9.12.2014
TIỂU
SỬ NGẮN (do Chủ Toạ/Nhà văn Bùi Bích Hà giới thiệu):
Trangđài
Glassey-Trầnguyễn (trangdai.net), một chuyên gia nghiên cứu
về Cộng đồng người Việt hải ngoại, là học giả
duy nhất trên thế giới đã thực hiện hàng trăm cuộc
phỏng vấn lịch sử truyền khẩu với người Việt ở
cả bốn châu lục: Á, Âu, Úc, và Mỹ. Một tác giả song
ngữ đoạt nhiều giải thưởng, Trangđài tiên phong ghi
lại lịch sử của người Việt tại Quận Cam qua Dự án
Vietnamese American Project từ thập niên 1990 bằng chính
student loans của mình, và đoạt giải quán quân tại cuộc
tranh tài nghiên cứu của CSU năm 2004 với bài viết “Quận
Cam, Sử Vàng.” Cô là người Việt duy nhất được Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ cấp học bổng Fulbright tòan phần, bậc
tối ưu, để nghiên cứu về người Việt tại Thụy
Điển. Cô tốt nghiệp 4 cử nhân cùng lúc, là thủ khoa 2
ngành và cũng tốt nghiệp cao học Sử Học với hai giải
thủ khoa tại CSUF. Trangđài tốt nghiệp Cao học ngành
Nhân chủng học tại Đại học Stanford, và hiện đang
hoàn tất chương trình tiến sĩ.
*
*
Xin
cám ơn Nhà văn Bùi Bích Hà,
Xin
trân trọng kính chào quý vị,
Trong
phần trình bày của mình, tôi xin nhắm tới bốn điểm
chính.
1.
Thứ nhất, 40 năm Văn học miền Nam thất thủ từ cái
nhìn của thế hệ hậu chiến;
2.
Thứ hai, một số hệ quả văn học và ngôn ngữ đối
với thế hệ hậu chiến;
3.
Thứ ba, chúng tôi từng mồ côi, nhưng không chấp nhận
mồ côi;
4.
Và để kết, tôi xin đưa ra một vài gợi ý về căn tính
sắc tộc trong sáng tác của những thế hệ ngoại biên,
nhất là tương quan của họ với tiếng Mẹ đẻ trong quá
trình sáng tạo.
Bài
nói này được soạn riêng cho chương trình Hội Thảo Văn
Học Miền Nam 1954-1975 cuối tuần này, và là một đề
tài liên quan trực tiếp đến những chuyên đề nghiên
cứu về người Việt hải ngoại mà tôi thực hiện từ
đầu thập niên 90s. Phần trình bày của tôi cũng mang
tính bắc cầu, không thuần tuý chỉ nói về giai đoạn
văn học hai-mươi-mốt-năm này, mà hướng tới ảnh hưởng
của nó đối với những thế hệ sáng tác sau đó tại
hải ngoại. Vì giới hạn về thời gian, tôi chọn nói về
căn tính di dân và căn tính sắc tộc trong tương quan với
đề tài của cuộc Hội Thảo, và do đó, chỉ trích dẫn
một số tác giả nhất định trong giai đoạn văn học
này. Cánh đồng Văn học Miền Nam mênh mông nhiều màu
sắc, và có nhiều tác giả cũng như tác phẩm liên quan
đến đề tài này mà tôi chưa có dịp tham khảo vì không
có đủ tài liệu. Tôi tin tưởng rằng, khi có một văn
khố quy tụ những tác phẩm của Văn Học Miền Nam (và
khi tôi dành dụm đủ thời gian để đọc những tác phẩm
đó), thì tôi có thể bổ túc thêm cho phần trích dẫn
của mình.
I.
40 năm Văn học miền Nam thất thủ từ cái nhìn của thế
hệ hậu chiến:
Tôi
gọi nền văn học miền Nam 1954-1975 là nền văn học thất
thủ vì hai lý do. Thứ nhất, cũng như chính thể Việt
Nam Cộng Hoà lúc đó, giềng mối của cả một nền văn
học đã bị cầm tù, bị đày vào biệt giam, đã đi di
tản, đã đi kinh tế mới, đã đi vượt biên, đã chết
trong tù, đã bị cấm khẩu, đã bị truy sát. Thứ hai,
cũng như cộng đồng di dân Việt hải ngoại đi từ miền
Nam, nền văn học thất thủ này cũng đã được tái
thiết và chuyển mình, thoát thai thành một nền văn học
hải ngoại mạnh mẽ và đa dạng. Thất thủ không có
nghĩa là bị huỷ diệt, mà ngược lại, chính trong sự
bức chế đó, mà những mầm sống mới vượt lên, một
mùa văn học mới đâm chồi, nẩy lộc.
Trong
bài nói này, tôi nhìn về văn học miền Nam từ kinh
nghiệm của một người thuộc thế hệ hậu chiến, và
nhìn về nền văn học đó trong tương quan với cộng đồng
Việt hải ngoại trên thế giới. Cho nên hai chữ ‘thất
thủ’ chính là tiền đề cho một cuộc đổi đời, một
khởi đi tang thương nhưng trên một lộ trình nhiều hy
vọng và vận hội. Đâu là những vận hội? Tôi xin nhắc
qua khía cạnh văn hóa. Cộng đồng chúng ta may mắn đã
đến Mỹ trong một thời điểm thuận lợi cho việc duy
trì văn hoá và ngôn ngữ gốc. 50 năm trước đó, người
dân thiểu số ở Mỹ, chẳng hạn như người Nhật, không
có quyền sở hữu bất động sản và không được nói
tiếng mẹ đẻ. Ngay cả trẻ em gốc Mễ Tây Cơ cũng bị
phạt khi nói tiếng Tây Ban Nha tại trường. Nhờ phong
trào tranh đấu dân quyền của thập niên 50s, 60s, và nhờ
vào trào lưu đa văn hoá (dù có những giới hạn của
nó), mà khi người Việt tỵ nạn đặt chân đến Mỹ,
chúng ta có nhiều ưu đãi so với các sắc dân thiểu số
khác khi họ mới định cư tại Hoa Kỳ trước đó. Chẳng
hạn như ngay từ những ngày đầu, học sinh Việt Nam được
hướng dẫn song ngữ trong các lớp học, vân vân.
Để
hiểu cái nhân diện lưu vong của người Việt hải ngoại,
thì cần hiểu kinh nghiệm của người Việt trước khi di
cư. Vì phần lớn dân số gốc Việt tại hải ngoại ra
đi từ miền Nam, kinh nghiệm của họ ở miền Nam trước
1975 là mấu chốt để hiểu về tâm tư và đời sống
của họ ở hải ngoại, nhất là của thế hệ thứ nhất.
