Thursday, February 16, 2012

AI LÀ TRÍ THỨC ? - TRÍ THỨC LÀ MỘT LỰA CHỌN (Nguyễn Hưng Quốc)



Nguyễn Hưng Quốc
Thứ Ba, 14 tháng 2 2012

Gần đây, trên các blog bằng tiếng Việt, người ta thấy có một cuộc bàn cãi khá sôi nổi về vấn đề trí thức với sự tham gia của nhiều người, từ nhiều quan điểm khác nhau.

Tôi cho đó là một đề tài hay, hơn nữa, rất bổ ích. Nó cho thấy sự phản tỉnh của những người được gọi là trí thức tại Việt Nam về vị trí và chức năng của họ trong xã hội, nhất là ở thời đại mà truyền thông đại chúng phát triển mạnh mẽ và đất nước đang đối diện với rất nhiều vấn đề phức tạp như hiện nay. Nó đặt lại một vấn đề, tuy cũ, nhưng thật ra, chưa bao giờ được giải quyết một cách rốt ráo, do đó, chứa đầy những ngộ nhận. Những ngộ nhận ấy không những có hại về phương diện nhận thức mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của văn hóa, chính trị và xã hội Việt Nam.

Để thảo luận một cách nghiêm chỉnh, cần xác định, trước hết, khái niệm trí thức.

Ở đây, có mấy điểm cần được nhấn mạnh:

Thứ nhất, trí thức là một khái niệm khá mới. Ở Việt Nam: nó rất mới. Trong Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes năm 1651: Chưa có. Trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của năm 1895: Cũng chưa có. Như vậy, từ trí thức chỉ xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 mà thôi. Điều đó cũng không có gì lạ. Trong tiếng Anh, intellectual, với tư cách tính từ, chỉ sự hiểu biết, chỉ xuất hiện từ cuối thế kỷ 14; với tư cách danh từ, chỉ trí tuệ, xuất hiện muộn hơn, vào cuối thế kỷ 16; và chỉ những người có học, xuất hiện càng muộn hơn, khoảng giữa thế kỷ 17.

Thứ hai, mặc dù khá mới, nội hàm khái niệm trí thức lại phát triển rất nhanh, do đó, bao gồm nhiều cách hiểu khác nhau. Trình bày những cách hiểu khác nhau ấy là một điều bất khả trong phạm vi một bài viết trên blog. Tôi chỉ xin giới hạn trong một câu hỏi nhỏ: Ai là trí thức?

Theo cách hiểu thông thường ở Việt Nam, được ghi rõ trong các từ điển tiếng Việt, trí thức là những kẻ, một, có ăn học; và hai, làm các nghề gọi là lao động trí óc.

Nhưng thế nào là người có ăn học? Ở đây lại có hai cách hiểu dựa vào hai tiêu chuẩn chính: bằng cấp và kiến thức. Tiêu chuẩn bằng cấp lại thay đổi theo thời gian: Trước, thời Pháp thuộc, có được bằng tú tài, hoặc, thậm chí, bằng Thành chung, đã có thể được xem là trí thức. Sau, theo đà phổ cập của giáo dục, trí thức được dùng để chỉ những người có bằng cử nhân hoặc trên cử nhân. Tiêu chuẩn kiến thức còn mơ hồ hơn. Làm cách nào để đo lường được mức độ hiểu biết của từng người. Với những người viết lách thì tương đối dễ: những điều họ hiểu biết được phô bày công khai trên các trang giấy. Nhưng với những người không viết lách? Không có cách gì biết được. Nên ai cũng tha hồ tự xưng là trí thức.

