Nguyễn Hưng Quốc
Thứ Ba, 14 tháng 2 2012
Gần đây, trên các blog bằng tiếng Việt, người ta thấy có một cuộc bàn cãi khá sôi nổi về vấn đề trí thức với sự tham gia của nhiều người, từ nhiều quan điểm khác nhau.
Tôi cho đó là một đề tài hay, hơn nữa, rất bổ ích. Nó cho thấy sự phản tỉnh của những người được gọi là trí thức tại Việt Nam về vị trí và chức năng của họ trong xã hội, nhất là ở thời đại mà truyền thông đại chúng phát triển mạnh mẽ và đất nước đang đối diện với rất nhiều vấn đề phức tạp như hiện nay. Nó đặt lại một vấn đề, tuy cũ, nhưng thật ra, chưa bao giờ được giải quyết một cách rốt ráo, do đó, chứa đầy những ngộ nhận. Những ngộ nhận ấy không những có hại về phương diện nhận thức mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của văn hóa, chính trị và xã hội Việt Nam.
Để thảo luận một cách nghiêm chỉnh, cần xác định, trước hết, khái niệm trí thức.
Ở đây, có mấy điểm cần được nhấn mạnh:
Thứ nhất, trí thức là một khái niệm khá mới. Ở Việt Nam: nó rất mới. Trong Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes năm 1651: Chưa có. Trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của năm 1895: Cũng chưa có. Như vậy, từ trí thức chỉ xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 mà thôi. Điều đó cũng không có gì lạ. Trong tiếng Anh, intellectual, với tư cách tính từ, chỉ sự hiểu biết, chỉ xuất hiện từ cuối thế kỷ 14; với tư cách danh từ, chỉ trí tuệ, xuất hiện muộn hơn, vào cuối thế kỷ 16; và chỉ những người có học, xuất hiện càng muộn hơn, khoảng giữa thế kỷ 17.
Thứ hai, mặc dù khá mới, nội hàm khái niệm trí thức lại phát triển rất nhanh, do đó, bao gồm nhiều cách hiểu khác nhau. Trình bày những cách hiểu khác nhau ấy là một điều bất khả trong phạm vi một bài viết trên blog. Tôi chỉ xin giới hạn trong một câu hỏi nhỏ: Ai là trí thức?
Theo cách hiểu thông thường ở Việt Nam, được ghi rõ trong các từ điển tiếng Việt, trí thức là những kẻ, một, có ăn học; và hai, làm các nghề gọi là lao động trí óc.
Nhưng thế nào là người có ăn học? Ở đây lại có hai cách hiểu dựa vào hai tiêu chuẩn chính: bằng cấp và kiến thức. Tiêu chuẩn bằng cấp lại thay đổi theo thời gian: Trước, thời Pháp thuộc, có được bằng tú tài, hoặc, thậm chí, bằng Thành chung, đã có thể được xem là trí thức. Sau, theo đà phổ cập của giáo dục, trí thức được dùng để chỉ những người có bằng cử nhân hoặc trên cử nhân. Tiêu chuẩn kiến thức còn mơ hồ hơn. Làm cách nào để đo lường được mức độ hiểu biết của từng người. Với những người viết lách thì tương đối dễ: những điều họ hiểu biết được phô bày công khai trên các trang giấy. Nhưng với những người không viết lách? Không có cách gì biết được. Nên ai cũng tha hồ tự xưng là trí thức.