Văn chương là một cửa ngõ lý tưởng để hiểu
về kinh nghiệm con người, vì nó giúp chúng ta thấu
hiểu những ẩn áo của một xã hội, một thời
đại qua những vi tế về tình cảm và tâm lý của
con người trong xã hội và thời đại đó.
Khi
nhìn về chiều dài lịch sử, thì người Việt đã có
kinh nghiệm tỵ nạn từ trong nước, chứ không phải
đến khi di cư ra hải ngoại cách ồ ạt từ năm 1975. Tuy
kinh nghiệm di dân người Việt (hay bất cứ dân tộc nào
trên thế giới) đã bắt đầu từ hàng trăm năm trước,
trong khuôn khổ của bài nói này, tôi chỉ đề cập đến
giai đoạn từ thế kỷ hai mươi cho đến hôm nay. Việt
Nam ở thập niên 1940-1950 đối diện với sự khánh chung
của chế độ đô hộ Pháp, sự hiện diện của quân đội
Nhật, và sự can thiệp của Mỹ. Người dân đã phải
thường xuyên chạy loạn, tránh bom tránh đạn, và lưu
lạc ở các nước lân cận. Hiệp định Geneva được ký
kết năm 1954 là một biến cố gây nhiều xáo trộn, và
hơn hai triệu người đã rời Bắc đi vào Nam. Sáu mươi
năm sau, nhiều gia đình vẫn còn thất lạc nhau hay sống
trong ngăn cách cho đến ngày hôm nay. Những biến cố khác
cũng đẩy người Việt vào kinh nghiệm tỵ nạn ngay trên
quê hương mình, như cuộc thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở
Huế. Tác phẩm “Giải Khăn Sô cho Huế" của nhà văn
Nhã Ca ghi lại những kinh hoàng và tuyệt vọng của người
dân trong biển chết.
Do
đó, tôi cho rằng với một lịch sử đầy di tản và lưu
lạc như vậy ngay trên quê hương mình, người Việt đã
có một căn tính di dân trước khi Sài Gòn thất thủ
tháng Tư năm 1975. Tuy nhiên, mức độ và sự đột ngột
của biến cố này đưa căn tính di dân lên mức độ quốc
tế. Sự ra đi của người dân miền Nam kèm theo một nỗi
mất mát to lớn: mất quê hương, mất gia đình, mất đất
nước, mất quá khứ cá nhân. Nhiều người ra đi với ý
nghĩ là mình sẽ không bao giờ được nhìn thấy quê
hương lần nữa. Đây có lẽ là niềm mất mát lớn nhất
vì tâm tình gắn bó với quê hương, xứ sở của người
Việt. Năm 1975 là một thời điểm mới và một bước
ngoặt dứt khoát trong tâm thức di dân của người Việt,
khi chúng ta bị đặt ra ngoài đất nước, không như năm
1954 hay 1968. Bên cạnh đó, văn hoá Việt Nam cọ xát với
văn hoá phương Tây một cách dữ dội hơn, không chỉ như
trong thời Pháp thuộc hay thời chiến tranh Việt Nam, vì
khi còn trong nước, môi trường vẫn mang Việt tính, văn
hoá chủ lưu tiềm tàng trong đời sống hằng ngày vẫn
là văn hoá Việt. Ở hải ngoại, văn hoá Việt trở thành
văn hoá di dân, văn hoá sắc tộc, văn hoá thiểu số,
phải chịu sự chi phối của văn hoá chính ở đất nước
tạm dung.
Vì
vậy, ở năm 1975, căn tính di dân của người Việt mang
một ý nghĩa mới, vì người Việt đã thực sự lưu
vong. Trong bối cảnh lịch sử Việt Nam cận đại, nếu
chúng ta nhìn vào năm 1954 và 1968 như là khởi điểm cho
cuộc xuất hành năm 1975, thì có một sự tiếp nối của
căn tính di dân khởi đi từ giữa thế kỷ hai mươi từ
trong nước, và mở rộng ra thế giới năm 1975. Vì sự
tiếp nối này, nền văn học miền Nam 1954-1975 là điểm
bắt đầu cần thiết cho bất cứ ai muốn tìm hiểu
về người Việt hải ngoại. Từ cái đứt đoạn Bắc
Nam năm 1954, đến cái vỡ nát của miền Nam 1975, tâm thức
của người dân Việt bị phân tán ở hai mức độ: quốc
gia, và quốc tế. Nếu nhà văn quá cố Mai Thảo, qua tâm
tình của Phượng trong “Đêm Giã Từ Hà Nội,” đã cảm
thấy xa Hà Nội dù chưa rời Hà Nội, thì người Việt
tỵ nạn sau tháng Tư 1975 đã cảm thấy xa quê hương
đến chừng nào khi đã phải lìa bỏ đất nước
trong cấp bách và đau đớn.
Chúng
ta cùng nghe lại tâm tình của cố nhà văn Mai Thảo trong
truyện ngắn Đêm
giã từ Hà
Nội, do Người Việt xuất bản tại Sài Gòn năm
1955.
“…Phượng
nhìn xuống vực thẳm.
Hà
Nội ở dưới ấy.
Từ
chỗ anh đứng, Phượng nhìn sang bờ đường bên kia.
Những tảng bóng tối đã đặc lại thành khối hình.
Từng chiếc một, những hàng mái Hà Nội nhoà dần.
Phượng nhìn lên những hàng mái cũ kỹ, đau yếu ấy,
giữa một phút giây nhoè nhạt, anh cảm thấy chúng chứa
đựng rất nhiều tâm sự, rất nhiều nỗi niềm. Những
tâm sự câm lặng. Những nỗi niềm nghẹn uất. Của Hà
Nội. Của anh nữa.
Dưới
những hàng mái cong trũng, ngập đầy lá mùa kia, đang xảy
ra những tâm trạng, những biến đổi gì mà ở bên này
đường Phượng không đoán hiểu được. Hà Nội đang
đổi màu. Đứng bên này bờ đường nhìn sang, Phượng
bắt đầu tiếp nhận với một thứ cảm giác ớn lạnh,
cách biệt, anh đã đứng trên một bờ vĩ tuyến mà nhìn
về một vĩ tuyến bên kia. Bên ấy, có những hình ảnh
chia cắt, đứt đoạn. Bên ấy, có những hình chiến luỹ,
những hàng rào dây thép gai, những đoạn đường cấm,
những vùng không người.