Khái niệm lao động trí óc cũng quá rộng. Ở Việt Nam, dưới ảnh hưởng của Liên Xô, xã hội được phân chia thành nhiều giai cấp khác nhau: Ở trên, thuộc thành phần thống trị, có tầng lớp quý tộc, tư sản và địa chủ; phía dưới, thuộc thành phần bị trị và bị bóc lột, có công nhân và nông dân. Ở giữa hai thành phần ấy, có một tầng lớp trung gian, gọi là trí thức tiểu tư sản. May mắn là những người cộng sản, ở một số thời điểm nào đó, vì không muốn đánh mất cái chất xám trong thành phần trung gian ấy nên ở đâu cũng coi họ là một đồng minh tốt. Chính vì vậy, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nào, cũng có ba tầng lớp được xem là nòng cốt, bao gồm: công dân, nông dân và trí thức. Trong ba tầng lớp ấy, trí thức bị xem là bấp bênh và khả nghi nhất. Lý do là vì, một, về phương diện kinh tế, họ thuộc thành phần tiểu tư sản hơn là vô sản; về phương diện lịch sử, họ thường đi với giai cấp thống trị; và về phương diện ý thức hệ, họ thường bị sa đà vào lý thuyết, tách lìa quần chúng và thực tiễn, hơn nữa, dễ bị ngả nghiêng giao động khi đối diện với khó khn hay thử thách. Chính vì thế, những người cộng sản vừa sử dụng trí thức lại vừa nghi ngờ và khinh rẻ trí thức. Cả Lenin lẫn Mao Trạch Đông đều xem trí thức như là… cứt. Ở Việt Nam, dường như không có lãnh đạo nào bỗ bã như thế. Nhưng cũng có ít ai thực sự coi trọng trí thức. Họ xem trí thức, nói như nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh, thời đầu đổi mới, như “con nít”, luôn luôn cần được nắm tay dẫn dắt và dạy dỗ. Tất cả những điều ấy làm cho giới trí thức nói chung vừa tự hào vừa tự ti. Tự hào về kiến thức của mình, nhưng lại tự ti về vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử. Để vượt qua mặc cảm tự ti, hầu hết đều tự nguyện đem hết tâm trí và sức lực của mình để phục tùng và phục vụ lãnh đạo, từ đó, hình thành lớp trí thức phò chính thống, nói theo ngôn ngữ của Phạm Thị Hoài.

Khi Ngô Bảo Châu, trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần, cho “trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội”, ông không nói điều gì khác ngoài tâm lý và tâm thế của một mẫu trí thức phò chính thống tiêu biểu ở Việt Nam. Ở phương diện này, không thể không khen ngợi Ngô Bảo Châu: mặc dù học hành và làm việc ở nước ngoài khá lâu, ông vẫn giữ được “tính dân tộc” rất cao, cả trong cách diễn dịch lẫn cách hành xử liên quan đến trí thức.

Nói như vậy cũng là nói, liên quan đến vấn đề trí thức, cách hiểu ở Việt Nam và ở Tây phương rất khác nhau. Khác nhau từ căn bản: định nghĩa trí thức. Nếu ở Việt Nam, người ta xem trí thức là những người có ăn học và lao động trí óc, thì, trong tiếng Anh, ví dụ, Từ điển Oxford giải thích, tính từ intellectual có hai nghĩa chính: một, liên quan đến tri thức (of the intellect); và hai, liên quan đến sở thích hoặc khả năng giải quyết những vấn đề thuộc tâm trí như nghệ thuật, ý tưởng vị ý tưởng hơn là những vấn đề thực dụng (of interested in or able to deal with things of the mind - eg the arts, ideas for their own sake - rather than practical matters).

