Gregory
B. Poling
Trần
Văn Minh
dịch
Posted
by adminbasam on
13/12/2014
Bắc
Kinh đang tiến nhanh tới gần thời hạn 15 tháng 12 để
đệ trình phản luận ra tòa án trọng tài quốc tế về
các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông,
do Philippines đệ đơn kiện. Hồ sơ này được đặt dưới
cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc dựa theo Công
ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), được tóm
tắt ở đây.
Chính phủ Trung Quốc không có ý định tham gia vụ kiện,
hoặc bác bỏ 4.000 trang chứng cứ và lập luận của
Philippines, nhưng Trung Quốc cũng muốn bảo đảm rằng năm
thẩm phán xét xử vụ án tại Tòa án Trọng tài Thường
trực để ý tới các lập luận của Trung Quốc trong phán
quyết.
Với
mục đích đó, ngày 7 tháng 12, Bộ Ngoại giao Trung Quốc
công bố một tài liệu nói về phản luận pháp lý của
Trung Quốc đối với vụ kiện. Hai ngày trước đó, Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ công bố một bản phân tích được chờ
đợi từ lâu về tính hợp pháp của các yêu sách chủ
quyền ở Biển Đông của Bắc Kinh, qua một chuỗi các
bài nghiên cứu về Các
Giới hạn trên Biển.
Thời gian công bố của hai phiên bản này, cả hai đều
liên quan đến nhau và đến giai đoạn tiếp theo của vụ
án trọng tài, cho thấy rằng các nhà hoạch định chính
sách ở Bắc Kinh và Washington nhận ra giá trị của việc
chiếm lãnh tính hợp pháp ở Biển Đông và đang mong muốn
ảnh hưởng đến tòa án trọng tài ngay cả khi họ không
trực tiếp tham gia vào vụ việc.
Bài
viết về lập trường của Trung Quốc nói gì?
Phần
cốt lõi trong tài liệu của Trung Quốc đưa ra các lập
luận của Bắc Kinh về lý do tại sao tòa án trọng tài
Hague thiếu thẩm quyền trong vụ kiện của Philippines.
Trung Quốc cho rằng:
1.Trọng
tâm của vụ án không phải là giải thích về UNCLOS,
nhưng về chủ quyền lãnh thổ – người nào sở hữu
những thứ gì – trong đó UNCLOS không có thẩm quyền.
Lập luận này không thuyết phục, ít nhất không phải
trong công thức của Trung Quốc rằng để có phán quyết
về bất cứ luận điểm của Philippines, tòa án “sẽ
khó tránh khỏi phải xác định, trực tiếp hoặc gián
tiếp, chủ quyền trên cả thực thể biển được đề
cập và các thực thể biển khác trong biển Đông”.
2.
Ngay cả khi vụ kiện liên quan tới UNCLOS, Philippines không
có quyền mang ra tòa. Trung Quốc lập luận rằng
Philippines có bổn phận tuân thủ cả hai văn kiện song
phương và đặc biệt là trong các Tuyên bố năm 2002
ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên trên Biển
Đông(DOC) để chỉ giải quyết tranh chấp thông qua đàm
phán. Có hay không nghĩa vụ ràng buộc đó được ký kết
là điều rấtnghi ngờ, nhưng dù sao đi nữa, Manila có thể
dễ dàng cho rằng các vi phạm của Trung Quốc đã vô hiệu
hóa DOC.
Trung
Quốc cũng cho rằng Philippines đã không đáp ứng được
yêu cầu UNCLOS để chỉ theo đuổi trọng tài bắt buộc
sau khi không đạt được một thỏa thuận song phương.
Bắc Kinh khẳng định rằng mặc dù nhiều thập niên đàm
phán, “hai quốc gia chưa bao giờ chú tâm đàm phán về
các vấn đề cần phải có trọng tài”, và thậm chí
nếu đã có, UNCLOS không xác định thời hạn cho các cuộc
đàm phán như vậy. Nếu được chấp nhận, dòng suy luận
này có thể ngăn cản một quốc gia để không bao giờ có
thể sử dụng phương cách giải quyết tranh chấp bắt
buộc, bất kể bên kia kéo dài cuộc đàm phán bao lâu.