Phượng
cũng không hiểu tại sao nữa. Giờ này anh còn là người
của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau
của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia.”
Nhưng
Phượng dù lưu luyến Hà Nội, đã dứt áo ra đi, vì anh
đi cùng với trào lưu của thế giới Tự Do. Anh không đi
một mình:
“…Đứng
một mình trong đêm dài, trước một Hà Nội ngủ thiếp,
Phượng nghĩ đến những người bạn đường đã vượt
Hồng Hà, đã bỏ Hà Nội, bỏ đất Bắc trước anh, vượt
vĩ tuyến về tiếp tục cuộc đấu tranh cho tự do, cho
con người, trên phần đất nước còn lại. Anh biết rằng
thời đại, trong ngày tới sẽ nối kết con người bằng
một ý niệm một hệ thống tự do. Tâm trạng của Phượng
đêm nay cũng là tâm trạng của một người thợ máy Đức,
một người dân cầy Triều Tiên, đang ngày đêm vượt
khỏi những vĩ tuyến tù đày để tìm một hướng đi,
một chân trời có không khí và ánh sáng.”
Dù
Phượng cảm thấy một tình liên đới với những người
đang đi tìm tự do khác trên thế giới, anh vẫn đang ở
trên mảnh đất quê hương. Cái ý thức liên quốc gia ấy
chỉ làm cho anh thêm mạnh mẽ, vững tin vào chọn lựa
của mình và tương lai phía trước. Đó là tâm tình của
người Việt rời Bắc vào Nam. Trong khi Phượng đau đớn
chia lìa Hà Nội nhưng ra đi với tâm trạng đầy hy vọng,
đi về vùng sáng, đi về miền tự do, thì người Việt
ly hương năm 1975 đã ra đi – vẫn đi tìm tự do – nhưng
với tâm trạng ly hương, mất mát khôn cùng. Khi người
Việt rời miền Nam để đi vào thế giới, thì tuy họ
cũng đi tìm “một chân trời có không khí và ánh sáng,”
nhưng nỗi đau chia lìa quê hương đã phủ lấp bất cứ
một vùng sáng nào, để như Du Tử Lê diễn tả trong bài
thơ “Thơ Viết từ Camp Pendleton” (tháng 6, 1975), người
Việt di tản năm 1975 cảm thấy mình không còn là mình
nữa. Thưa quý vị, tôi nói đến bài thơ “Thơ viết từ
Camp Pendleton" của Du Tử Lê dù nó không nằm trong
dòng văn học miền Nam 1954-1975, bởi vì nó có liên hệ
máu mủ với dòng văn học đó, trong sự nối dài của
căn tính di dân của người Việt.
“cám
ơn
cám ơn Pendleton
đã cho ta túp lều
chui ra chui vào
thập thò và rụt rè
như một con chuột
con chuột da vàng
với một óc rỗng không
và đôi tay thừa thãi”
cám ơn Pendleton
đã cho ta túp lều
chui ra chui vào
thập thò và rụt rè
như một con chuột
con chuột da vàng
với một óc rỗng không
và đôi tay thừa thãi”
II.
Một số hệ quả văn học và ngôn ngữ đối với thế
hệ hậu chiến:
Tôi
chào đời sau chiến tranh, cuối năm 1975, và là ‘ba rọi’
thứ thiệt – hay đối với quý vị nào thích sữa thì
có thể nói, tôi là sữa ‘half and half’ – vì đã sống
đúng nửa đầu đời ở Việt Nam và nửa sau ở hải
ngoại. Với kinh nghiệm sống đó, và với niềm đam mê
văn chương Việt Nam cận đại, tôi đã tìm hiểu về
giai đoạn văn học này với những thuận lợi từ những
phương pháp tra khảo tôi dùng trong học thuật. Tôi lại
được ở ngay tại Quận Cam, và với bình nguyên internet
rộng lớn, tôi có thể dò dẫm xếp những mẩu puzzle lại
với nhau cho bức tranh văn học này, và đây là một công
việc gian nan. Tôi nghĩ, với các bạn trẻ khác không có
những điều kiện thuận lợi như tôi, thì chắc chắn
việc tìm hiểu về giai đoạn văn học này còn khó khăn,
mù mịt hơn nhiều.
Lập
ra một văn khố về giai đoạn văn học miền Nam 1954-1975
là một công trình to lớn, đòi hỏi một thời gian dài
nhiều năm và nhiều công đoạn. Tôi mong rằng công trình
này sớm được thực hiện, để những thế hệ như tôi
và trẻ hơn có thể tìm được nhịp cầu, đi vào một
nền văn chương rực rỡ đã giúp định hình cho văn học
hải ngoại, mà nền văn chương ấy, tuy xán lạn, nhưng
vẫn còn ẩn mình đối với thế hệ bo bo và thế hệ
ngoại biên chúng tôi.
Tuy
những người phụ nữ trong gia đình tôi hay kể chuyện
‘đời xưa’ chúng tôi nghe, nhưng mãi đến khi tôi mang
thai đến lần thứ ba, thì có những điều Mẹ tôi mới
nói cho tôi biết về tuổi thơ của tôi. Có lẽ, tôi cần
làm mẹ thì mới biết mà nói về những đề tài này. Mẹ
kể, khi Mẹ sanh tôi mới bốn tuần, Mẹ đã bị điều
đi về vùng kinh tế mới để dạy học, còn Ba tôi đã
đi cải tạo cả mấy tháng trước đó, mà gia đình cũng
không biết Ba tôi đang ở đâu. Chuyện tôi chào đời
không cha là chuyện tôi biết từ nhỏ, vì tôi cũng lớn
lên không cha đến năm 19 tuổi. Nhưng chuyện mà tôi là
một đứa trẻ sơ sinh không mẹ là chuyện làm tôi ngạc
nhiên và phẫn nộ. Đối với tôi, một đứa trẻ có
quyền được ở bên mẹ nó khi mới chào đời. Mẹ tôi
phải dứt sữa tôi khi tôi chưa được đầy tháng. Có lẽ
đó là một trong những lý do mà trong cả cuộc đời, tôi
luôn cảm thấy một lỗ trống trong tâm tư, dù tôi cảm
kích tình thương và sự hy sinh mà mẹ tôi dành cho chị
em chúng tôi, và cả con cái chúng tôi nữa. Tôi không chỉ
bị dứt sữa cách oan ức lúc chưa đầy tháng, mà quan
trọng hơn hết, tôi bị tước đoạt cái quyền của một
đứa bé được mẹ ôm ẵm, vỗ về, nâng niu, chăm sóc
khi còn đỏ hỏn.