Xin lưu ý đến cụm từ “ý tưởng vị ý tưởng” ở trên. Trong cuốn Intellectuals and Society, xuất bản năm 2009, Thomas Sowell cho đó chính là yếu tính của trí thức. Ông cho trí thức là những người làm những việc liên quan đến ý tưởng: “Công việc của một nhà trí thức bắt đầu và kết thúc với ý tưởng” (An intellectual’s work begins and ends with ideas; tr. 3 & 283). Trong hai yếu tố Sowell đã nêu, yếu tố sau quan trọng hơn yếu tố trước. Khác với loài vật, hầu như loài người lúc nào cũng bắt đầu công việc với một ý tưởng nào đó. Một thằng móc túi ngoài phố, chẳng hạn, trước khi đưa tay ra móc túi người khác, bao giờ cũng bắt đầu bằng một ý tưởng: móc túi. Cụ thể hơn, hắn sẽ nghĩ đến một kế hoạch móc túi thật nhanh và thật gọn. Hơn nữa, hắn cũng nghĩ cả đến kế hoạch thoát thân nếu bị phát giác. Đó là chưa kể, một cách tự phát, từ trong vô thức, hắn có hẳn một quan niệm sống: bất chấp đạo đức và liêm sỉ, miễn là có lợi, hoặc ít nhất, tồn tại. Nhưng không phải ai cũng kết thúc công việc bằng một ý tưởng, kể cả những người gọi là lao động trí óc. Ví dụ, với các kỹ thuật gia, ngay cả những kỹ thuật gia thiên tài như Bill Gates và Steve Jobs, kết quả cuối cùng của công việc không phải là ý tưởng mà là những chiếc máy vi tính cũng như các sản phẩm liên quan đến kỹ thuật vi tính. Tất cả các kỹ sư đều giống như vậy: kết quả cuối cùng của họ là máy móc. Những người làm việc nhắm đến cái gì khác ngoài ý tưởng như vậy nhiều vô cùng, bao gồm phần lớn những người lao động trí óc: với các bác sĩ, đó là việc trừ và phòng bệnh; với các nhà kinh doanh, đó là lợi nhuận; với các chính trị gia, đó là các chính sách và quyền lực; với các nhà kỹ nghệ, đó là sản phẩm. Theo Sowell, tất cả những người ấy đều không phải là trí thức. Ngay cả phần lớn những người thuộc giới hàn lâm hay truyền thông, những người hầu như cả đời chôn vùi trong sách vở với các ý tưởng, cũng không hẳn là trí thức: Họ là những kẻ tiêu thụ ý tưởng (consumers of the ideas of intellectuals) hơn là những người sản xuất ý tưởng. Họ có thể thuộc giới trí thức (intelligentsia) nhưng bản thân họ chưa chắc đã là trí thức (intellectual) (tr. 5).

Như vậy, khái niệm trí thức ở Tây phương - qua sự đúc kết của Thomas Sowell - rất hạn chế. Theo cách hiểu đó, hầu hết những người Việt Nam chúng ta quen gọi là trí thức đều không phải là trí thức.

Kết luận ấy hẳn sẽ khiến nhiều người ngỡ ngàng. Nhưng không bắt đầu như vậy, mọi cuộc tranh cãi về trí thức và nhiệm vụ của trí thức biến thành nhảm nhí.
(Còn tiếp)

------------------------------

Nguyễn Hưng Quốc
Thứ Năm, 16 tháng 2 2012

Trong bài trước, tôi đã giới thiệu quan điểm của Thomas Sowell trong cuốn Intellectuals and Society (2009), theo đó, trí thức là những kẻ mà công việc đều bắt đầu và kết thúc với ý tưởng. Xin nhắc lại: quan niệm ấy không hề cực đoan. Đó là cách hiểu thông thường trong thế giới nói tiếng Anh. Chính vì thế, từ điển Oxford mới định nghĩa trí thức là những kẻ thích và có khả năng theo đuổi những ý tưởng vị ý tưởng (ideas for their own sake) hơn là những vấn đề thực dụng.

Như vậy, vấn đề trí thức hay không trí thức không hẳn là vấn đề trình độ. Không phải trí thức thông thái hơn những người không được xem là trí thức. Một chuyên gia (expert) trong một lãnh vực nào đó có thể có kiến thức chuyên ngành cao hơn hẳn những người vốn được công nhận là trí thức, nhưng chuyên gia, trong phần lớn các trường hợp, không phải là trí thức bởi kết quả cuối cùng của công việc họ làm không phải là ý tưởng mà là sản phẩm hay dịch vụ. Trí thức cũng không hẳn khôn ngoan hơn người khác. Chính vì thế mới có những “tri thức dại dột” (unwise intellect). Chung quanh những tên độc tài khát máu như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Hitler, lúc nào cũng đầy những người được xem là thuộc “giới trí thức” (intelligentsia) sùng bái và ca tụng, bất chấp việc chúng đã giết chết cả hàng triệu người vô tội và đày đoạ dân tộc của chúng vào cảnh hoặc chiến tranh hoặc bần cùng.