Ngay
cả khi Manila có quyền, Trung Quốc được miễn trọng tài
bắt buộc. Đây là luận cứ thuyết phục nhất của Bắc
Kinh. Nó dựa trên tuyên bốnăm 2006 của Trung Quốc, được
UNCLOS cho phép, trong đó Trung Quốc được miễn trọng tài
trên một số chủ đề bao gồm cả chuyện phân định
biển. Philippines đã thực hiện một công việc đáng
ngưỡng mộ, định hướng vụ kiện của mình về nghĩa
vụ của Trung Quốc để làm sáng tỏ đường chín đoạn
và ý nghĩa của nó, không phải về việc phân định vùng
biển tranh chấp.
Nhưng
lập luận của Manila không phải là một cú đá thủng
lưới. Đáng lo ngại nhất đối với Philippines là các
luật sư của họ cảm thấy bắt buộc phải có giải
thích về hiện trạng của Itu Aba, đảo lớn nhất trong
quần đảo Trường Sa, trong đơn đệ trình tòa án ngày
30 tháng 3. Nếu tòa quyết định Itu Aba (hoặc bất kỳ
thực thể nào) là một hòn đảo có khả năng pháp lý
tạo ra một vùng thềm lục địa, thì điều này có thể
có khả năng sẽ làm suy yếu một phần lập luận của
Philippines, đặc biệt là đối với những thực thể thủy
triều thấp. Nhưng điều đáng chú ý là tài liệu về
lập trường của Trung Quốc không chỉ ra chi tiết điểm
này, chừa lại cho các thẩm phán tòa trọng tài nối liền
các dấu chấm.
4.
Ngay cả khi Trung Quốc không được miễn trừ, việc nhờ
tới một tòa án trọng tài đặc biệt trong những trường
hợp trong đó một nhà nước đã không được lựa chọn
một trong các giải pháp trọng tài khác được UNCLOS cho
phép là vi phạm luật pháp quốc tế. Điều này về cơ
bản là đặt câu hỏi về một điều khoản UNCLOS mà
Trung Quốc đã đồng ý năm 1996. Đây là lập luận ít
thuyết phục nhất của Trung Quốc, đặc biệt là vì khó
có thể dự đoán được rằng một tòa án được thành
lập theo quy định của UNCLOS sẽ cảm thấy có thẩm
quyền phủ quyết sự giải thích hợp lý duy nhất của
một trong những điều khoản.
Được
biết, trong bối cảnh lập luận chống lại thẩm quyền
của tòa án, Trung Quốc cũng đã chạm đến tính hợp
pháp của vụ kiện (mặc dù nhấn mạnh trong phần giới
thiệu rằng nó sẽ không làm như vậy). Cụ thể, Trung
Quốc tranh luận về một quốc gia có quyền tuyên bố chủ
quyền trên một thực thể thủy triều thấp, mặc dù
thừa nhận rằng Tòa án Công lý Quốc tế năm 2012 phán
quyết rằng một tuyên bố như vậy là không được phép.
Trung Quốc cũng bảo vệ các hành động của mình tại
bãi cạn Scarborough và Second Thomas từ năm 2012, điều mà
Philippines mô tả như việc sử dụng vũ lực để đe dọa.
Tuy nhiên, các tài liệu lập trường của Trung Quốc không
đề cập tới phân loại của những thực thể đó, mà
Philippines xác định là bãi đá chứ không phải là hòn
đảo, Trung Quốc cũng không bảo vệ đường chín đoạn
như là một tuyên bố chủ quyền không gian hàng hải phù
hợp với UNCLOS – hai dấu chỉ về sự yếu kém của vị
thế pháp lý của Trung Quốc trên các điểm đó.
Nghiên
cứu của Hoa Kỳ nói gì?
Các
nghiên cứu về Giới hạn trên biển của Bộ Ngoại giao
(Hoa Kỳ) đã xem xét các tuyên bố chủ quyền của hàng
chục quốc gia, bao gồm Indonesia, Philippines, và Việt Nam.
Báo cáo mới nhất không chạm tới tính chính đáng của
tuyên bố chủ quyền đối với các hòn đảo ở Biển
Đông, nhắc lại lập trường trung lập của Mỹ.
Phát
hiện chính của nghiên cứu là “Trung Quốc đã không làm
rõ cơ sở pháp lý hay bản chất yêu sách của mình”.
Nghiên cứu chỉ ra rằng, đường chín đoạn thiếu “thống
nhất về địa lý và tính chính xác”, điểm này được
nhấn mạnh qua sự đối chiếu nhiều bản đồ của Trung
Quốc cho thấy sự khác biệt đáng kể trong các vị trí
của các dấu gạch. Điều này cung cấp một số hỗ trợ
cho các luận điểm trong vụ kiện của Philippines bao gồm
các bãi đá và thực thể thủy triều thấp bị Trung Quốc
chiếm đóng. Tại trung tâm điểm, bản phân tích đề
nghị bác bỏ đường chín đoạn như là một tuyên bố
hàng hải có giá trị, và do đó đứng cùng với tâm điểm
vụ kiện của Philippines.
Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ trình bày ba cách diễn giải khả dĩ
của đường chín đoạn và phân tích tính hợp pháp của
chúng. Mỗi lời giải thích này cùng lúc hỗ trợ và mâu
thuẫn với luật pháp Trung Quốc và các công bố chính
thức:
1.
Về việc tuyên bố chủ quyền các hòn đảo và vùng biển
xung quanh. Nghiên cứu tìm thấy rằng các tuyên bố này có
thể là một định nghĩa thống nhất về mặt pháp lý
của đường chín đoạn, nhưng chỉ ra rằng nó có nhiều
điểm đáng báo động. Ví dụ một điểm, “các tòa án
quốc gia, quốc tế và các tòa án khác thường đồng ý
rằng các đảo quá nhỏ và xa bờ biển đại lục, có
trọng lượng bằng hoặc nhỏ hơn đường bờ biển (của
đại lục) đối diện”. Điều này có nghĩa là Trung
Quốc, một cách tốt nhất, chỉ có thể biện minh cho một
khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng đến một
đường trung tuyến giữa các đảo họ tuyên bố chủ
quyền và bờ biển của các nước láng giềng Đông Nam
Á.
2.
Một ranh giới hàng hải. Bộ Ngoại giao (Hoa Kỳ) chỉ ra
rằng đường chín đoạn kéo dài quá xa bất kỳ bờ biển
hay hải đảo nào không thể biện minh một cách hợp pháp
để trở thành ranh giới của một vùng đặc quyền kinh
tế (EEZ), và chắc chắn cũng không là lãnh hải. Nghiên
cứu này cũng cáo buộc rằng sự thiếu chính xác và tính
cách đơn phương của tuyên bố chủ quyền không đáp ứng
các yêu cầu cơ bản của một biên giới biển hợp pháp.
3.
Một tuyên bố chủ quyền dựa trên danh nghĩa hoặc quyền
lợi lịch sử. Đây là các luận cứ pháp lý phức tạp
nhất do các học giả Trung Quốc đưa ra về đường chín
đoạn. Bộ Ngoại giao (Hoa Kỳ) chỉ ra chính xác rằng
UNCLOS “giới hạn tính thích đáng của các tuyên bố
lịch sử đối với sự phân định vịnh và lãnh hải”
gần bờ biển của một quốc gia. Không có gì trong các
quy ước (quốc tế) biện giải cho một tuyên bố chủ
quyền lịch sử và quyền mở rộng xa bờ biển.
Và
trái với khẳng định của một số học giả Trung Quốc
về luật lệ thông thường trước UNCLOS cho phép đòi hỏi
như thế, Bộ Ngoại giao (Hoa Kỳ) khẳng định chính xác
rằng quy ước quốc tế có quyền ưu tiên. Để chứng
minh, Hoa Kỳ trích dẫn phán quyết của Tòa án Công lý
Quốc tế rằng sự ra đời của các vùng EEZ “có quyền
phủ quyết việc sử dụng và quyền trước đó của các
nước khác trong khu vực” – một sự bác bỏ rõ ràng
về các yêu sách của Trung Quốc với các quyền lịch sử
liên quan tới hải sản và dầu khí.
Chuyện
gì xảy ra kế tiếp ở tòa án trọng tài?
Trung
Quốc sẽ không đệ trình bất cứ tài liệu gì vào ngày
15 tháng 12 để đáp ứng với thời hạn của tòa án.
Điều này có nghĩa là các thẩm phán sẽ phải tự xem
xét các phản luận mà Bắc Kinh có thể đưa ra. Đây là
lý do tại sao việc phát hành tài liệu về lập trường
của Trung Quốc rất quan trọng. Sự việc đã được tính
toán để bảo đảm rằng các thẩm phán đặt những câu
hỏi đúng, dưới quan điểm của Trung Quốc. Các chuyên
gia ở Trung Quốc biết rằng Bắc Kinh sẽ mất ít nhất
một điểm nếu vụ kiện kéo dài. Đường chín đoạn
trong hình thể hiện tại không đáp ứng bất cứ yêu cầu
nào của một tuyên bố hàng hải hợp pháp – một điểm
trong nghiên cứu mới của Mỹ nhấn mạnh – và đòi hỏi
phải làm sáng tỏ.
Đó
là lý do tại sao Trung Quốc, ngay cả khi từ chối để
chính thức tham gia vụ kiện, đã đầu tư công sức đáng
kể trong việc soạn thảo một hồ sơ pháp lý chống lại
tiến trình phân xử. Mặc dù làm ầm ĩ, Bắc Kinh không
muốn coi thường phán quyết của tòa án quốc tế và
phải gánh chịu các phí tổn cơ hội khi bị xem là một
nước vô trách nhiệm trong hệ thống quốc tế.
Bước
tiếp theo, tòa án sẽ yêu cầu nhóm pháp lý của
Philippines trả lời các câu hỏi và phản luận khả dĩ
liên quan đến hồ sơ đệ trình tháng 3. Những câu hỏi
đó có thể sẽ bao gồm nhiều điểm được nêu ra trong
tài liệu lập trường của Trung Quốc, cũng như trong
những tài liệu khác, bởi vì các quan tòa sẽ không phán
quyết trên như một hồ sơ quan trọng và gây tranh cãi
như thế, trừ phi họ cảm thấy không còn sơ hở.
Sau
khi Philippines trả lời – một việc sẽ phải mất vài
tháng – các quan tòa sẽ xem xét vấn đề về thẩm quyền
tài phán và tính pháp lý của vụ kiện. Họ dường như
đã sẵn sàng để xem xét cả hai cùng một lúc, giúp làm
nhanh chóng tiến trình phân xử. Không có thời gian nhất
định để có phán quyết, và có thể có nhiều yêu cầu
hơn cho Philippines để làm rõ các luận điểm. Nhưng vào
cuối năm 2015, và có lẽ trước đó, tòa án nên đưa ra
quyết định của mình – một khả năng tác động mạnh
nhất bởi bất kỳ tòa án nào được thành lập dựa
theo UNCLOS.
*
Gregory
B. Poling là một thành viên trong diễn đàn Sumitro
Chair for Southeast Asia Studies tại CSIS.
Có thể theo dõi ông trên Twitter @GregPoling.
Bài viết này lần đầu xuất hiện trên blog CSIC Asia
Policy, cogitASIA
và bản tin CSIS
Pacnet.
----------------------------
13-12-2014
12-12-2014
Chính
sách của Mỹ trên biển Đông từ năm 1995 đến nay – Kỳ
4: Mỹ
– Trung có kình địch vì biển Đông? (TVN).
11-12-2014
Chính
sách của Mỹ trên biển Đông từ năm 1995 đến nay – Kỳ
3: Biển
Đông: Khi Mỹ chỉ đích danh TQ gây căng thẳng (TVN)
10-12-2014
.
Tài
liệu 26 trang của Bộ Ngoại giao Mỹ, phản đối yêu sách
‘đường 9 đoạn’ của Trung Quốc: CHINA
– MARITIME CLAIMS IN THE SOUTH CHINA SEA (US
State Department).
4
tháng trước, lần đầu tiên Trung Quốc phát hành sách về
đường chín đoạn: Trung
Quốc phát hành sách về đường chín đoạn (VNE).
9-12-2014
.
6-12-2014
No comments:
Post a Comment