Nói
về mặt văn chương, thì dòng văn học miền Nam (cả nền
văn học Việt Nam trước đó, vì thế hệ cải cách giáo
dục chúng tôi phải học nền văn học nhồi sọ) chính
là mạch sữa mà thế hệ chúng tôi đã bị tước đi.
Khi đọc “Bụi và Rác" của cố nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàng, tôi mới biết những cái tréo ngoe của ngôn ngữ
miền Nam sau khi “bị giải phóng.” Tôi đọc tác
phẩm này vào khoảng năm 2005. Nếu ở trong nước, chắc
chắn tôi sẽ không được biết tác giả lẫn tác phẩm.
Bây giờ, tác phẩm này được phổ biến ở nhiều nơi
trên mạng internet, và những rào cản của sự trao đổi
thông tin trong nước đã bị giật sập, dù vẫn còn đó
những tường lửa và những hàng rào kẽm gai kềm hãm tư
tưởng con người. Nếu tôi không sống ở hải ngoại,
thì có lẽ tới bây giờ, tôi mới có dịp đọc “Bụi
và Rác,” NẾU – và đây là một chữ nếu rất lớn –
nếu tôi cố tâm đi tìm hiểu dòng văn học đã bị trù
dập 40 năm qua.
Trong
một bài nghiên cứu chuyên đề, tôi đã lập luận rằng
nền văn học (và nghệ thuật) theo chủ đề tỵ nạn và
di dân ở hải ngoại được xây dựng trên bệ phóng vững
vàng của nền văn học miền Nam 1954-1975. Khi đọc “Đêm
Giã Từ Hà Nội” của nhà văn Mai Thảo, tôi nhận ra
rằng, tác giả đã là người tỵ nạn, đã ly hương
trước khi ông rời Hà Nội. Cái quyết định ra đi vốn
dĩ đã là một sự cách ngăn lớn lao, dù chỉ đi về
phương Nam, vẫn còn thuộc về mảnh đất Việt Nam, nhưng
là “vùng ánh sáng, miền tự do.” Đọc “Giải Khăn Sô
cho Huế” của nhà văn Nhã Ca, thì rõ ràng, sự bất an
và bất định trong đời sống của người dân thời loạn
đã biến đời sống hằng ngày thành đời sống tỵ nạn
với những dời đổi, sống chết, còn mất của nó.
Chính
quyền mới sau 1975 đã áp dụng nhiều chương trình cải
cách đối với miền Nam và cả nước: cải cách ruộng
đất, cải cách kinh tế, cải cách giáo dục. Nhưng có
một chương trình cải cách rốt ráo nhưng bán công khai,
không có danh xưng, là cải cách ngôn ngữ. Người ta dùng
những ngôn từ mới để phân biệt những thành phần
phản động, và để loại trừ những cá nhân không được
chế độ mới chấp nhận. Như cố nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàng đã tỉ mỉ ghi lại, người ta chỉ cần vịn vào
một từ để kết án người nói là phản động. Do đó,
về mặt ngôn ngữ, thế hệ hậu chiến không chỉ phải
ăn bo bo, mà còn phải ăn cả khoai mì độc. Mà vì nền
văn học miền Nam đã thất thủ và đã đi lưu vong, nên
những thế hệ hậu chiến hoàn toàn mù tịt về nền văn
học đó, và không biết rằng, mình đang sử dụng một
thứ tiếng Việt đã bị nhiễm độc và nhồi sọ. Cho
đến khi chúng tôi đầu thai ra hải ngoại.
III.
Chúng tôi đã từng mồ côi, nhưng không chấp nhận mồ
côi:
Thế
hệ chúng tôi sinh ra mồ côi, vì cha thì đi cải tạo, mẹ
thì đi kinh tế mới, văn học thì bị chôn sống. Nhưng
sau bốn thập niên, chúng tôi đã đoàn tụ với cha mẹ,
đã truy ra được những manh mối để đòi lại di sản
văn học mà chúng tôi bị tịch thu. Chúng tôi khước từ
làm kẻ mồ côi trong gia đình chữ nghĩa của Việt Nam và
của thế giới.
Tôi
may mắn được sống nửa cuộc đời ở Việt Nam
và nửa cuộc đời ở Mỹ. Nhưng tôi không may mắn
rơi vào lớp đầu tiên trong chương trình cải cách
giáo dục của chính quyền hậu 1975. Như đã nói,
điều này cũng có nghĩa là tôi biết rất ít hoặc
không biết gì về nền văn học của miền Nam trong
giai đoạn trước khi tôi chào đời. Trong bài nói
ngắn này, tôi sẽ không nói đến những người trẻ
cầm bút viết bằng Tiếng Việt. Tôi nghĩ, ở
nhiều cách, cái quan hệ huyết thống giữa những
thế hệ sáng tác trước 1975 tại miền Nam và
những thế hệ ngoại biên tại hải ngoại sáng tác
bằng Việt ngữ đã là điều rõ ràng. Ở đây, tôi
xin mạo hiểm và nhìn vào thế hệ gốc Việt sáng
tác bằng Anh ngữ là chính, và nhận định rằng,
cho dù họ không trực tiếp thừa hưởng nền văn
học miền Nam 1954-1975, thì họ vẫn chịu ảnh hưởng
của nền văn học này qua chính kinh nghiệm sống và
môi trường cộng đồng. Có lẽ nhiều vị sẽ
cho rằng tôi hơi lạc quan. Xin trấn an qúy vị ngay,
rằng tôi mắc bệnh lạc quan mãn tính, và không có ý
định điều trị. Tôi xin phép đưa ra một vài lý do
tôi dám lạc quan trong trường hợp này.