Nhưng trí thức cũng không hẳn thuộc phạm trù nghề nghiệp (occupational category) như Thomas Sowell đã viết (tr. 2 & 282). Thật ra, Sowell phân biệt hai từ trí thức: với tư cách một danh từ, nó chỉ một loại người thuộc một nghề nghiệp nhất định nào đó; với tư cách một tính từ, nó chỉ một loạt những tiêu chuẩn và thành tựu được khái quát hoá từ cách hành xử của phần lớn những người trong nghề nghiệp đó (tr. 282).

Trên thực tế, phần lớn những người trí thức thuộc giới nghiên cứu, đặc biệt giới nghiên cứu các ngành khoa học lý thuyết, khoa học xã hội và nhân văn, tức những người hoạt động không dẫn đến kết quả nào khác ngoài các ý tưởng. Tuy nhiên, phạm vi của cái gọi là nghiên cứu ấy lại rất rộng, không giới hạn trong một lãnh vực cụ thể nào cả. Chúng ta có thể thấy điều đó qua danh sách 100 nhà trí thức hàng đầu trên thế giới do tạp chí Foreign PolicyProspect Magazine thực hiện vào năm 2005.
Hạng
Tên
Nghề nghiệp
Quốc gia
Số phiếu
1.
Nhà ngôn ngữ học, tác giả, nhà hoạt động xã hội
Mỹ
4827
2.
Tiểu thuyết gia và nhà Trung cổ học
Ý
2464
3.
Richard Dawkins
Nhà sinh vật học và nhà bút chiến
Anh
2188
4.
Chính khách, kịch tác gia
Czech Republic
1990
5.
Christopher Hitchens
Nhà bút chiến
Anh/Mỹ
1844
6.
Paul Krugman
Kinh tế gia, ký mục gia
Mỹ
1746
7.
Triết gia
Đức
1639
8.
Amartya Sen
Kinh tế gia
Ấn Độ
1590
9.
Jared Diamond
Nhà inh vật học, sử gia
Mỹ
1499
10.
Tiểu thuyết gia, bình luận gia chính trị
Anh/Ấn Độ
1468
11.
Naomi Klein
Tác giả, ký giả
Canada
1378
12.
Shirin Ebadi
Luật sư, nhà hoạt động nhân quyền
Iran
1309
13.
Hernando de Soto
Kinh tế gia
Peru
1202
14.
Bjørn Lomborg
Nhà môi trường học
Đan Mạch
1141
15.
Abdolkarim Soroush
Lý thuyết gia tôn giáo
Iran
1114
16.
Thomas Friedman
Ký giả, tác giả
Mỹ
1049
17.
Nhà lãnh đạo tôn giáo
Đức, Vatican
1046
18.
Eric Hobsbawm
Sử gia
Britain
1037
19.
Giáo sư, nhà hoạch định chính sách
Mỹ
1028
20.
Tác giả, nhà phê bình xã hội
Mỹ
1013
21.
Francis Fukuyama
Nhà chính trị học, tác giả
Mỹ
883
22.
Jean Baudrillard
Nhà xã hội học
Pháp
858
23.
Slavoj Zizek
Triết gia, nhà xã hội học
Slovenia
840
24.
Daniel Dennett
Triết gia
Mỹ
832
25.
Freeman Dyson
Nhà vật lý
Mỹ
823
26.
Steven Pinker
Nhà tâm lý học
Mỹ/Canada
812
27.
Jeffrey Sachs
Nhà kinh tế
Mỹ
810
28.
Samuel Huntington
Nhà chính trị học
Mỹ
805
29.
Tiểu thuyết gia, chính khách
Peru
771
30.
Ali al-Sistani
Tu sĩ
Iran, Iraq
768
31.
Nhà sinh vật học
Mỹ
742
32.
Richard Posner
Thẩm phán, học giả
Mỹ
740
33.
Peter Singer
Triết gia
Úc
703
34.
Bernard Lewis
Sử gia
Anh/Mỹ
660
35.
Fareed Zakaria
Tác giả, ký giả
Mỹ
634
36.
Nhà kinh tế học
Mỹ
630
37.
Michael Ignatieff
Nhà văn, lý thuyết gia về nhân quyền
Canada
610
38.
Tiểu thuyết gia
Nigeria
585
39.