Khái niệm lao động trí óc cũng quá rộng. Ở Việt Nam, dưới ảnh hưởng của Liên Xô, xã hội được phân chia thành nhiều giai cấp khác nhau: Ở trên, thuộc thành phần thống trị, có tầng lớp quý tộc, tư sản và địa chủ; phía dưới, thuộc thành phần bị trị và bị bóc lột, có công nhân và nông dân. Ở giữa hai thành phần ấy, có một tầng lớp trung gian, gọi là trí thức tiểu tư sản. May mắn là những người cộng sản, ở một số thời điểm nào đó, vì không muốn đánh mất cái chất xám trong thành phần trung gian ấy nên ở đâu cũng coi họ là một đồng minh tốt. Chính vì vậy, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nào, cũng có ba tầng lớp được xem là nòng cốt, bao gồm: công dân, nông dân và trí thức. Trong ba tầng lớp ấy, trí thức bị xem là bấp bênh và khả nghi nhất. Lý do là vì, một, về phương diện kinh tế, họ thuộc thành phần tiểu tư sản hơn là vô sản; về phương diện lịch sử, họ thường đi với giai cấp thống trị; và về phương diện ý thức hệ, họ thường bị sa đà vào lý thuyết, tách lìa quần chúng và thực tiễn, hơn nữa, dễ bị ngả nghiêng giao động khi đối diện với khó khn hay thử thách. Chính vì thế, những người cộng sản vừa sử dụng trí thức lại vừa nghi ngờ và khinh rẻ trí thức. Cả Lenin lẫn Mao Trạch Đông đều xem trí thức như là… cứt. Ở Việt Nam, dường như không có lãnh đạo nào bỗ bã như thế. Nhưng cũng có ít ai thực sự coi trọng trí thức. Họ xem trí thức, nói như nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh, thời đầu đổi mới, như “con nít”, luôn luôn cần được nắm tay dẫn dắt và dạy dỗ. Tất cả những điều ấy làm cho giới trí thức nói chung vừa tự hào vừa tự ti. Tự hào về kiến thức của mình, nhưng lại tự ti về vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử. Để vượt qua mặc cảm tự ti, hầu hết đều tự nguyện đem hết tâm trí và sức lực của mình để phục tùng và phục vụ lãnh đạo, từ đó, hình thành lớp trí thức phò chính thống, nói theo ngôn ngữ của Phạm Thị Hoài.
Khi Ngô Bảo Châu, trong bài trả lời phỏng vấn đăng trên báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần, cho “trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội”, ông không nói điều gì khác ngoài tâm lý và tâm thế của một mẫu trí thức phò chính thống tiêu biểu ở Việt Nam. Ở phương diện này, không thể không khen ngợi Ngô Bảo Châu: mặc dù học hành và làm việc ở nước ngoài khá lâu, ông vẫn giữ được “tính dân tộc” rất cao, cả trong cách diễn dịch lẫn cách hành xử liên quan đến trí thức.
Nói như vậy cũng là nói, liên quan đến vấn đề trí thức, cách hiểu ở Việt Nam và ở Tây phương rất khác nhau. Khác nhau từ căn bản: định nghĩa trí thức. Nếu ở Việt Nam, người ta xem trí thức là những người có ăn học và lao động trí óc, thì, trong tiếng Anh, ví dụ, Từ điển Oxford giải thích, tính từ intellectual có hai nghĩa chính: một, liên quan đến tri thức (of the intellect); và hai, liên quan đến sở thích hoặc khả năng giải quyết những vấn đề thuộc tâm trí như nghệ thuật, ý tưởng vị ý tưởng hơn là những vấn đề thực dụng (of interested in or able to deal with things of the mind - eg the arts, ideas for their own sake - rather than practical matters).