Một
điều hiển nhiên là nền văn học miền Nam trước
1975 chính là nền tảng vững vàng cho văn học và
truyền thông Việt ngữ tại hải ngoại trong suốt 40
năm qua. Đối với tôi, phục hoạt văn học miền Nam
trong giai đoạn 1954-1975 tại hải ngoại là một giấc
mơ đẹp nhưng bất bất khả thi, vì điều kiện sống
và làm việc ở hai thời điểm và địa điểm
hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, từ tâm tư của một
thế hệ hậu chiến, tôi thiết tha muốn nhận cái
di sản từ giai đoạn văn học này vì nếu không có
được di sản này, thế hệ của tôi và các thế
hệ sau sẽ là những cái cây không có rễ, với
những cái gốc ghép nối từ giống toàn cầu hay
địa phương mà thiếu đi cái căn tính Việt. Thêm
vào đó, nền văn học miền Nam là nguồn tư tưởng và
ngôn ngữ gần nhất đối với thế hệ hậu chiến về
mặt thời gian, và có thể trực tiếp khai mở cho chúng
tôi về xã hội miền Nam về những thế hệ ngay trước
chúng tôi. Đây là nhịp cầu cần thiết để chúng tôi
biết về quá khứ của cộng đồng và gia đình mình,
giúp chúng tôi hiểu thêm mình đã đến từ đâu và đến
như thế nào. Việc hiểu về lịch sử cá nhân và cộng
đồng có ảnh hưởng quan trọng đối với nhân diện và
tâm lý của một người. Tiến sĩ Eliza Noh, trong luận án
từ nhiều năm nghiên cứu của cô tại Đại học
Berkeley, đã kết luận rằng một trong những lý do khiến
nhiều thiếu nữ Mỹ gốc Á tự vận là vì họ cảm thấy
mất liên lạc với quá khứ của gia đình. Nếu những
người cầm bút thế hệ hậu chiến không giữ được
liên lạc với văn học miền Nam qua những tác phẩm cụ
thể, họ có thể lâm vào sự bế tắc tương tự, và bỏ
sáng tác.
Khi
nền văn học miền Nam bị bức tử, thì những tinh
hoa của nó bị dùng để truy sát và cưỡng bức
người dân miền Nam, nhất là giới trí thức và
sáng tác. Trong tác phẩm kinh điển "Bụi và
Rác," cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã ghi lại
những cái vi tế trong cuộc thảm sát chữ nghĩa,
mà tôi cho rằng là một cuộc cải cách không tên
được thực hiện rốt ráo ngay từ sau ngày Hồng
quân Bắc Việt tiến chiếm miền Nam. Chính quyền
mới hô hào và thực hiện nhiều cuộc cải cách
một cách công khai và rầm rộ, nhưng cuộc cải
cách bỉ cực nhất lại là một hành trình nô lệ
vô danh. Tiếng Việt đã bị nô lệ hóa và bần
cùng hóa, để những thế hệ hậu chiến như tôi
không chỉ còi cọc về thể chất vì ăn độn bo bo,
mà còm cõi vật vờ về chữ nghĩa vì bị trúng
độc. Khổ nỗi, chính chúng tôi không biết mình
trúng độc, cho đến khi không còn sống trong môi
trường nhiễm độc nữa. Để giải độc, chính
chúng tôi phải ý thức và chấp nhận cắt bỏ
những phần cơ thể bị trúng độc của mình, như
một người bị ung thư phải giải phẫu để bỏ đi
những gì đã bị hư thối.
Một
điều đáng mừng là có nhiều gia đình gốc Việt
có phụ huynh là người cầm bút đã nuôi dưỡng
tình yêu chữ nghĩa trong thế hệ con cháu, và như
vậy, ảnh hưởng của nền văn học miền Nam có ảnh
hưởng rõ rệt xuyên thế hệ. Thi sứ Đỗ Lệnh Ái
Linh, ái nữ của Nhà văn/Luật sư Đinh Từ Bích Thuý và
cháu ngoại của Nhà báo/Bình luận gia Đinh Từ Thức, là
một trường hợp. Để di sản của nền văn học miền
Nam không bị mai một và để ảnh hưởng của nó
được rộng khắp, thì cái di sản đó cần được
hệ thống hóa và trao lại cho những thế hệ tiếp
nối. Tuy vậy, chữ nghĩa là một phạm trù rắc rối
và phức tạp. Nó không rõ ràng như bài toán cộng.
Tôi không thể nói một cách chắc chắn rằng, vì
tác giả X của thế hệ 1 đã ảnh hưởng đến tác
giả Y của thế hệ 2, hay tác giả Z của thế hệ 3.
Nhưng những sợi tơ vô hình vẫn đan xuyên các thế
hệ của người Việt hải ngoại – và cả những
người trẻ có quan tâm còn ở trong nước nữa.
IV.
Vài gợi ý về căn tính sắc tộc trong sáng tác của
những thế hệ ngoại biên, nhất là tương quan của họ
với tiếng Mẹ đẻ trong quá trình sáng tạo:
Văn
chương chữ nghĩa là một thế giới mông lung. Không như
trong toán học, người ta có thể nói: có hai điểm A và
B, và đây là đường thẳng nối hai điểm ấy. Trong văn
chương, đôi khi từ điểm A đến điểm B là biết bao
vùng mù khơi, biết bao cõi trừu tượng, biết bao miền
trí huệ, biết bao trập trùng tâm thức. Ắt nhiều vị
từng góp mặt trong giai đoạn văn học miền Nam 1954-1975
cảm thấy rằng thế hệ hậu 1975 – nhất là những thế
hệ lớn lên ở hải ngoại – chắc gì đã gắn bó với
nền văn học đã thất thủ này. Tôi xin mượn hai câu
thơ trong bài “Thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mạc Tử để
lạm bàn về vùng mù khơi giữa nền văn học miền Nam và
giới sáng tác thuộc thế hệ hậu chiến tại hải ngoại.
Nếu cõi văn học 1954-1975 là một Thôn Vỹ, thì từ cõi
ấy, một số nhà văn của giai đoạn này có lẽ từng
cảm thán:
Ở
đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai
biết tình ai có đậm đà
Điều
mà những thế hệ di dân luôn lo lắng về các thế hệ
sinh ở hải ngoại là: Không biết những thế hệ đi sau
có còn đậm đà với những gì ông bà, cha mẹ đã trãi
qua, đã gầy dựng? Trong gia đình văn học ắt cũng thế.
Những tác gỉa của miền Nam chắc cũng đã từng hỏi:
không biết có bao nhiêu người trẻ sinh sau 1975 đọc tác
phẩm của mình, và đọc như thế nào? Bỏ quê hương xứ
sở ra đi là một sự đứt đoạn, và những đứt đoạn
trong đời sống tỵ nạn cũng đưa đến nhiều đứt đoạn
khác. Nhưng giữa những đứt đoạn và đổ nát, người
Việt hải ngoại đã ươm mầm và vun bồi cho những thôn
làng Việt Nam mới, những mùa văn học mới.