Anthony Giddens
Nhà xã hội học
Anh
582
40.
Lawrence Lessig
Học giả về luật pháp
Mỹ
565
41.
Triết gia
Mỹ
562
42.
Jagdish Bhagwati
Kinh tế gia
Mỹ/Ấn Độ
561
43.
Nhà xã hội học, cựu Tổng thống
Brazil
556
44.
Tiểu thuyết gia
Nam Phi
548
44.
Niall Ferguson
Sử gia
Anh
548
46.
Ayaan Hirsi Ali
Chính trị gia
Somalia, Netherlands
546
47.
Vật lý gia
Mỹ
507
48.
Triết gia
Pháp
487
49.
Nhà văn, giáo sư
Úc/Anh
471
50.
Antonio Negri
Triết gia
Ý
452
51.
Kiến trúc sư
Hà Lan
429
52.
Timothy Garton Ash
Sử gia
Anh
428
53.
Martha Nussbaum
Triết gia
Mỹ
422
54.
Orhan Pamuk
Tiểu thuyết gia
Turkey
393
55.
Nhà nhân chủng học
Mỹ
388
56.
Yusuf al-Qaradawi
Tu sĩ
Ai Cập/ Qatar
382
57.
Học giả, nhà phê bình xã hội
Mỹ
379
58.
Tariq Ramadan
Học giả Hồi giáo
Thuỵ Sĩ
372
59.
Tiểu thuyết gia
Israel
358
60.
Kinh tế gia
Mỹ
351
61.
Hans Küng
Nhà thần học
Thuỵ Sĩ
344
62.
Robert Kagan
Nhà bình luận chính trị
Mỹ
339
63.
Paul Kennedy
Sử gia
Anh/Mỹ
334
64.
Daniel Kahneman
Nhà tâm lý học
Israel/Mỹ
312
65.
Sari Nusseibeh
Nhà ngoại giao, triết gia
Palestine
297
66.
Kịch tác gia
Nigeria
296
67.
Kemal Dervis
Kinh tế gia
Turkey
295
68.
Michael Walzer
Lý thuyết gia chính trị
Mỹ
279
69.
Tiểu thuyết gia, kịch tác gia
Trung Quốc
277
70.
Howard Gardner
Tâm lý gia
Mỹ
273
71.
James Lovelock
Khoa học gia
Anh
268
72.
Robert Hughes
Nhà phê bình nghệ thuật
Úc
259
73.
Ali Mazrui
Nhà chính trị học
Kenya
251
74.
Craig Venter
Nhà sinh vật học, doanh nhân
Mỹ
244
75.
Martin Rees
Nhà vật lý thiên văn
Britain
242
76.
James Q. Wilson
Nhà tội phạm học
Mỹ
229
77.
Robert Putnam
Nhà chính trị học
Mỹ
221
78.
Peter Sloterdijk
Triết gia
Đức
217
79.
Sergei Karaganov
Nhà phân tích chính sách ngoại giao
Nga
194
80.
Sunita Narain
Nhà môi trường học
Ấn Độ
186
81.
Alain Finkielkraut
Triết gia
Pháp
185
82.
Fan Gang
Nhà kinh tế học học
Trung Quốc
180
83.
Florence Wambugu
Nhà thực vật bệnh lý học
Kenya
159
84.
Gilles Kepel
Học giả về Hồi giáo
Pháp
156
85.
Enrique Krauze
Sử gia
Mexico
144
86.
Nhà văn
Trung Quốc
129
87.
Neil Gershenfeld
Vật lý gia
Mỹ
120
88.
Paul Ekman
Nhà tâm lý học
Mỹ
118
89.
Jaron Lanier
Nhà tiên phong về hiện thực ảo
Mỹ
117
90.
Gordon Conway
Nhà nghiên cứu nông nghiệp
Anh
90
91.
Pavol Demes
Nhà phân tích chính trị
Slovakia
88
92.
Elaine Scarry
Lý thuyết gia văn học
Mỹ
87
93.
Robert Cooper
Nhà văn, nhà ngoại giao
Anh
86
94.
Harold Varmus
Nhà nghiên cứu y học
Mỹ
85
95.
Pramoedya Ananta Toer
Nhà văn
Indonesia
84
96.
Zheng Bijian
Nhà nghiên cứu chính trị
Trung Quốc
76
97.
Kenichi Ohmae
Lý thuyết gia về quản trị
Nhật
68
98.
Wang Jisi
Nhà phân tích chính sách ngoại giao
Trung Quốc
59
98.
Kishore Mahbubani
Tác giả, nhà ngoại giao
Singapore
59
100.
Shintaro Ishihara
Tác giả, chính trị gia
Nhật
57