Xin lưu ý đến cụm từ “ý tưởng vị ý tưởng” ở trên. Trong cuốn Intellectuals and Society, xuất bản năm 2009, Thomas Sowell cho đó chính là yếu tính của trí thức. Ông cho trí thức là những người làm những việc liên quan đến ý tưởng: “Công việc của một nhà trí thức bắt đầu và kết thúc với ý tưởng” (An intellectual’s work begins and ends with ideas; tr. 3 & 283). Trong hai yếu tố Sowell đã nêu, yếu tố sau quan trọng hơn yếu tố trước. Khác với loài vật, hầu như loài người lúc nào cũng bắt đầu công việc với một ý tưởng nào đó. Một thằng móc túi ngoài phố, chẳng hạn, trước khi đưa tay ra móc túi người khác, bao giờ cũng bắt đầu bằng một ý tưởng: móc túi. Cụ thể hơn, hắn sẽ nghĩ đến một kế hoạch móc túi thật nhanh và thật gọn. Hơn nữa, hắn cũng nghĩ cả đến kế hoạch thoát thân nếu bị phát giác. Đó là chưa kể, một cách tự phát, từ trong vô thức, hắn có hẳn một quan niệm sống: bất chấp đạo đức và liêm sỉ, miễn là có lợi, hoặc ít nhất, tồn tại. Nhưng không phải ai cũng kết thúc công việc bằng một ý tưởng, kể cả những người gọi là lao động trí óc. Ví dụ, với các kỹ thuật gia, ngay cả những kỹ thuật gia thiên tài như Bill Gates và Steve Jobs, kết quả cuối cùng của công việc không phải là ý tưởng mà là những chiếc máy vi tính cũng như các sản phẩm liên quan đến kỹ thuật vi tính. Tất cả các kỹ sư đều giống như vậy: kết quả cuối cùng của họ là máy móc. Những người làm việc nhắm đến cái gì khác ngoài ý tưởng như vậy nhiều vô cùng, bao gồm phần lớn những người lao động trí óc: với các bác sĩ, đó là việc trừ và phòng bệnh; với các nhà kinh doanh, đó là lợi nhuận; với các chính trị gia, đó là các chính sách và quyền lực; với các nhà kỹ nghệ, đó là sản phẩm. Theo Sowell, tất cả những người ấy đều không phải là trí thức. Ngay cả phần lớn những người thuộc giới hàn lâm hay truyền thông, những người hầu như cả đời chôn vùi trong sách vở với các ý tưởng, cũng không hẳn là trí thức: Họ là những kẻ tiêu thụ ý tưởng (consumers of the ideas of intellectuals) hơn là những người sản xuất ý tưởng. Họ có thể thuộc giới trí thức (intelligentsia) nhưng bản thân họ chưa chắc đã là trí thức (intellectual) (tr. 5).
Như vậy, khái niệm trí thức ở Tây phương - qua sự đúc kết của Thomas Sowell - rất hạn chế. Theo cách hiểu đó, hầu hết những người Việt Nam chúng ta quen gọi là trí thức đều không phải là trí thức.
Kết luận ấy hẳn sẽ khiến nhiều người ngỡ ngàng. Nhưng không bắt đầu như vậy, mọi cuộc tranh cãi về trí thức và nhiệm vụ của trí thức biến thành nhảm nhí.
(Còn tiếp)
------------------------------
Nguyễn Hưng Quốc
Thứ Năm, 16 tháng 2 2012
Trong bài trước, tôi đã giới thiệu quan điểm của Thomas Sowell trong cuốn Intellectuals and Society (2009), theo đó, trí thức là những kẻ mà công việc đều bắt đầu và kết thúc với ý tưởng. Xin nhắc lại: quan niệm ấy không hề cực đoan. Đó là cách hiểu thông thường trong thế giới nói tiếng Anh. Chính vì thế, từ điển Oxford mới định nghĩa trí thức là những kẻ thích và có khả năng theo đuổi những ý tưởng vị ý tưởng (ideas for their own sake) hơn là những vấn đề thực dụng.
Như vậy, vấn đề trí thức hay không trí thức không hẳn là vấn đề trình độ. Không phải trí thức thông thái hơn những người không được xem là trí thức. Một chuyên gia (expert) trong một lãnh vực nào đó có thể có kiến thức chuyên ngành cao hơn hẳn những người vốn được công nhận là trí thức, nhưng chuyên gia, trong phần lớn các trường hợp, không phải là trí thức bởi kết quả cuối cùng của công việc họ làm không phải là ý tưởng mà là sản phẩm hay dịch vụ. Trí thức cũng không hẳn khôn ngoan hơn người khác. Chính vì thế mới có những “tri thức dại dột” (unwise intellect). Chung quanh những tên độc tài khát máu như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Hitler, lúc nào cũng đầy những người được xem là thuộc “giới trí thức” (intelligentsia) sùng bái và ca tụng, bất chấp việc chúng đã giết chết cả hàng triệu người vô tội và đày đoạ dân tộc của chúng vào cảnh hoặc chiến tranh hoặc bần cùng.