Để
nền văn học tiếng Việt hải ngoại thực sự thăng hoa,
thì các thế hệ cầm bút hậu 1975 cần nhận được di
sản từ nền văn học trước 1975 để tiếp tục sáng
tạo bằng tiếng mẹ đẻ, để họ nhận chân được nền
tảng của những sinh hoạt mà họ vẫn tham gia một cách
thấu đáo và có hệ thống. Muốn có một văn khố lưu
giữ tinh hoa nền văn học miền Nam trước 1975, thì chỉ
những ‘người trong cuộc’ mới làm công việc này đến
nơi đến chốn. Giới trẻ cầm bút tại hải ngoại có
bắt được nhịp cầu với quá khứ để tiếp tục bồi
thố cho văn chương Việt trong thế kỷ 21 trên thế giới
hay không, còn tuỳ thuộc vào những thừa kế văn chương
cụ thể mà họ nhận được từ thế hệ đi trước. Xin
hãy trao Văn Học Miền Nam cho Giới Trẻ Việt Nam toàn
cầu.
Thưa
quý vị, mặc dù có những rào cản ngôn ngữ và những
khoảng cách thế hệ, tôi cho rằng tuy chúng ta chưa có
những nghiên cứu để đưa ra mối liên hệ giữa nền
văn học miền Nam và giới sáng tác thuộc thế hệ hậu
chiến, nhưng chắc chắn có những sợi tơ vô hình nối
kết một nền văn học thất thủ đã đặt nền tảng
cho đời sống chữ nghĩa của người Việt hải ngoại,
với những mùa văn chương mới đang vươn mình ở xứ
người. Một trong những điểm giúp chúng ta nhận diện
mối liên hệ này, là đề tài và tâm thức di dân mà một
số người trẻ chọn cho công việc sáng tạo của mình.
Hơn nữa, không chỉ những người cầm bút trẻ mới truy
nhận căn tính sắc tộc và di dân/tỵ nạn, mà cả những
nghệ sĩ trẻ gốc Việt trong nhiều lãnh vực nghệ thuật
khác nhau.
Tôi
xin lạm bàn đến những vùng nghệ thuật khác ngoài văn
chương, để thấy rằng những thế hệ hậu chiến sinh
trưởng hay chào đời tại hải ngoại cũng tìm về với
di sản sắc tộc của mình – không chỉ qua những sáng
tạo hướng theo các đề tài nổi bật của người Việt
hải ngoại, mà còn bằng việc dùng tiếng Việt trong tác
phẩm của mình. Từ những hoạ sĩ như Laura Nguyễn với
bức tranh chì than “Nấp,” hoạ sĩ Jerry Trương với tác
phẩm “Lớp/Vỏ,” hay hoạ sĩ Danh Võ với tác phẩm “Go
Mo Ni Ma Da,” thì những hoạ sĩ trẻ này không chỉ sử
dụng tiếng Việt cho tựa đề hoạ phẩm, mà còn đưa
kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam vào những vùng diễn
đạt mới.
Đi
sâu hơn việc đặt tên cho tác phẩm của mình bằng tiếng
Việt là chọn lựa sử dụng tiếng Việt trong sáng tạo.
Đây là một thử thách lớn đối với những ai sinh
trưởng ở hải ngoại, vì họ vẫn sử dụng ngôn ngữ
chính là tiếng Anh hay một ngôn ngữ địa phương khác.
Trong một cuộc phỏng vấn bằng tiếng Việt với Tiến
sĩ Việt Hồ Lê, vốn là một thi sĩ và hoạ sĩ ở tầm
vóc quốc tế, chào đời ở Sài Gòn và cùng gia đình
vượt biên năm hai tuổi tôi đã hỏi liệu anh có muốn
thay đổi gì trong sự nghiệp của mình, Việt đã trả
lời, “Nếu có thể đi ngược thời gian, Việt sẽ cố
gắng học tiếng mẹ đẻ chăm chỉ hơn để có thể trả
lời phỏng vấn hấp dẫn hơn!” Tôi có vinh hạnh phỏng
vấn rất nhiều bạn trẻ sinh tại hải ngoại nhưng nói,
viết, đọc tiếng Việt lưu loát.
Ngược
lại, cũng có những thi sĩ trẻ khác không dám dùng tiếng
Việt, vì sợ xúc phạm đến ngôn ngữ được dùng riêng
trong gia đình – một ngôn ngữ mà đối với họ rất
thiêng liêng. Nhà thơ Ocean Vương sinh ở Sàigòn, Việt Nam
năm 1988, và đến Mỹ khi mới một tuổi rưỡi. Ocean là
tác giả của hai tập thơ: “No” (Nxb YesYes Books, 2013) và
“Burnings” (Nxb Sibling Rivalry Press, 2010), vốn nằm trong
danh sách American Library Association’s Over The Rainbow và được
dùng rộng rãi trong các trường đại học tại Mỹ và
các nước khác. Ocean nhận giải Pushcart năm 2013, bên cạnh
các vinh dự khác. Ocean bắt đầu làm thơ khi Bà Ngoại
của anh qua đời. Trong một cuộc phỏng vấn bằng tiếng
Anh năm 2013, tôi đã hỏi, nếu có thể viết bằng tiếng
Việt, liệu Ocean có cảm thấy có một cách hoàn toàn
khác để ở bên Bà Ngoại và tưởng nhớ Bà không? Anh
trả lời (tôi dịch sang tiếng Việt), “Không. Tiếng
Việt rất quý giá đối với tôi vì nó là ngôn ngữ tôi
sử dụng trong bếp, với gia đình. Đó là ngôn ngữ mà
tôi học từ những cái chết và sự ra đời của người
thân. Qua đó, tiếng Việt hoàn toàn độc lập với nghệ
thuật và những gì phức tạp. Khi tôi nói tiếng Việt,
tôi nói trong mạch nước trong. Tôi thoải mái nhất. Tôi
có thể nói tất cả và không nói gì cùng một lúc. Nên
tôi không muốn sáng tác bằng tiếng Việt. Tôi không muốn
dùng ngôn ngữ đó cho thơ ca. Tôi không muốn làm hoen ố
nó. Hơn nữa, âm nhạc, âm điệu trong tiếng Việt thì đã
thơ đủ rồi.”