Nếu trí thức, theo cách giải thích của Thomas Sowell, là những người hoạt động trong lãnh vực bắt đầu và kết thúc với ý tưởng, có khá nhiều người trong danh sách trên vốn tự bản chất không phải là trí thức: họ là chính khách (kết quả cuối cùng của công việc họ làm là chính sách và quyền lực), tu sĩ (kết quả cuối cùng là việc giữ đạo và truyền đạo), thẩm phán (kết quả cuối cùng là án lệnh), nhà ngoại giao (kết quả cuối cùng là quan hệ đối ngoại), nhà nghiên cứu y học (kết quả cuối cùng là cách thức phòng và trị bệnh), nhà kinh doanh (kết quả cuối cùng là lợi nhuận), v.v… Tuy nhiên, tất cả đều trở thành nhà trí thức, hơn nữa, trí thức nổi tiếng nhất thế giới.
Tại sao?
Lý do chính là họ…vượt biên.

Có hai kiểu vượt biên chính.
Thứ nhất là vượt ra khỏi biên giới lãnh vực chuyên môn của họ. Ai cũng biết Noam Chomsky là một nhà ngôn ngữ học xuất sắc, nhưng dưới mắt quần chúng, ông trở thành một nhà trí thức lỗi lạc không phải vì các công trình nghiên cứu ngôn ngữ học mà vì các bài bình luận về chính trị và xã hội, vốn nằm ngoài chuyên ngành của ông. Andrei Sakharov vốn là nhà vật lý nguyên tử đã trở một trí thức công chúng ở một lãnh vực hoàn toàn không dính líu gì đến vật lý: dân chủ và nhân quyền, ở đó, ông được giải thưởng Nobel Hoà bình năm 1975 và được biết đến ở khắp nơi trên thế giới. Trước đó, Bertrand Russell vốn cũng là một triết gia và một nhà toán học đã trở thành một trí thức công chúng nổi tiếng vì các bình luận chính trị, đặc biệt về chiến tranh Việt Nam. Trong phạm vi Việt Nam, chúng ta cũng dễ dàng thấy nhiều hiện tượng tương tự. Hoàng Tuỵ trở thành một trí thức công chúng không phải với các công trình nghiên cứu về toán học mà với các nhận định của ông về giáo dục. Quá trình chuyển hoá từ một nhà văn đến một nhà trí thức của Nguyên Ngọc cũng là quá trình đi từ phạm trù thuần tuý văn chương đến phạm trù văn hoá và xã hội. Ở Úc, nếu không tham gia vào các cuộc thảo luận về văn hoá, giáo dục, và thỉnh thoảng, chính trị (nhất là những vấn đề liên quan đến Biển Đông), cả Nguyễn Văn Tuấn lẫn Phạm Quang Tuấn đều chỉ là những giáo sư và những chuyên gia thầm lặng trong lãnh vực chuyên ngành của họ: một người về y học và một người về hoá học. Các công trình nghiên cứu của họ được phổ biến trên các tập san chuyên môn, ở đó, họ là chuyên gia hơn là trí thức, càng không phải là trí thức công chúng.