Nhưng trí thức cũng không hẳn thuộc phạm trù nghề nghiệp (occupational category) như Thomas Sowell đã viết (tr. 2 & 282). Thật ra, Sowell phân biệt hai từ trí thức: với tư cách một danh từ, nó chỉ một loại người thuộc một nghề nghiệp nhất định nào đó; với tư cách một tính từ, nó chỉ một loạt những tiêu chuẩn và thành tựu được khái quát hoá từ cách hành xử của phần lớn những người trong nghề nghiệp đó (tr. 282).
Trên thực tế, phần lớn những người trí thức thuộc giới nghiên cứu, đặc biệt giới nghiên cứu các ngành khoa học lý thuyết, khoa học xã hội và nhân văn, tức những người hoạt động không dẫn đến kết quả nào khác ngoài các ý tưởng. Tuy nhiên, phạm vi của cái gọi là nghiên cứu ấy lại rất rộng, không giới hạn trong một lãnh vực cụ thể nào cả. Chúng ta có thể thấy điều đó qua danh sách 100 nhà trí thức hàng đầu trên thế giới do tạp chí Foreign Policy và Prospect Magazine thực hiện vào năm 2005.
Hạng | Tên | Nghề nghiệp | Quốc gia | Số phiếu |
1. | Nhà ngôn ngữ học, tác giả, nhà hoạt động xã hội | Mỹ | 4827 | |
2. | Tiểu thuyết gia và nhà Trung cổ học | Ý | 2464 | |
3. | Richard Dawkins | Nhà sinh vật học và nhà bút chiến | Anh | 2188 |
4. | Chính khách, kịch tác gia | Czech Republic | 1990 | |
5. | Christopher Hitchens | Nhà bút chiến | Anh/Mỹ | 1844 |
6. | Paul Krugman | Kinh tế gia, ký mục gia | Mỹ | 1746 |
7. | Triết gia | Đức | 1639 | |
8. | Amartya Sen | Kinh tế gia | Ấn Độ | 1590 |
9. | Jared Diamond | Nhà inh vật học, sử gia | Mỹ | 1499 |
10. | Tiểu thuyết gia, bình luận gia chính trị | Anh/Ấn Độ | 1468 | |
11. | Naomi Klein | Tác giả, ký giả | Canada | 1378 |
12. | Shirin Ebadi | Luật sư, nhà hoạt động nhân quyền | Iran | 1309 |
13. | Hernando de Soto | Kinh tế gia | Peru | 1202 |
14. | Bjørn Lomborg | Nhà môi trường học | Đan Mạch | 1141 |
15. | Abdolkarim Soroush | Lý thuyết gia tôn giáo | Iran | 1114 |
16. | Thomas Friedman | Ký giả, tác giả | Mỹ | 1049 |
17. | Nhà lãnh đạo tôn giáo | Đức, Vatican | 1046 | |
18. | Eric Hobsbawm | Sử gia | Britain | 1037 |
19. | Giáo sư, nhà hoạch định chính sách | Mỹ | 1028 | |
20. | Tác giả, nhà phê bình xã hội | Mỹ | 1013 | |
21. | Francis Fukuyama | Nhà chính trị học, tác giả | Mỹ | 883 |
22. | Jean Baudrillard | Nhà xã hội học | Pháp | 858 |
23. | Slavoj Zizek | Triết gia, nhà xã hội học | Slovenia | 840 |
24. | Daniel Dennett | Triết gia | Mỹ | 832 |
25. | Freeman Dyson | Nhà vật lý | Mỹ | 823 |
26. | Steven Pinker | Nhà tâm lý học | Mỹ/Canada | 812 |
27. | Jeffrey Sachs | Nhà kinh tế | Mỹ | 810 |
28. | Samuel Huntington | Nhà chính trị học | Mỹ | 805 |
29. | Tiểu thuyết gia, chính khách | Peru | 771 | |
30. | Ali al-Sistani | Tu sĩ | Iran, Iraq | 768 |
31. | Nhà sinh vật học | Mỹ | 742 | |
32. | Richard Posner | Thẩm phán, học giả | Mỹ | 740 |
33. | Peter Singer | Triết gia | Úc | 703 |
34. | Bernard Lewis | Sử gia | Anh/Mỹ | 660 |
35. | Fareed Zakaria | Tác giả, ký giả | Mỹ | 634 |