Bên
cạnh lý do tình cảm khiến cho một số người cầm bút
trẻ không sử dụng tiếng Việt trong sáng tác, thì cũng
có những lý do rất thực tế khiến cho họ chọn viết
bằng tiếng Anh. Trong những buổi nói chuyện về kỹ
thuật viết và nghiệp viết cho các lớp tiếng Việt tại
Westminster High School ở Quận Cam, California, đầu năm 2014,
tôi đã đưa ra một cuộc thăm dò ngắn với gần 100 em
học sinh trung học. Đa số các học sinh trong những lớp
này giỏi tiếng Việt hơn tiếng Anh vì mới định cư ở
Mỹ. Các em được yêu cầu tự nhận định về khả năng
tiếng Việt của mình, bên cạnh một loạt câu hỏi về
chọn lựa viết tiếng Việt hay tiếng Anh. Câu hỏi như
thế này: Em sẽ chọn công việc nào? Viết 800 chữ,
nhuận bút $500; hay Viết 1,200 chữ, nhuận bút $50?
Tiếp theo, cũng câu hỏi đó, nhưng có thêm hai yếu tố
khác cho câu trả lời. Chọn lựa thứ nhất: Viết
800 chữ, nhuận bút $500, tiếng Anh, đề tài được định
sẵn. Chọn lựa thứ hai: Viết 1,200 chữ, nhuận bút $50,
tiếng Việt, đề tài do chính em chọn. Em sẽ chọn
công việc nào: thứ nhất, hay là thứ hai? Và đây là câu
hỏi sau cùng: Khi biết thêm về chọn lựa và ngôn
ngữ cho mỗi công việc, em có thay đổi quyết định của
mình không? Tại sao?
Có
lẽ quý vị cũng đoán được, tất cả các em đã chọn
viết 800 chữ, nhuận bút $500, vì như đa số các em nói,
“Nhiều tiền, ít chữ, đỡ cực.” Sau khi biết thêm
hai yếu tố về ngôn ngữ và đề tài thì đa số vẫn
không thay đổi quyết định. Một em đã viết, “Không,
vì bây giờ thứ em cần là tiền, sau này thì có thể suy
nghĩ lại!” 14% đổi quyết định và chọn viết tiếng
Việt, theo đề tài mình chọn, dù với nhuận bút thấp,
vì như một em nói, “Em sẽ biết cái topic em cần viết;”
và một em khác, “Tôi muốn được viết cái gì tôi
thích;” hoặc vì một lý do rất thực tế, “Em chưa
giỏi tiếng Anh;” hay là vì không muốn “Mất công đi
lấy thêm lớp tiếng Anh tốn tiền!”
Có
một em hỏi ngược lại tôi: “Cô ơi, có việc nào viết
100 chữ được $100,000 không Cô?” Tôi chưa bao giờ thấy
nơi nào rao việc như vậy, nên nếu quý vị biết thì xin
cho tôi thông tin để chuyển đến em sinh viên này. Thưa
quý vị, tôi nhắc đến cuộc thăm dò này, vì nó phản
ảnh cái thực tế là nghề cầm bút bằng tiếng Việt ở
hải ngoại không phải là một chọn lựa kinh tế khả
thi. Trong cuộc phỏng vấn do Lê Quỳnh Mai thực hiện trên
Hợp Lưu, Nhà văn Trần Vũ đã nói, “Tôi chỉ mong muốn,
các tập san văn chương VN trên giấy cũng như trên mạng,
cùng nhà xuất bản ngoài nước trả tác quyền và nhuận
bút cho các tác giả, ký kết văn kiện hợp đồng đàng
hoàng y như Tây phương… Dương Thu Hương có lần tuyên
bố: Cái nhục lạc hậu nghèo đói, cũng nhục như cái
nhục mất nước. Tôi muốn thêm: Cái nhục không trả
tiền nhuận bút, cũng nhục như cái nhục mất nước.
Muốn vậy, nhưng tôi biết rõ các tạp chí không có lợi
tức. Không nhuận bút ở ngoài nước đã thành một thông
lệ. Một truyền thống. Và hơn một truyền thống, một
định mệnh.”
Cho
nên, tự bản thân việc sử dụng tiếng Việt trong sáng
tác ở hải ngoại đã là một chọn lựa đắt đỏ, chưa
kể đến những yếu tố về số lượng độc giả, và
những giới hạn ngôn ngữ tất yếu cho các bạn sinh
trưởng ở hải ngoại. Đây cũng là một trong những lý
do cần phải trao di sản văn học miền Nam 1954-1975 cho
những thế hệ hậu chiến, để giúp họ có một nguồn
vốn dồi dào cho một con đường khá cam go. Điều đáng
quý, là dù những thế hệ sinh ở Mỹ không thông thạo
tiếng Việt, họ vẫn cố gắng dùng tiếng Việt như một
phần của căn tính văn hoá gốc. Qua nhiều Dự án nghiên
cứu khác nhau về người Việt hải ngoại tại Bắc Mỹ,
Úc Châu, và Âu Châu trong 21 năm qua, tôi đã gặp nhiều
bạn trẻ sinh ở hải ngoại nhưng thông thạo tiếng mẹ
đẻ. Họ sử dụng tiếng Việt lưu loát ở cả các mặt:
nghe, nói, đọc, viết. Mà không chỉ những người trong
giới cầm bút, mà trong nhiều ngành khác như dược, luật,
thương mại, vv. Bên cạnh đó, còn có những bạn trẻ
không phải người Việt ở khắp nơi trên thế giới chọn
theo học những ngành về văn hoá, ngôn ngữ, văn chương
Việt Nam. Nếu chúng ta có một văn khố chính thức về
văn học miền Nam trong giai đoạn này, thì sẽ giúp tất
cả giới trẻ hải ngoại – dù gốc Việt hay không –
dễ dàng tìm hiểu về văn học Việt Nam trong giai đoạn
cận đại. Nếu không, họ sẽ tìm thấy một ngõ cụt,
và có thể chuyển hướng tìm hiểu về những đề tài
khác với tài liệu có sẵn.