Dĩ nhiên, trong quá trình từ một chuyên gia đến một trí thức, người ta có khá nhiều thuận lợi: một là kiến thức cơ bản của họ đã khá rộng; hai là họ đã quen thuộc với các thao tác nghiên cúu từ cách tìm kiếm đến cách lý giải tài liệu; ba là cách diễn đạt, ít nhất cũng mạch lạc đủ để người đọc có thể theo dõi; và bốn, quan trọng nhất, họ được rèn luyện kỹ năng phân tích và lý luận để có thể suy nghĩ một cách độc lập và có tính phê phán.

Cần lưu ý là ở một người đóng hai vai trò, chuyên gia và trí thức, tài năng của một chuyên gia không nhất thiết tương ứng với tài năng của một trí thức. Trong cuốn Public Intellectuals, Richard A. Posner ghi nhận là có nhiều trí thức có uy tín trong công chúng nhiều hơn hẳn trong cộng đồng nghề nghiệp của họ. Trong số 100 nhà trí thức nổi tiếng nhất trong công chúng, chỉ có 18 người là thực sự nổi tiếng trong chuyên ngành. Điều đó cho thấy từ một chuyên gia đến một trí thức, nhất là trí thức công chúng, người ta đi vào hai thế giới khác nhau với những tiêu chuẩn khác nhau.

Thứ hai, vượt ra khỏi biên giới của môi trường hoạt động cố hữu. Môi trường hoạt động cố hữu của các nhà khoa học là gì? Là các phòng thí nghiệm và các tập san chuyên môn. Người đọc, người theo dõi và đánh giá họ là các đồng nghiệp cùng ngành. Ngay cả khi họ nổi tiếng thì họ cũng chỉ nổi tiếng trong ngành. Một số người, thật ít ỏi, trong họ, đến với quần chúng được chủ yếu là nhờ tầng lớp trung gian: các học giả, ký giả và thầy cô giáo. Trước đây, chính qua các tầng lớp trung gian ấy mà Charles Darwin, Karl Marx và Sigmund Freud đã trở thành trí thức công chúng nổi tiếng cả thế giới. Sau này, với sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật truyền thông đại chúng, nhiều nhà trí thức lớn không muốn chờ đợi sự chuyển tải của tầng lớp trung gian ấy nữa. Họ trực tiếp đến với quần chúng. Thay vì chỉ đối thoại với đồng nghiệp trong các trung tâm nghiên cứu hay các đại học qua các tập san chuyên ngành, họ chọn lựa đối thoại trực tiếp với quần chúng bằng cách xuất hiện trên ti vi, trả lời phỏng vấn trên radio, viết các bài chính luận hoặc xã luận trên báo chí, và gần đây nhất, trên các blog. Đối tượng thay đổi, hình thức, ngôn ngữ và nội dung của các cuộc đối thoại cũng thay đổi theo. Từ văn phong học thuật, họ chuyển sang văn phong chính luận; từ ngôn ngữ hàn lâm, họ chuyển sang ngôn ngữ đại chúng; từ những đề tài chuyên môn họ chuyển sang những mối quan tâm trong đời sống hàng ngày của mọi người, hoặc ít nhất, của đa số dân chúng.

Trong cả hai trường hợp “vượt biên” nêu trên, quá trình từ một chuyên gia đến một trí thức hoặc từ một trí thức đến một trí thức công chúng hoàn toàn là một sự lựa chọn. Đó là một lựa chọn tự nguyện. Người ta không sinh ra là trí thức, đã đành. Ngay cả khi được học hành chu đáo, người ta cũng không nhất thiết trở thành trí thức để chỉ quanh quẩn mãi với các ý niệm và ý tưởng. Người ta có thể trở thành những nhà thực hành hay thực dụng xuất sắc. Lựa chọn trở thành trí thức là lựa chọn sống chết với ý tưởng. Chỉ với ý tưởng.

Tuy nhiên, đó chỉ là một khía cạnh.
Các khía cạnh khác, xin từ từ bàn sau.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

.
.
.

No comments: