Đồng Sa Băng
Thứ Tư, 13/04/2011
“Ầm… Ầm” Tiếng nổ của hai trái hỏa tiễn làm vang rền bầu trời cư xá Ngân Hàng. Khói lửa bay ngút trời. Tiếng động cơ trực thăng, tiếng súng và tiếng kêu khóc của con người nhào trộn thành một thứ âm thanh khủng khiếp. Trên kênh Tẻ không còn đến một chiếc xuồng con lảng vảng, không phải vì thế mà dòng sông êm đềm trôi.
Hôm đó là ngày 26 tháng 4 năm 1975.
Sài Gòn chưa mất nhưng Sài Gòn đang thoi thóp, Sài Gòn đang nghẹt thở yếu dần, Sài Gòn đang bấn loạn với hàng trăm người hàng ngàn người cùng xe cộ, và những bước chân vội vàng rời bỏ Sài Gòn!
Mọi người tìm đường chạy ra khỏi thành phố và trên cầu Tân Thuận, hướng về Nhà Bè xe kẹt cứng. Tôi ngược dòng người khi đến giữa cầu thì tiếng máy cạch cạch của hai con “óc nóc” đang ngự trị và làm chủ bầu trời với những âm thanh muốn làm vỡ toang màng nhĩ. Tôi đứng trên chỗ cao nhất của cầu Tân Thuận giương mắt nhìn hai con “quạ sắt” đang hoành hành bầu trời cư xá Ngân Hàng. Tiếng máy ầm ầm từ hai chiếc trực thăng lấn át và nhận chìm những tiếng động cơ xe hơi uể ỏa nằm tê liệt trên cầu.
Hai con “quạ sắt” rà trên khu dừa nước như hai con chim bói cá đang găm mắt rình mồi. Những cánh chong chóng quay tít tạo thành một vòng tròn mờ ảo trên đầu. Rặc một tiếng, đuôi trực thăng đổi chiều đẩy khối sắt nhào về hướng phát ra mảnh khói xanh, và, xẹt xẹt hai quả rocket từ dưới bụng con “chim sắt” phóng ra nhắm vào hàng dừa nước trước mặt. Hai vệt khói trắng chưa kịp tan biến trên nền trời thì những thân cây dừa nước bắn tung lên khỏi mặt đất và hai tiếng nổ ầm ầm long trời lở đất. Hai chiếc trực thăng quay đầu trở lại quần thảo trên bầu trời, tiếng đại liên cạch cạch nhả ra từ hai con “chim sắt” cày nát khu dừa nước và những cây bình bát. Tiếng súng vừa dứt thì xẹt xẹt những quả rocket còn lại dưới bụng tiếp tục phóng đi, những đường khói trắng được kẻ chi chít lên nền trời, và liên tục những tiếng nổ chát tai, để lại những cột khói, lửa. Và mặt nước trên con rạch Dừa sóng dậy cuồn cuộn. Nhả hết “bầu tâm sự”, hai con “chim sắt” quay đầu bay về hướng cầu chữ Y. Để lại những ngọn dừa nước, những cây bình bát bên cạnh cư xá Ngân Hàng bốc cháy.
Bóng người và tiếng súng cũng im đi. Bên tai tôi chỉ còn nghe tiếng máy ầm ì của đoàn xe nhúc nhích từng ly bò qua cầu Tân Thuận.
Ngày 26 tháng 4, dưới chân cầu Tân Thuận phía bên kho 11, Khánh Hội, con đường bị chận lại không cho người vào thành phố. Tôi mò lên cảng Kho 5 và bến Bạch Đằng nơi có nhiều tàu bè để tìm đường đi. Nhưng không qua được, tôi quay đầu trở lại.
Nhà tôi nằm trên Tỉnh Lộ 15. Con đường Tỉnh Lộ 15 từ Sài Gòn về Nhà Bè bắt đầu từ ngày 24 tháng 4 người và xe cộ chạy tấp nập. Những chiếc xe Peugeot màu đen bóng chở những gương mặt xa lạ, lớn bé già cả trai gái với những vali ngỗn ngang đua nhau về Nhà Bè.