Kinh
nghiệm của người di dân ở bất cứ nơi nào
trên thế giới cũng thường bị mai một và lấp
đi bởi rào cản ngôn ngữ, vật lộn mưu sinh, và
sự nín lặng của quá khứ tang thương. Người
Việt ở hải ngoại đã may mắn có điều kiện
thuận lợi để mở một bước ngoặc mới. Năm
2004, tôi có thực hiện một dự án về truyền thông Việt
ngữ tại Little Saigon, và phỏng vấn một số vị trong
báo giới về việc sử dụng tiếng Việt trong cộng đồng
Việt Nam trong vài chục năm tới. Đa số đều cho rằng,
có lẽ cũng giống như các cộng đồng di dân gốc Á
khác, cộng đồng Việt Nam của chúng ta sẽ duy trì được
tiếng Việt chỉ trong một hai thế hệ đầu. Những thế
hệ sau sẽ đi vào dòng chính, và tiếng Việt không còn
quan trọng đối với họ. Ở năm 2014 này, chúng ta có
ngót bốn mươi năm duy trì văn hoá, lịch sử, và
tiếng Việt qua các sinh hoạt văn học, văn hoá, Việt
ngữ, và truyền thông tại hải ngoại. Trong những
năm gần đây, với phong trào giáo dục song ngữ Anh
Việt nở rộ trong hệ thống giáo dục công lập
ở Hoa Kỳ, chúng ta đã có những vận hội mới, từ
những chương trình song ngữ Anh Việt từ bậc tiểu học,
đến các lớp tiếng Việt ở bậc trung học, chương
trình cử nhân hoàn toàn bằng tiếng Việt ở bậc đại
học, và nhiều chương trình về văn hoá và ngôn ngữ
Việt khác. Chúng ta có thể tin rằng, các thế hệ
tương lai sẽ có đủ khả năng ngôn ngữ để lãnh
hội những tác phẩm của nền văn học Miền Nam
bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình, mà không cần
đi vòng qua một bản dịch Anh ngữ. Nhưng trước
hết, chúng ta cần trao nền văn học đó cho họ.
Những
thế hệ hậu chiến phải đối diện với nhiều khoảng
cách khi họ tìm về quá khứ của gia đình và cộng đồng:
khoảng cách thế hệ, khoảng cách ngôn ngữ, khoảng cách
về kinh nghiệm sống, khoảng cách về nhận thức về
lịch sử. Trong trường hợp của Ocean Vương, anh chào đời
mười ba năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhưng
lịch sử gia đình đã đặt Anh ngay vào giữa cuộc chiến
– với công việc mà Bà Ngoại của Anh đã làm để sống
còn, với những cái chết của những người nam trong gia
đình, và mọi việc khác. Khi được hỏi, lúc nào thì
anh bắt đầu ý thức được về chiến tranh Việt Nam, và
anh có quan hệ cá nhân như thế nào với cuộc chiến,
Ocean đã nói, “Tôi trở nên ý thức về chiến tranh khi
tôi cứ thấy người Việt, thường được đóng bởi
những diễn viên da trắng với khuôn mặt vàng, bị John
Wayne bắn trên màn hình TV. Tôi nghĩ thật là kỳ quặc
khi nhiều người Việt bị bắn chết bởi ‘người tốt.’
Tôi nghĩ tôi phải là một ‘người xấu.’ Nên tôi đi
thư viện để thử tìm hiểu xem tôi xấu như thế nào.
Đó là khi tôi khám phá ra sách và chữ. Và qua sách, tôi
biết rằng bạn có thể dùng chữ để biến một người
thành người tốt hay người xấu. Như thể ảo thuật
(hết trích).” Đó là một trong những khoảng cách có
thể được khoả lấp nếu những thế hệ hậu chiến
tại hải ngoại có được di sản cần thiết, là những
tác phẩm của văn học miền Nam, giúp họ hiểu được
mình đến từ đâu, và đã có một quê hương như thế
nào.
Để
kết, tôi mời quý vị cùng nghe một bài nhạc rap của
John Vietnam Nguyễn, một nhạc sĩ trẻ quá cố. Mẹ anh là
một phụ nữ Việt tỵ nạn, và cha anh là một cựu quân
nhân Mỹ. Anh chào đời tại Chicago năm 1993, và mất cũng
tại đây khi cứu một người bạn khỏi chết đuối
tháng Chín năm 2012. John Vietnam đã có nhiều đóng góp cho
cộng đồng nghệ thuật, sinh viên, và địa phương, và
người ta đã vẽ một mural cũng như dành một con đường
tại Chicago để vinh danh anh. Anh sáng tác bằng tiếng Anh,
nhưng có một bài với nhan đề ‘a hapa rap in Vietnamese’
– tựa thì tiếng Anh, nhưng ca từ hoàn toàn bằng tiếng
Việt (https://www.youtube.com/watch?v=V3U-hqQ3kGo). Ở đây, tôi
chú trọng vào việc John Vietnam dùng hoàn toàn tiếng Việt
trong bài nhạc rap của mình – và đưa cả phụ đề song
ngữ, dù phần tiếng Việt có sai chính tả. Tôi xin phép
không bàn đến ca từ, vì điều đó liên quan đến việc
phân tích nhạc rap, vốn không phải là đề tài của ngày
hôm nay. Điều tôi muốn nhấn mạnh là có thể đây là
tác phẩm táo bạo nhất của người nhạc sĩ trẻ này,
vì chọn lựa ngôn ngữ. Những chữ sai chính tả trong
phần phụ đề cho thấy có lẽ John cũng rất vất vả để
soạn phần phụ đề. Như chúng ta thấy, Ocean Vương tuy
sinh ở Việt Nam, nhưng có một thái độ hoàn toàn khác
với John Vietnam về tiếng Việt trong việc sáng tác. Đối
với Ocean, tiếng Việt rất thiêng liêng, chỉ để nói
với người thân, nên Ocean không dám dùng đến trong sáng
tạo. Ngược lại, John Vietnam chọn dùng tiếng Việt, tuy
anh nói tiếng Việt với âm hưởng của những người
Việt gốc ‘hải ngoại.’
Qua
tác phẩm này, John Vietnam đã đưa tiếng Việt ‘hội
nhập’ vào dòng chính, qua một bộ môn nghệ thuật trình
diễn rất phổ biến đối với người trẻ. Như vậy,
anh đã giúp đưa tiếng Việt gần hơn với những thế hệ
mới, và với cả những người hâm mộ anh không phải là
người Việt hoặc không biết tiếng Việt. Qua đó, anh
cũng giúp phản bác một lý thuyết trong khoa học xã hội
về kinh nghiệm di dân, đó là những cộng đồng di dân
thường bị ‘frozen’ hay đóng băng trong quá khứ, và
sống trong quá khứ. Qua những mạng xã hội của mình,
John Vietnam mời gọi mọi người tưởng niệm tháng Tư
như một cách giữ gìn và công nhận gốc gác của mình.
Anh tìm hiểu và gắn bó với lịch sử di dân của
mình, nhưng đồng thời, anh cũng dùng chính lịch sử đó
để định hướng cho hiện tại và tương lai một cách
sống động. Và tác phẩm ‘a hapa rap in Vietnamese’ là
một thí dụ cụ thể.
Xin
trân trọng cám ơn thời giờ quý báu của quý vị.
No comments:
Post a Comment