luân lý, đạo đức trong đời sống, vấn đề bản thể
của con người, hiểu biết về con người cũng như về
những giới hạn của nó, v.v…
Triết
khiến cho con người không phải là một thực tại "lù
lù có đó", mà là một thực thể hiện sinh sống
động, có hơi thở và máu thịt. Và suy tư. Cogito.
Sinh viên được đào tạo để hiểu biết về cả hai nền
Triết Đông và Triết Tây, nhờ thế, có được sự quân
bình trong hiểu biết, suy nghĩ của mình. Các trào lưu
triết học được nghiên cứu và suy ngẫm. Những khuynh
hướng khác nhau được bênh vực và chống đối. Và
trong những sinh hoạt sôi động, phản ánh tinh thần trao
đổi và học hỏi, người sinh viên được tập cho làm
quen với những cái mới, cái khác. Và cũng từ đó, tập
bao dung hơn với những điều không nằm trong quan điểm,
lập trường của mình. Thái độ ấy làm cho con người
tỉnh táo và sống một cách "nhân văn" hơn. Con
người trí thức, vì thế, tuy được huấn luyện để có
một khả năng phán đoán và chọn lựa, để có một
"thái độ" và chủ kiến trong những vấn đề
của cuộc đời, nhưng họ không được khuyến khích đi
đến chỗ cuồng tín và gạt bỏ niềm tin hay sự xác
tín, suy nghĩ của người khác.
Một
lớp giáo sư, học giả có uy tín thời đó, có thể tạm
kể những tên tuổi như Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh,
Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn
Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, và nhiều người khác nữa,
đã có những đóng góp về mặt này mặt khác, trong cả
hai lĩnh vực Triết Tây và Triết Đông, đã là những đầu
tầu đầy năng lực, kéo cái toa tầu triết miền Nam đi
đến những vùng suy tưởng của đời sống tinh thần
nhân loại.
4.3
Lĩnh vực Dịch thuật và Sáng tác
Nét
khai phóng của văn học miền Nam cũng có thể thấy rõ
trong lĩnh vực dịch thuật. Các tác phẩm dịch thuật
chính là một cây cầu nối rõ rệt nhất đưa con người
từ một nền văn hoá này đến một nền/những nền văn
hoá khác. Nó làm giàu kinh nghiệm và nhận thức của con
người. Qua tác phẩm đến từ những nền văn hoá dị
biệt, người đọc miền Nam được tiếp cận với nhiều
truyền thống văn học khác nhau, những lối sống, ứng
xử, suy nghĩ, mơ mộng… khác với cung cách sống đời
của họ. Người đọc miền Nam có dịp thâu thái những
hiểu biết về con người, nói chung, trên tất cả các
mặt như lịch sử, xã hội, tâm lý, văn hoá từ những
ngọn nguồn khác biệt. Tất cả những điều đó làm
phong phú thêm cái nhìn và sự cảm nhận của độc giả
đối với những hiện tượng con người, những trạng
thái nhân thế.
Theo
Võ Phiến trong "Văn Học Miền Nam / Tổng Quan",
vào năm 1972, thị phần sách dịch chiếm đến 60% số đầu
sách được xuất bản tại miền Nam; và đến năm 1973,
nó đã lên đến 80%. Và theo Trần Trọng Đăng Đàn, trong
"Văn Hoá, Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975", số
dịch phẩm tại miền Nam trong 20 năm đó có thể được
chia ra thành: Pháp 499 cuốn, Đài Loan và Hương Cảng 358
cuốn, Mỹ 273 cuốn, Nga 120 cuốn, Anh 97 cuốn, Nhật 71
cuốn, Ý 58 cuốn, Đức 57 cuốn. Các nước khác chiếm 38
cuốn. Như thế, các sách được dịch, bao gồm cả sách
nghiên cứu và các sáng tác, nhưng chủ yếu là tiểu
thuyết, đến từ cả Âu châu, Mỹ Châu và Á Châu. Chúng
chuyên chở suy nghĩ và kinh nghiệm sống của một mẫu
dân số rộng lớn và bao quát, gần như bao gộp tư tưởng
và đời sống của cả nhân loại. Ta có thể kể tên
những dịch giả tài ba của Việt Nam, như Nguyễn Hiến
Lê, Vũ Đình Lưu (Cô Liêu), Phạm Công Thiện, Bùi Giáng,
Phùng Khánh, Phùng Thăng, Trần Xuân Kiêm, Bửu Ý, Ngọc
Thứ Lang, Nguyễn Hữu Hiệu, Đỗ Khánh Hoan, Mặc Đỗ,
Phạm Trọng Khôi, Đinh Bá Kha, Vương Đăng, và bao nhiêu
dịch giả khác nữa. Tất cả đã kéo thế giới và tâm
tình nhân loại về gần với con người Việt.
Cùng
thời gian đó, trong lĩnh vực dịch, văn học miền Bắc
không phải là không có những đóng góp. Nhưng hầu hết
các dịch phẩm được phổ biến là từ Liên Xô và các
nước Đông Âu trong quỹ đạo Cộng Sản. Những dịch
phẩm này, ở một mặt nào đó, cũng làm giàu cho hiểu
biết và sự nhận thức của con người Việt, nhưng, ở
một mặt khác, đặc biệt với những sáng tác phẩm được
viết trong cái khung của chủ nghĩa Cộng Sản, phản ánh
lý luận và suy nghĩ có phần nào đồng phục và một
chiều, biên độ nhận thức và những kinh nghiệm con
người trong đó không được mở rộng. Chúng có những
giá trị riêng về mặt nhân văn, nhưng có những cung bậc
và mầu sắc phản ánh chưa đạt được tầm phổ quát
của những cái nhìn nhân loại.
Miền
Nam, trong lĩnh vực dịch, từ sự giới thiệu các triết
lý, chủ thuyết, trào lưu văn học, đến các sáng tác
của bao nhà văn nhà thơ tài ba khắp nơi trên thế giới,
đã bơm vào một dòng máu mới cho sự nhận thức và mở
rộng biên độ xúc cảm của người đọc. Nó gắn bó
người đọc Việt với nhịp đập chung của con tim, của
tâm tình nhân loại. Nó làm phong phú thêm cho người đọc,
nhất là cho người viết miền Nam, sự hiểu biết về
những kinh nghiệm con người. Nó đẩy họ đến việc
khám phá chính trong đời sống và tâm hồn mình những
vùng đất lạ, vốn, trước đó, đã có mặt, nhưng chưa
từng được khai hoang. Thế nên, từ đó, sáng tác của
các nhà văn, nhà thơ Việt trở nên hết sức phong phú,
so với giai đọan trước 1954.
Sáng
tác văn học của các nhà văn, nhà thơ Việt, từ đó,
mang đủ giọng điệu, đề tài và phong cách. Con người
sáng tạo trong nền văn học miền Nam như tìm được cái
phần tâm hồn thiếu vắng của mình. Họ đào sâu vào
những nhận thức, những rung động mới khám phá, mới
tìm được. Và họ đã đem cái hiểu biết, cái kỹ năng
mới về mắt nhìn cuộc đời cũng như về những cách
thức mới để mô tả nó vào tác phẩm của mình. Con
người trong các tác phẩm họ như được cấp cho nhiều
chiều hơn. Và hình như nó cũng hạnh phúc và đau khổ
hơn trước. Cả cái cay đắng, mệt mỏi, thất vọng,
chán chường, lẫn cái ngọt ngào, lấp lánh, thiết tha,
hy vọng của cuộc sống đều như ùa vào trong tác phẩm
họ.
Bao
nhiêu nhà văn, nhà thơ miền Nam đã tự nói, tự viết về
mình, cũng như đã nói hộ, viết hộ, cho bao con người
miền Nam, những tâm tư, tình cảm mà cuộc sống đã đẩy
họ đối mặt với. Những nhà văn tiêu biểu và được
người đọc nhận biết nhất đã được chúng ta thử
nhận diện trong một phần trước, phần nói về cái hiện
đại của văn học miền Nam. Dù sao, đó chỉ là một vài
khuôn mặt và nhân dáng nổi bật. Văn học miền Nam trong
giai đoạn này, thật sự, đã được làm nên bởi một
tập hợp những người viết với những bản sắc khác
nhau, những suy nghĩ và cách diễn tả, trình bày khác
nhau. Cái quần thể tạo thành bởi tất cả những người
viết ấy đã làm nên văn học miền Nam. Và cái văn học
ấy, ở một mức độ nào đó, cũng đã làm nên con người
miền Nam trong 20 năm của cuộc chiến. Và những con người
đó vẫn đang còn sống, tan loãng và dàn trải vào cuộc
sống mới mẻ tại quê nhà, cũng như vào cuộc sống mới
ở khắp nơi, tại khắp các vùng đất có con người sinh
sống trên mặt địa cầu. Và cái văn học ấy đã thấm
đượm, tiếp tục làm cho họ sống và thở với những
giá trị nhân bản và nhân văn mà họ đã, trong một giai
đoạn sống, được tiếp cận trong đời.
4.