Những ngày dầu sôi lửa bỏng ở Sài Gòn các trường đại học đóng cửa, tôi thường ghé thăm Lim và nói chuyện ra đi. Tôi chơi thân với Lim và Lim là em trai của Phương. Nhà Phương cách nhà tôi hai cái vườn và năm đó Phương học ở đại học Văn Khoa. Phương và Lim còn có người chị tên Nga, chị Nga đang theo học Sinh Lý Sinh Hóa ngoài Thủ Đức, mộng vào trường Y khoa Sài Gòn. Bình nhật tôi thường qua chơi với Lim. Mỗi lần qua chơi Phương hay bẻn lẻn lúc gặp mặt tôi. Phương có cái bớp trên má, mà mỗi lần ra nắng cái bớp xanh lại hiện lên rõ hơn, hay có lẽ cái nắng làm cho da mặt Phương hồng thêm, cho nên cái bớp xanh nổi bật ra. Đôi mắt Phương đen long lanh, và nụ cười của Phương càng làm tăng thêm vẽ đẹp đôi mắt mỗi lần Phương cười nhìn tôi. Nhưng tâm hồn Phương rất hồn nhiên, những lần gặp mặt đột ngột Phương chỉ “chào anh” thật nhỏ rồi cuối mặt, chân đá những hạt bụi bên đường bước đi thật lẹ.
Hôm nay tôi đến tìm Lim. Ông Tri Phương, ba của Lim nói:
-“Cho bác gởi con Phương và Lim cho cháu.”
Tôi mở miệng nói “dạ” như cái máy!
Làm như tôi đã rành đường đi nước bước lắm! Nhưng chỉ trong một thoáng, tôi nhìn Phương và trong đôi mắt hoài nghi của Phương hình như nàng đang nói: “Anh có biết đường không mà làm tài lanh đó!”
Hôm đó tôi rất mạnh dạn. Tôi đến nắm tay Phương và nói:
-“Sửa soạn đồ đi, mình xuống Nhà Bè ngay bây giờ.”
Nói xong tôi liền rời nhà Phương chạy về lấy túi hành trang đã có sẳn.
Trên đường về nhà tôi thầm nói: “Ít ra ông Tri Phương còn có chút mạo hiểm. Chứ có đâu như Mẹ và người anh cả tôi, lúc nào cũng nói: Mầy chỉ là thằng sinh viên, làm gì mà sợ, đi cho chết sao.”
Tôi vẫn biết mình chỉ là một tên sinh viên cột gà chưa chặt, nhưng sao tôi vẫn muốn đi. Câu nói: “Các con làm gì thì làm nhưng đừng bao giờ làm cộng sản” của Cha tôi hồi còn sinh thời, lúc này thường quanh quẩn trong đầu tôi. Chắc chắn trong câu nói của Cha tôi có điều gì to lớn lắm nên đã hằn sâu trong tâm khảm của ông. Nhiều ngày nay tôi năn nỉ Mẹ và các anh cho tôi đi. Nhiều khi sự chống đối quá quyết liệt và tôi đã nói:
-“Con chấp nhận cái chết, nếu không thì 20 năm sau con sẽ trở lại.”
Có nghĩa là tôi đã đánh đồng sinh mạng bằng 50 phần trăm sống và chết, khi quyết định rời bỏ chế độ cộng sản. Cuối cùng Mẹ tôi đành nói:
-“Thôi, nếu con nói như vậy thì cứ tìm đường đi đi, để sau này con không trách móc ai.”
Những ngày này đâu đâu người ta cũng bàn tán chuyện ra đi và trên dài phát thanh còn loan báo có những đoàn người ra đến biển thì bị bắn chết hoặc bị bắt trở về ngồi tù. Những lời đồn làm hoang mang nhiều người và gây ra sợ sệt. Vì vậy mà Mẹ tôi, người anh cả và người Cậu cứ nghĩ rằng: “Đất nước hết chiến tranh, chính quyền sẽ giúp cho dân làm ăn giàu mạnh, chứ có ai bắt bớ hành hạ, tù tội đâu mà đi vào chỗ chết.” Cho nên không hưởng ứng chuyện ra đi. Nhưng không bao lâu sau ngày “giải phóng” Cậu và anh tôi đã vỡ mộng!
Tôi lấy túi hành trang, vỏn vẹn chỉ có bộ sách Toán Lý Hóa, cuốn Giải Tích, cuốn tự điển Anh-Việt Việt-Anh của Lê Bá Kông, một cây sáo trúc và khoảng mười gói mì ăn liền. Trong nhà lúc này vắng tanh, chỉ có Mẹ và đứa em gái út lẩn quẩn nhìn ra đường. Tôi ôm Mẹ hun lên trán một cái và nói:
-“Con đi nhe Mẹ.”
Chỉ bấy nhiêu thôi rồi tôi đến xoa đầu đứa em gái:
-“Ở nhà ngoan, anh đi.”