36. | Nhà kinh tế học | Mỹ | 630 | |
37. | Michael Ignatieff | Nhà văn, lý thuyết gia về nhân quyền | Canada | 610 |
38. | Tiểu thuyết gia | Nigeria | 585 | |
39. | Anthony Giddens | Nhà xã hội học | Anh | 582 |
40. | Lawrence Lessig | Học giả về luật pháp | Mỹ | 565 |
41. | Triết gia | Mỹ | 562 | |
42. | Jagdish Bhagwati | Kinh tế gia | Mỹ/Ấn Độ | 561 |
43. | Nhà xã hội học, cựu Tổng thống | Brazil | 556 | |
44. | Tiểu thuyết gia | Nam Phi | 548 | |
44. | Niall Ferguson | Sử gia | Anh | 548 |
46. | Ayaan Hirsi Ali | Chính trị gia | Somalia, Netherlands | 546 |
47. | Vật lý gia | Mỹ | 507 | |
48. | Triết gia | Pháp | 487 | |
49. | Nhà văn, giáo sư | Úc/Anh | 471 | |
50. | Antonio Negri | Triết gia | Ý | 452 |
51. | Kiến trúc sư | Hà Lan | 429 | |
52. | Timothy Garton Ash | Sử gia | Anh | 428 |
53. | Martha Nussbaum | Triết gia | Mỹ | 422 |
54. | Orhan Pamuk | Tiểu thuyết gia | Turkey | 393 |
55. | Nhà nhân chủng học | Mỹ | 388 | |
56. | Yusuf al-Qaradawi | Tu sĩ | Ai Cập/ Qatar | 382 |
57. | Học giả, nhà phê bình xã hội | Mỹ | 379 | |
58. | Tariq Ramadan | Học giả Hồi giáo | Thuỵ Sĩ | 372 |
59. | Tiểu thuyết gia | Israel | 358 | |
60. | Kinh tế gia | Mỹ | 351 | |
61. | Hans Küng | Nhà thần học | Thuỵ Sĩ | 344 |
62. | Robert Kagan | Nhà bình luận chính trị | Mỹ | 339 |
63. | Paul Kennedy | Sử gia | Anh/Mỹ | 334 |
64. | Daniel Kahneman | Nhà tâm lý học | Israel/Mỹ | 312 |
65. | Sari Nusseibeh | Nhà ngoại giao, triết gia | Palestine | 297 |
66. | Kịch tác gia | Nigeria | 296 | |
67. | Kemal Dervis | Kinh tế gia | Turkey | 295 |
68. | Michael Walzer | Lý thuyết gia chính trị | Mỹ | 279 |
69. | Tiểu thuyết gia, kịch tác gia | Trung Quốc | 277 | |
70. | Howard Gardner | Tâm lý gia | Mỹ | 273 |
71. | James Lovelock | Khoa học gia | Anh | 268 |
72. | Robert Hughes | Nhà phê bình nghệ thuật | Úc | 259 |
73. | Ali Mazrui | Nhà chính trị học | Kenya | 251 |
74. | Craig Venter | Nhà sinh vật học, doanh nhân | Mỹ | 244 |
75. | Martin Rees | Nhà vật lý thiên văn | Britain | 242 |
76. | James Q. Wilson | Nhà tội phạm học | Mỹ | 229 |
77. | Robert Putnam | Nhà chính trị học | Mỹ | 221 |
78. | Peter Sloterdijk | Triết gia | Đức | 217 |
79. | Sergei Karaganov | Nhà phân tích chính sách ngoại giao | Nga | 194 |
80. | Sunita Narain | Nhà môi trường học | Ấn Độ | 186 |
81. | Alain Finkielkraut | Triết gia | Pháp | 185 |
82. | Fan Gang | Nhà kinh tế học học | Trung Quốc | 180 |
83. | Florence Wambugu | Nhà thực vật bệnh lý học | Kenya | 159 |
84. | Gilles Kepel | Học giả về Hồi giáo | Pháp | 156 |
85. | Enrique Krauze | Sử gia | Mexico | 144 |
86. | Nhà văn | Trung Quốc | 129 | |
87. | Neil Gershenfeld | Vật lý gia | Mỹ | 120 |
88. | Paul Ekman | Nhà tâm lý học | Mỹ | 118 |
89. | Jaron Lanier | Nhà tiên phong về hiện thực ảo | Mỹ | 117 |
90. | Gordon Conway | Nhà nghiên cứu nông nghiệp | Anh | 90 |
91. | Pavol Demes | Nhà phân tích chính trị | Slovakia | 88 |
92. | Elaine Scarry | Lý thuyết gia văn học | Mỹ | 87 |
93. | Robert Cooper | Nhà văn, nhà ngoại giao | Anh | 86 |
94. | Harold Varmus | Nhà nghiên cứu y học | Mỹ | 85 |
95. | Pramoedya Ananta Toer | Nhà văn | Indonesia | 84 |
96. | Zheng Bijian | Nhà nghiên cứu chính trị | Trung Quốc | 76 |
97. | Kenichi Ohmae | Lý thuyết gia về quản trị | Nhật | 68 |
98. | Wang Jisi | Nhà phân tích chính sách ngoại giao | Trung Quốc | 59 |
98. | Kishore Mahbubani | Tác giả, nhà ngoại giao | Singapore | 59 |
100. | Shintaro Ishihara | Tác giả, chính trị gia | Nhật | 57 |
Nếu trí thức, theo cách giải thích của Thomas Sowell, là những người hoạt động trong lãnh vực bắt đầu và kết thúc với ý tưởng, có khá nhiều người trong danh sách trên vốn tự bản chất không phải là trí thức: họ là chính khách (kết quả cuối cùng của công việc họ làm là chính sách và quyền lực), tu sĩ (kết quả cuối cùng là việc giữ đạo và truyền đạo), thẩm phán (kết quả cuối cùng là án lệnh), nhà ngoại giao (kết quả cuối cùng là quan hệ đối ngoại), nhà nghiên cứu y học (kết quả cuối cùng là cách thức phòng và trị bệnh), nhà kinh doanh (kết quả cuối cùng là lợi nhuận), v.v… Tuy nhiên, tất cả đều trở thành nhà trí thức, hơn nữa, trí thức nổi tiếng nhất thế giới.
Tại sao?
Lý do chính là họ…vượt biên.
Có hai kiểu vượt biên chính.
Thứ nhất là vượt ra khỏi biên giới lãnh vực chuyên môn của họ. Ai cũng biết Noam Chomsky là một nhà ngôn ngữ học xuất sắc, nhưng dưới mắt quần chúng, ông trở thành một nhà trí thức lỗi lạc không phải vì các công trình nghiên cứu ngôn ngữ học mà vì các bài bình luận về chính trị và xã hội, vốn nằm ngoài chuyên ngành của ông. Andrei Sakharov vốn là nhà vật lý nguyên tử đã trở một trí thức công chúng ở một lãnh vực hoàn toàn không dính líu gì đến vật lý: dân chủ và nhân quyền, ở đó, ông được giải thưởng Nobel Hoà bình năm 1975 và được biết đến ở khắp nơi trên thế giới. Trước đó, Bertrand Russell vốn cũng là một triết gia và một nhà toán học đã trở thành một trí thức công chúng nổi tiếng vì các bình luận chính trị, đặc biệt về chiến tranh Việt Nam. Trong phạm vi Việt Nam, chúng ta cũng dễ dàng thấy nhiều hiện tượng tương tự. Hoàng Tuỵ trở thành một trí thức công chúng không phải với các công trình nghiên cứu về toán học mà với các nhận định của ông về giáo dục. Quá trình chuyển hoá từ một nhà văn đến một nhà trí thức của Nguyên Ngọc cũng là quá trình đi từ phạm trù thuần tuý văn chương đến phạm trù văn hoá và xã hội. Ở Úc, nếu không tham gia vào các cuộc thảo luận về văn hoá, giáo dục, và thỉnh thoảng, chính trị (nhất là những vấn đề liên quan đến Biển Đông), cả Nguyễn Văn Tuấn lẫn Phạm Quang Tuấn đều chỉ là những giáo sư và những chuyên gia thầm lặng trong lãnh vực chuyên ngành của họ: một người về y học và một người về hoá học. Các công trình nghiên cứu của họ được phổ biến trên các tập san chuyên môn, ở đó, họ là chuyên gia hơn là trí thức, càng không phải là trí thức công chúng.
Dĩ nhiên, trong quá trình từ một chuyên gia đến một trí thức, người ta có khá nhiều thuận lợi: một là kiến thức cơ bản của họ đã khá rộng; hai là họ đã quen thuộc với các thao tác nghiên cúu từ cách tìm kiếm đến cách lý giải tài liệu; ba là cách diễn đạt, ít nhất cũng mạch lạc đủ để người đọc có thể theo dõi; và bốn, quan trọng nhất, họ được rèn luyện kỹ năng phân tích và lý luận để có thể suy nghĩ một cách độc lập và có tính phê phán.
Cần lưu ý là ở một người đóng hai vai trò, chuyên gia và trí thức, tài năng của một chuyên gia không nhất thiết tương ứng với tài năng của một trí thức. Trong cuốn Public Intellectuals, Richard A. Posner ghi nhận là có nhiều trí thức có uy tín trong công chúng nhiều hơn hẳn trong cộng đồng nghề nghiệp của họ. Trong số 100 nhà trí thức nổi tiếng nhất trong công chúng, chỉ có 18 người là thực sự nổi tiếng trong chuyên ngành. Điều đó cho thấy từ một chuyên gia đến một trí thức, nhất là trí thức công chúng, người ta đi vào hai thế giới khác nhau với những tiêu chuẩn khác nhau.
Thứ hai, vượt ra khỏi biên giới của môi trường hoạt động cố hữu. Môi trường hoạt động cố hữu của các nhà khoa học là gì? Là các phòng thí nghiệm và các tập san chuyên môn. Người đọc, người theo dõi và đánh giá họ là các đồng nghiệp cùng ngành. Ngay cả khi họ nổi tiếng thì họ cũng chỉ nổi tiếng trong ngành. Một số người, thật ít ỏi, trong họ, đến với quần chúng được chủ yếu là nhờ tầng lớp trung gian: các học giả, ký giả và thầy cô giáo. Trước đây, chính qua các tầng lớp trung gian ấy mà Charles Darwin, Karl Marx và Sigmund Freud đã trở thành trí thức công chúng nổi tiếng cả thế giới. Sau này, với sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật truyền thông đại chúng, nhiều nhà trí thức lớn không muốn chờ đợi sự chuyển tải của tầng lớp trung gian ấy nữa. Họ trực tiếp đến với quần chúng. Thay vì chỉ đối thoại với đồng nghiệp trong các trung tâm nghiên cứu hay các đại học qua các tập san chuyên ngành, họ chọn lựa đối thoại trực tiếp với quần chúng bằng cách xuất hiện trên ti vi, trả lời phỏng vấn trên radio, viết các bài chính luận hoặc xã luận trên báo chí, và gần đây nhất, trên các blog. Đối tượng thay đổi, hình thức, ngôn ngữ và nội dung của các cuộc đối thoại cũng thay đổi theo. Từ văn phong học thuật, họ chuyển sang văn phong chính luận; từ ngôn ngữ hàn lâm, họ chuyển sang ngôn ngữ đại chúng; từ những đề tài chuyên môn họ chuyển sang những mối quan tâm trong đời sống hàng ngày của mọi người, hoặc ít nhất, của đa số dân chúng.
Trong cả hai trường hợp “vượt biên” nêu trên, quá trình từ một chuyên gia đến một trí thức hoặc từ một trí thức đến một trí thức công chúng hoàn toàn là một sự lựa chọn. Đó là một lựa chọn tự nguyện. Người ta không sinh ra là trí thức, đã đành. Ngay cả khi được học hành chu đáo, người ta cũng không nhất thiết trở thành trí thức để chỉ quanh quẩn mãi với các ý niệm và ý tưởng. Người ta có thể trở thành những nhà thực hành hay thực dụng xuất sắc. Lựa chọn trở thành trí thức là lựa chọn sống chết với ý tưởng. Chỉ với ý tưởng.
Tuy nhiên, đó chỉ là một khía cạnh.
Các khía cạnh khác, xin từ từ bàn sau.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
.
.
.
No comments:
Post a Comment