4 Sự nở rộ của báo chí, tạp chí văn học và ảnh
hưởng của nó nơi người viết, người đọc
Tự
do báo chí cũng là một yếu tố góp phần vào việc phát
triển văn học miền Nam. Trong cả hai nền đệ nhất và
đệ nhị Cộng Hoà tại miền Nam, báo chí đã giống như
một vườn hoa muôn sắc, phản ánh tiếng nói, quan điểm
và suy tư của cả một xã hội. Kể từ sau di cư 1954,
tiếng nói của báo chí miền Nam đã hiện rõ với những
tờ báo như Tự
Do
của nhóm Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong, Nguyễn
Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Phạm Tăng, Đinh Hùng, và tờ Ngôn
Luận
của nhóm Hồ Anh. Rồi tiếp đến là những tờ như Người
Việt Tự Do
của Mặc Thu, Tiếng
Miền Nam
của Nguyễn Phương Thiệp, Tự
Do
của Lý Trung Dung (sau đó, thay vào bằng Phạm Việt
Tuyền), Chính
Luận
của Đặng Văn Sung,
Tin Văn
của Tô Văn, Sống
của Chu Tử, Thời
Luận
của Nghiêm Xuân Thiện, Tiền
Tuyến
của Lê Đình Thanh, Xây
Dựng
của Nguyễn Quang Lãm. Rồi Tin
Sáng, Dân Chúng, Dân Đen, Chánh Đạo, Dân Chủ, Thời Đại,
Dân Tiến, Sống Mới, Chuông Mai, Thần Chung, Điện Tín,
Đại Dân tộc, Sóng Thần, Hoà Bình, Công Luận,
v.v…
Chúng
ta không thể kể hết được tên các tờ báo trong 20 năm
văn học miền Nam. Đó là một sự nở rộ của báo chí,
thể hiện nhiều lập trường và quan điểm khác biệt.
Với những ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực.
Nhưng, tất cả những sự nở rộ đó đã cho thấy một
không khí nhộn nhịp và náo động, nhưng khá nhiều chất
tự do của miền Nam.
Ngoài
các tờ báo, ta cũng phải nói đến sự phát triển và
ảnh hưởng của các tạp chí văn học. Chúng ta có thể
kể đến những tờ như Sáng
Tạo
của nhóm Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ,
Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo (với sự cộng tác thường
xuyên của nhiều tên tuổi trong giới văn học nghệ thuật
thời đó như Quách Thoại, Lữ Hồ, Duy Thanh, Ngọc Dũng,
Thái Tuấn, Tô Thuỳ Yên, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Cung Trầm
Tưởng); Hiện
Đại
của Nguyên Sa Trần Bích Lan; Bách
Khoa
của Huỳnh Văn Lang, (và, sau đó, Lê Ngộ Châu, với nhiều
cây bút được độc giả theo dõi kỹ như Võ Phiến,
Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, Nguyễn Ngu Í, Vũ Hạnh, Nguyễn
Văn Xuân, Đoàn Thêm, Bình Nguyên Lộc, v.v.); Đại
Học
của linh mục Cao Văn Luận (với những bài viết đầu
tiên của Nguyễn Văn Trung, mang theo một luồng gió mới
lạ vào tiểu luận, nhận định văn học với hướng
phân tích hiện tượng luận theo thể điệu Sartre-Nguyễn
Văn Trung); Nghệ
Thuật
của Mai Thảo, với thư ký toà soạn là Viên Linh; Thế
Kỷ 20
với Nguyễn Khắc Hoạch; Quê
Hương
của Nguyễn Đăng Thục; Vấn
Đề
của Vũ Khắc Khoan; Văn
Học
của Phan Kim Thịnh; Văn
Nghệ
của Lý Hoàng Phong và Dương Nghiễm Mậu; Văn
của nhóm Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao (và, sau
đó, của Mai Thảo); ba tờ tạp chí Hành
Trình, Đất Nước, Trình Bày
của nhóm Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Lý Chánh Trung; Giữ
Thơm Quê Mẹ
của Nhất Hạnh. Rồi Nghiên
Cứu Văn Học
(Thanh Lãng), Tư
Tưởng
và Vạn
Hạnh
(nhóm Phật giáo thuộc viện Đại học Vạn Hạnh, nổi
bật với Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Ngô Trọng Anh, Tuệ
Sỹ, Nguyễn Hữu Hiệu), Đối
Diện
(và, sau đó, là Đồng
Dao, ĐD, Đứng Dậy,
của nhóm Công Giáo, với các linh mục Chân Tín và Nguyễn
Ngọc Lan); Ý
Thức
(Lữ Kiều, Nguyên Minh), Khởi
Hành,
và sau đó là Thời
Tập
(Viên Linh), Thái
Độ
(Thế Uyên), Đời
(Chu Tử) …
Tất
cả các tạp chí/nguyệt san này, với những tác giả
thuộc đủ mọi nhóm, đoàn, gốc gác địa lý, khuynh
hướng xã hội, tôn giáo, hoặc trào lưu văn học, đã
thể hiện tiếng nói, tư tưởng học thuật, quan điểm
xã hội, lập trường chính trị của mình một cách rõ
nét; từ đó, ảnh hưởng đến lối nhận thức, suy nghĩ,
nhìn ngắm vấn đề của tầng lớp trí thức, nói riêng,
và của người đọc miền Nam, nói chung. Qua những tạp
chí văn học, đặc biệt là tờ Văn,
người đọc miền Nam đã được giới thiệu để làm
quen với những tư tưởng, trào lưu văn học mới nhất
trên thế giới. Họ cập nhật được những kiến thức,
hiểu biết về văn học, văn chương của thế giới. Và,
cũng từ đó, những sáng tác phẩm của nhà văn miền Nam
trong giai đoạn này đã bứt thoát khỏi cái ảnh hưởng
của trào lưu lãng mạn tiền chiến để bước chân vào
những vùng khai phá mới: tiểu thuyết mang mầu sắc hiện
sinh, ảnh hưởng của chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa
siêu thực, dấu ấn của phân tâm học, những sáng tạo
theo khuynh hướng tiểu thuyết mới, v.v…
Việc
thành công hay thất bại, cũng như nếu thành công thì ở
mức độ nào, của những sáng tạo đó không phải là
chủ đích của phần viết này. Ở đây, chúng ta chỉ ghi
nhận là đã có những chuyển động, trên phương diện
văn học, về phía những cái mới, qua sự ảnh hưởng
của các tờ tạp chí đó. Thái độ của người dân
trước những vấn đề của xã hội, của con người cũng
được đào sâu, mở rộng hơn, trên một số khía cạnh.
Người ta không sống thờ ơ, cạn cợt như trước được
nữa. Trong một khung cảnh xã hội như thế, trước những
vấn đề cấp bách, thiết thân với cuộc sống con người
được mang ra mổ xẻ, đào xới đến tận gốc rễ như
thế, con người, nếu không nhập cuộc, theo một cung cách
nào đó, thì cũng đã cảm thấy mình gắn bó hơn với
những vấn đề bức thiết của xã hội, với lương tâm
của con người, của chính mình, và với hướng đi của
đất nước.
III.
Tóm Kết:
Đặt
trong sự phát triển chung của văn học Việt Nam, cũng như
của văn học hiện đại thế giới, hai mươi năm văn học
miền Nam đã có những đóng góp hết sức đáng kể. Nó
cũng phản ánh văn học thế giới trong cuộc sống hiện
đại. Dòng văn học ấy không bị cắt rời khỏi những
tư tưởng, trào lưu chung của con người, đặc biệt con
người hiện đại, với những dằn vặt, suy tư, trăn
trở, khủng hoảng, tìm kiếm, và với những hạnh phúc,
đớn đau, chán chường, tuyệt vọng, hay những nhận
thức, ý thức về bản thể, về hư vô, về vai trò của
con người như một khả thể, như một giá trị (một giá
trị tự tại trong cuộc sống giữa đời, hay một giá
trị siêu hình khi đối mặt với hư vô hay với ý nghĩa
đời người). Con người trong các tác phẩm văn học miền
Nam không mang tính chất mặc định, đông cứng. Mà nó
được trình hiện ở đủ mọi góc độ, gam mầu, và
trạng thái nhân gian.
Văn
học miền Nam, qua đó, cũng gắn bó với các khám phá về
những chiều kích tâm lý, những chiều sâu vô thức của
con người. Văn học miền Nam, cùng với văn học thế
giới, trong 20 năm đó, qua những hình thức mới, đã góp
phần tìm hiểu và phản ánh con người như một thân phận
và một giá trị: văn học đã đặt con người trước
nhiên giới và nhân giới như những chứng nhân nhìn cuộc
hiện sinh bi tráng, hân hoan hạnh phúc cũng như khổ đau
hệ luỵ của nó. Nó cũng đặt con người cầm bút Việt
Nam nói chung, các nhà văn nhà thơ Việt Nam nói riêng,
trước lương tâm nhân loại. Nói như William Faulkner trong
phần cuối của bài diễn văn nhận giải Nobel:
"Tôi
tin tưởng là con người không chỉ chịu đựng để sống
còn: nó còn thắng cả định mệnh của nó. Con người
bất tử không phải ở chỗ nó là loài vật duy nhất
trong các tạo vật cất lên tiếng nói không mệt mỏi về
thân phận của chính mình, nhưng ở chỗ nó có một thần
khí, một tâm hồn có khả năng trắc ẩn và hi sinh và
chịu đựng. Nhiệm vụ của nhà thơ hay nhà văn là phải
viết về những điều ấy. Trọng trách của nhà văn nhà
thơ là phải giúp con người chịu đựng để sống còn
bằng cách nâng cao tâm hồn con người, bằng cách nhắc
nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và hy vọng
và kiêu hãnh và bác ái và từ bi và hi sinh đã là vinh
quang huy hoàng của quá khứ nó. Tiếng nói của nhà thơ
không nhất thiết chỉ là để ghi lại dấu chứng của
con người, nó còn có thể là một trong những thứ nâng
đỡ, những trụ cột giúp cho con người kiên trụ và
chiến thắng."
(9)
Trong
hai mươi năm văn học miền Nam, các người cầm bút miền
Nam nói chung, và đặc biệt trong quy chiếu giới hạn vào
các nhà văn, nhà thơ Việt miền Nam, nói riêng, đã hoàn
tất khá tốt đẹp điều đòi hỏi mà Faulkner, như một
nhà văn tài năng của thế kỷ XX, và như một biểu tượng
cao đẹp của lương tâm nhân loại, lương tâm con người,
đã cất tiếng nhắc nhở: Nhà văn, ngoài nhiệm vụ giúp
con người chịu đựng để sống còn, ngoài trách nhiệm
nhắc nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và
bác ái và hi sinh đã từng là những điểm sáng soi chiếu
vóc dáng nó, các người cầm bút VN, trong hai mươi năm
văn học miền Nam, đã làm được công việc cần thiết
và cao đẹp ấy: nhắc nhở con người về tính nhân bản
mà nhiều khi nó đã bỏ mất, về sức sống và sự chịu
đựng mãnh liệt để tồn tại và vươn tới của con
người nói chung, con người Việt Nam nói riêng.
Văn
học miền Bắc, trong bối cảnh và chủ trương riêng của
mình, trong hai mươi năm của cuộc chiến, đã có những
nét vẽ riêng, những bảng mầu, những cung bậc, tiếng
nói riêng, để, phần nào, định dạng và định tính xã
hội và con người miền Bắc. Qua đó, cũng cho thấy một
khuôn mặt cần được nhìn ngắm của cuộc chiến, của
lịch sử Việt Nam.
Văn
học miền Nam, cũng trong giai đoạn khó khăn ấy, không hề
rời xa truyền thống, bám rễ chắc chắn vào những giá
trị bền vững và tốt đẹp của truyền thống, trong hai
mươi năm sống và thể hiện sức sống của mình, nó đã
tiếp tục phát triển và liên thông, nắm tay với thế
giới, với con người trên khắp cõi đất, để bước
chân vào thời hiện đại, với tất cả những nét khai
phóng và đa sắc, đa dạng của nó, với tất cả những
cung bậc, những gam mầu tuyệt vọng và thăng hoa của nó.
Văn
học miền Nam, trong hai mươi năm ấy, đã phản ánh được
con người, cái nhân văn của con người, cái tâm tình của
con người.
Văn
học miền Nam, trong hai mươi năm ấy, đã cho thấy rõ
nét: Văn Học là Nhân Học. Nó đi vào cái cốt lõi, vào
trái tim của Con Người. Con Người viết hoa nói chung, và
con người Việt Nam nói riêng.
Bỏ
mất đi phần đóng góp đầy mầu sắc cũng như những
phản ảnh cao đẹp và cần thiết đó, văn học Việt
Nam, trong giai đoạn phát triển tươi tốt ấy của rừng
cây văn học nhân loại, còn lại gì?
Chúng
ta, như những Con Người Việt Nam nói chung, còn lại gì?
Bùi
Vĩnh Phúc California,
7-XII-2014
.
----------------------
.
Chú
Thích:
(*)
Khai triển từ bài thuyết trình cùng tên của tác giả
tại hội thảo về Văn
Học Miền Nam 1954-1975
tại Westminster, Nam Califormia, ngày 6 & 7 tháng 12, 2014.
(1)
Nguyên văn bài thơ "Chuyện Tình" của Đỗ Quý
Toàn:
Ôi
anh yêu em vì em biết nói
Em đã biết thưa em còn biết gọi
Buổi sáng trời mưa khiến anh nhớ em
Bây giờ trời nắng anh nhớ em hơn
Em đã biết thưa em còn biết gọi
Buổi sáng trời mưa khiến anh nhớ em
Bây giờ trời nắng anh nhớ em hơn
Ngồi
xuống đây đi nghe chim đang hót
Đồng cỏ bàn tay trời cao mắt ướt
Khi ngó nhau thôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi đó như hai hòn bi
Đồng cỏ bàn tay trời cao mắt ướt
Khi ngó nhau thôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi đó như hai hòn bi
Có
cành hoa đẹp anh hái cho em
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Và anh sẽ khóc miên man suốt ngày
Ôi chả bao giờ buồn như bữa nay
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Và anh sẽ khóc miên man suốt ngày
Ôi chả bao giờ buồn như bữa nay
Này
em yêu quý em có biết nghe
Trên cánh đồng cỏ có con bò kia
Nó kêu “bò” “bò” và nó ăn cỏ
Trời hôm nay cao, yêu em, hỡi gió
Trên cánh đồng cỏ có con bò kia
Nó kêu “bò” “bò” và nó ăn cỏ
Trời hôm nay cao, yêu em, hỡi gió
Và
trên đỉnh đồi có cây to tướng
Ở một cành ngang có một tổ kiến
Có con đi ra có con đi vào
Trời hôm nay nắng, yêu em xiết bao
Ở một cành ngang có một tổ kiến
Có con đi ra có con đi vào
Trời hôm nay nắng, yêu em xiết bao
Này
em yêu dấu em nào có hay
Hồi nãy trên trời có con chim bay
Có con chim nó bay qua trên trời
Trời xanh đến thế đôi mình lứa đôi
Hồi nãy trên trời có con chim bay
Có con chim nó bay qua trên trời
Trời xanh đến thế đôi mình lứa đôi
(2)
Một dị bản khác, dài hơn, có những câu hay hơn, nhưng,
trong cái nhìn của tôi, bố cục nói chung lại không chặt
như dị bản đã ghi trên kia. Tôi ngờ rằng dị bản dài
hơi dưới đây đã được nhà thơ sửa chữa và bổ túc
thêm vào dị bản ngắn, đã được viết trước đó:
Đến
anh thì đến hôm nay
Lỡ mai gió lật chở đầy mưa qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt, ngắn tà váy kiêu
Đến anh lưng thắt chiết yêu
Sểnh tâm phá giới con diều ái ân
Gót ngờ rớt chín phân vân
Để sau một hóa mười lần đến anh
Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em
Hồn anh em thắp lên xem
Ác như một chiếc lồng đèn kéo quân
Tình anh sương giá đầy sân
Cần em mái phủ cho thân ấm nhờ
Chuyện mình mới nửa trang thơ
Phải hai cùng viết trang thơ vẹn tình
Chờ em anh để râu xanh.
Lỡ mai gió lật chở đầy mưa qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt, ngắn tà váy kiêu
Đến anh lưng thắt chiết yêu
Sểnh tâm phá giới con diều ái ân
Gót ngờ rớt chín phân vân
Để sau một hóa mười lần đến anh
Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em
Hồn anh em thắp lên xem
Ác như một chiếc lồng đèn kéo quân
Tình anh sương giá đầy sân
Cần em mái phủ cho thân ấm nhờ
Chuyện mình mới nửa trang thơ
Phải hai cùng viết trang thơ vẹn tình
Chờ em anh để râu xanh.
(3)
Cũng nên nhắc lại là bất cứ diễn dịch nào, đặc
biệt trong lĩnh vực văn chương, ở những mức độ khác
nhau, đều có phần "vũ đoán". Thậm chí, đều
cần phải "vũ đoán". Dĩ nhiên, trên một cơ sở
lập luận nào đó. Tất cả mọi diễn dịch văn học đều
mang tính chủ quan, và đó là một sự chủ quan mang tính
bản thể luận. Xin xem Bùi Vĩnh Phúc, "Về
Tính Vũ Đoán trong Viết, Đọc, và Thẩm Thức Văn Chương"
(18/8/2009) tại http://damau.org/archives/8179
.
(4)
Xem Hoàng Hưng: "Thảo
luận về Dịch Thuật: Từ các bản dịch Le Pont Mirabeau,
nghĩ về dịch thơ"
(27/6/2014) tại
http://vanviet.info/thao-luan/thao-luan-ve-dich-thuat-tu-cac-ban-dich-le-pont-mirabeau-nghi-ve-dich-tho/
(5)
Liên văn bản nối kết nhiều loại văn bản khác nhau, từ
nhiều nguồn, nhiều trung tâm văn hóa khác nhau, để làm
thành một “tấm vải” đan kết chằng chịt bởi những
trích dẫn khác biệt. Những “tấm vải” này sẽ có
hình dáng khác nhau trong sự nhìn ngắm cụ thể của mỗi
một người đọc. Với kinh nghiệm, cá tính, cùng tất cả
những yếu tố khác tạo nên con người đặc thù của
mình, người đọc sẽ nhìn ra trong tác phẩm mình đang
đọc dần dần hiện lên hình dáng “tấm vải văn bản”
của tác phẩm mà người ấy đang tiếp cận. Từ đó,
dẫn đến ý nghĩa của tác phẩm đối với riêng người
ấy. Khái niệm “liên văn bản”, như thế, gắn bó chặt
chẽ với vai trò và cá tính của người đọc. Từ đó,
nó lại liên hệ đến phương pháp phê bình dựa trên sự
hồi ứng của người đọc (Reader-Response Criticism). Và,
nói rộng hơn, nó liên hệ đến mỹ học tiếp nhận
(Reception Theory) phát xuất từ trường phái Konstanz của
Đức.
(6)
Về Thanh Tâm Tuyền, đã có nhiều nghiên cứu đào sâu
vào những gốc rễ tinh thần cũng như những góc cạnh
hình thức của thơ ông, nên tôi xin phép miễn bàn thêm ở
đây. { Năm 1986, tôi cũng đã viết một bài về thơ tự
do của Thanh Tâm Tuyền, xin xem "Thanh
Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy",
đăng làm hai kỳ, tại
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=5335.
Năm 2006, khi nhà thơ qua đời, tôi cũng đã có bài về
thơ Thanh Tâm Tuyền ở giai đoạn sau; xin xem
"Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền (Đọc lại Thơ Ở Đâu
Xa)",
Talawas 21/4/2006,
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6997&rb=0101,
và tại Văn (California, Hoa Kỳ) số tưởng niệm Thanh Tâm
Tuyền, số đôi 113 & 114, tháng 5 & 6, 2006.} Trong
phần trình bày này, chỉ nên nói thêm rằng cái tài thơ
ấy đã may mắn được nuôi dưỡng và phát triển trong
một vùng đất tốt. Nó không bị còi cọc vì đã không
bị kìm hãm, đè nén hay bứng gốc. Và nó đã cho ra những
hoa trái tốt đẹp, như ta đã thấy.
Về
thơ Tô Thuỳ Yên, trong khoảng trên dưới 15 năm trở lại
đây, cũng có một số bài viết về thơ ông. Nhiều năm
trước, trong giai đoạn 1992-1994, tôi cũng đã có một bài
viết khá kỹ, sau đăng làm nhiều kỳ (xin xem
"Tô Thuỳ Yên: Thơ, như một vinh dự lầm than của
kiếp người")
tại http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5411&rb=0102),
nên cũng xin không nói thêm ở đây.
Viên
Linh và Du Tử Lê cũng là những tài thơ đặc biệt của
miền Nam. Về thơ Viên Linh trước 1975, bài tôi nhớ và
có nhiều sự thích thú là bài "Đêm
Trường",
với phong cách nửa lãng mạn, tiền chiến Hà Nội, nửa
hiện đại, sáng tạo Sàigòn. Với cách dùng chữ tài hoa
và hình ảnh độc đáo, tác giả đã tạo được một
khí hậu đặc biệt cho bài thơ của mình:
Nhớ
em rồi Cúc Hoa xưa
Đêm nay dưới ngói trời mưa tầm tầm
Nhớ em vèo cái thu âm
Hồn theo bóng ngoại
phân thân chín từng.
Đêm nay dưới ngói trời mưa tầm tầm
Nhớ em vèo cái thu âm
Hồn theo bóng ngoại
phân thân chín từng.
Nhớ
em ly rượu còn lưng
So đôi đũa mộc cười bừng cơn say
Phải anh rồi phải anh đây
Bữa cơm hai bóng
một ngày phần dương.
So đôi đũa mộc cười bừng cơn say
Phải anh rồi phải anh đây
Bữa cơm hai bóng
một ngày phần dương.
Nhớ
anh chưa Cúc mắt vàng
Cúc xanh mi Cúc biếc hường trái tim
Cúc đen đâu đó Cúc mềm
Vùi anh trong bụng
Cúc hiền như dao.
Cúc xanh mi Cúc biếc hường trái tim
Cúc đen đâu đó Cúc mềm
Vùi anh trong bụng
Cúc hiền như dao.
Năm
năm đời trú mái sầu
Thời gian phai nhạt những mầu yêu đương
Nhớ em lần lữa chiếu giường
Đêm nay lại một đêm trường như xưa.
Thời gian phai nhạt những mầu yêu đương
Nhớ em lần lữa chiếu giường
Đêm nay lại một đêm trường như xưa.
Còn
thơ Du Tử Lê trước 1975, có lẽ một trong những bài tôi
thích nhất là bài "Khi Người Về":
Người
về đâu không người không về đâu
Chiều chưa mưa nên chiều chưa thay màu Tôi cây me đứng run từng lá Lá đã vàng rồi tôi đã vàng theo
Tình người say không tình người không say Đêm sắp sang nên đêm sắp ùa đầy Hồn tôi ngủ sớm trong tay áo Tay áo người bay hương ngất ngây (…)
Chiều chưa mưa nên chiều chưa thay màu Tôi cây me đứng run từng lá Lá đã vàng rồi tôi đã vàng theo
Tình người say không tình người không say Đêm sắp sang nên đêm sắp ùa đầy Hồn tôi ngủ sớm trong tay áo Tay áo người bay hương ngất ngây (…)
Những
câu thơ với những hình ảnh ẩn dụ, đẹp, mềm, và đầy
thiên nhiên. Nhưng cái nhịp điệu của những câu thơ thì
lại tạo ấn tượng quẩn quanh, buồn bã. Và như có chút
gì ẩm mục. Ẩm mục, có lẽ, ngay cả cái mùi "hương
ngất ngây" kia. Cái mùi hương ẩm mục của tình yêu
mà những kẻ yêu nhau không ai lại muốn rời bỏ.
Đặc
biệt hai tài thơ này, khi ra ngoài nước, lại ngày càng
khởi sắc. Tôi nhớ Viên Linh với tập thơ "Thuỷ Mộ
Quan", và, đặc biệt, một đoạn trong bài "Ẩn
Mật":
Ba
sinh hương lửa có gần Gửi
em đầy đủ
Thân
Tâm
Ý
Lời.
Gửi em tiếng khóc câu cười
Văn Chương, Hạnh Phúc, Cuộc Đời, v.v…
Thân
Tâm
Ý
Lời.
Gửi em tiếng khóc câu cười
Văn Chương, Hạnh Phúc, Cuộc Đời, v.v…
Hãy
để ý đến từ "v.v…" viết tắt kia. Nó chui
được vào thơ mới lạ. Và thần tình nữa.
Còn
Du Tử Lê thì luôn có những nỗ lực làm mới ngôn ngữ.
Ông cũng thường tạo ra những phân cảnh trong thơ. Như
trong kỹ thuật của cinéma. Những phân cảnh lóng
lánh và đầy thần sắc. Chẳng hạn:
mưa
ủ bệnh: những con đường cớm nắng / tiếng hát còn ủ
bệnh những chia, ly / tôi ủ bệnh: những ngày em nhập
viện / cây góc vườn ôm ngực ốm o, ho.
lá
ủ bệnh: những mùa hò hẹn, lỡ / môi-khuyết-trăng ủ
bệnh nhớ thơ, nàng / chim ủ bệnh: giữa đường bay thất
lạc. / tôi ủ tình: người trả lại. trăm năm.
áo
ủ bệnh: dệt, thêu hương tóc bạn. / vá nụ cười lên
vết rách chênh, chao / tôi ủ bệnh: những ngón tay nhiễm
tội / trên thân người. ký ức nhịu chân đi.
ghế
ủ bệnh: chỗ ngồi ai sớm bỏ / tội ngọn đèn tự
chít lấy khăn tang / tôi tự quấn quanh đầu mưa, nắng,
mới / biết người còn ủ giữ nụ hôn, đêm?
đời
nhớ nhé: nhân gian kia hớn hở!?! / riêng tôi về ủ bệnh
giữa hư vô.
(Ủ
bệnh giữa hư vô,
Du Tử Lê )
(7)
Phần viết ngắn này về Mai Thảo cùng đoạn trích văn ở
đây được lấy lại từ bài viết về Mai Thảo, của
tôi. Xin xem "Văn chương Mai Thảo: biên địa của
cảm xúc và cái đẹp, giao thoa với ý thức về đời
sống", trong Bùi Vĩnh Phúc, Lý Luận và Phê
Bình/ Hai Mươi Năm Văn Học Việt Ngoài Nước (1975-1995).
Westminster, California: Văn Nghệ, 1996.
(8)
Theo Jean Milly,
La phrase de Proust: Des phrases de Bergotte aux phrases de Vinteuil,
Paris: Larousse, 1975.
(9)
Nguyên văn của Faulkner: "
(…) I believe that man will not merely endure: he will prevail. He
is immortal, not because he alone among creatures has an
inexhaustible voice, but because he has a soul, a spirit capable of
compassion and sacrifice and endurance. The poet’s, the writer’s,
duty is to write about these things. It is his privilege to help man
endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and
honor and hope and pride and compassion and pity and sacrifice which
have been the glory of his past. The poet’s voice need not merely
be the record of man, it can be one of the props, the pillars to help
him endure and prevail."
(Trích từ Diễn văn nhận giải Nobel, 10 tháng 12, 1950)
.
-------------------
.
HỘI
THẢO VỀ VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975
.
Trịnh
Thanh Thủy Tuesday,
December 09. 2014 11:30:49AM
.
Đặng
Phú Phong Cập nhật: 11/12/2014 10:52
.
Trangđài
Glassey-Trầnguyễn 9.12.2014
.
Đặng
Phú Phong Cập nhật: 08/12/2014 12:19
.
Du
Tử Lê
07/17/2012 06:07 PM
.
Nguyễn
Hưng Quốc 07.12.2014
.
Phạm
Quốc Bảo Wednesday, December 03, 2014 6:20:29PM
.
Nguyễn
Hưng Quốc 07.12.2014
.
Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhì)
Kalynh
Ngô/Người Việt
Monday,
December 08, 2014 6:51:41PM
.
Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhất)
Kalynh
Ngô/Người Việt
Saturday,
December 6, 2014 8:19:21PM
VIDEO
: Hội Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam, 1954 – 1975 (ngày
thứ nhất)
.
.
Việt
Báo 03/12/201400:05:00
.
Nguyễn
Hưng Quốc 03.12.2014
.
Ðinh
Quang Anh Thái/Người Việt Tuesday, December 02, 2014 7:25:10PM
.
Người
Việt Books tái bản, 2014
Thứ Năm, ngày 27 tháng 11 năm 2014
.
Nguyễn
Hưng Quốc Thứ Bảy, ngày 29 tháng 11
năm 2014
.
Đinh
Quang Anh Thái/Người Việt (thực hiện) Wednesday, November
26, 2014 3:00:42 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=198831&zoneid=1#.VHaKPcm8OKE
.
.
Tiểu
Muội (thực hiện) Thứ Sáu, ngày 21 tháng 11 năm
2014
.
Phỏng
vấn nhà văn Trịnh
Thanh Thủy về Văn Học Miền Nam 1954 – 1975
Kalynh
Ngô/Người Việt (thực hiện) 22.11.2014
.
No comments:
Post a Comment