Mẹ tôi buồn, nhìn tôi và chỉ nói được mấy tiếng:
-“Con đi thật sao!”
Rồi đưa mắt nhìn theo.
Tôi đi bộ trở lại nhà Phương. Phương và Lim đã sửa sọan xong hành lý, mỗi người gọn gàng chỉ một vali nhỏ, tôi không biết đựng những gì trong đó. Phương nói với tôi:
-“Chị Nga cũng đi luôn nhe anh.”
Tôi trả lời gọn:
-“Ừ, đi luôn.”
Chúng tôi rời nhà Phương xuống Nhà Bè. Hỏi thăm và tìm hết mọi nơi nhưng tuyệt nhiên không thấy dấu vết gì về những chiếc tàu thủy đậu ngòai sông Nhà Bè để bốc người đi! Thất vọng, ảo nảo. Chúng tôi quanh trở về. Tôi nói với Phương:
-“Hết đường rồi, cảng Sài Gòn và bến Bạch Đằng thì bị cô lập, sông Nhà Bè cũng không có tàu bè nào đậu đó. Chắc anh không giúp được gì đâu, thôi chắc mình nằm đây chờ trận.”
Phương cũng buồn nhìn tôi ra về. Thì ra mấy ngày nay tin dưới Nhà Bè có những chiếc tàu thủy cập bến chờ bốc người đi chỉ là lời đồn, và cũng vì những lời đồn đó mà mấy ngày nay Tỉnh Lộ 15 người xuống Nhà Bè nườm nượp!
Mấy ngày này tôi nao ức được đi nhưng không biết đi bằng cách nào, và tôi thường ra bờ sông Sài Gòn ngồi nhìn.
Tôi nhớ là về Tân Thuận ở được vài ba năm thì Cha tôi qua đời. Sau ngày đưa Cha tôi về quê an táng ở Núi Đồi (Mộ Ðúc, Quảng Ngãi), Mẹ tôi mua khu đất của ông Tri Phương ngoài mặt Tỉnh Lộ 15, xây lên căn nhà và anh tôi mở tiệm sửa xe ở đó. Ngoài những giờ học tôi phụ anh Hạnh sửa xe. Năm tháng trôi qua, tôi lớn lên ở đó. Sau ngày đỗ Tú Tài tôi vào đại học Khoa Học Sài Gòn thì Phương cũng vào trường đại học Văn Khoa. Ông bà Tri Phương làm nghề buôn bán vật liệu xây cất và đặt tên cửa hiệu Tri Phương. Tôi biết chữ Phương lấy từ tên của người con gái giữa, chị của Lim. Ông Tri Phương người quê Long Xuyên, An Giang về lập nghiệp nơi đây từ đầu thập niên 60. Bà Tri Phương người xề xòa, hiên lành, những buổi chiều tối bà luôn ra trước sân đốt vài ba cây nhan vái bốn phương tám hướng. Sau này bà Tri Phương thường qua chơi trò chuyện với Mẹ tôi.
Những ngày cuối tháng Tư ngồi trên bờ sông Sài Gòn nhìn về bầu trời Thủ Thiêm lúc nào cũng có khói lửa chiến tranh nghi ngút.
Trưa 29 tháng 4 tôi ra căn cứ chuyển vận Hải Quân kho 18 ở Tân Thuận Đông chơi và xem tình hình. Đến cổng kho 18 tôi thấy nhiều người hôi của đang khuân vát những thùng đồ từ kho 18 ra. Tôi men theo bờ rào xuống căn cứ chuyển vận. Đi cùng tôi có người anh bà con, Điện, theo tôi tìm đường đi. Những ngày này Điện bám sát tôi. Khi đến cổng vào căn cứ chuyển vận Hải Quân thì những người lính Lôi Hổ, mặt mày hung tợn, tóc dài quá bờ vai, đầu đội nón tai bèo, ôm súng lên đạn két két chỉa vào tôi và Điển quát:
-“Trở ra ngay, không tao bắn chết bây giờ.”
Nhìn những con mắt sát thủ hằng ngày sống ở rừng sâu, đối với những người lính Lôi Hổ này: chết là chuyện thường. Tôi liền cùng Điện quay đầu trở lại. Trên đuờng trở ra tôi thấy những chiếc xe Peugeot chở đầy người kéo nhau đi vào căn cứ chuyển vận. Nhưng tôi thì vác túi hành trang đi ra, lòng buồn dịu vợi!
Trở lại nhà tôi ngồi nhìn dòng xe nối đuôi chạy về Nhà Bè.
Chiều 29 tháng 4 tôi lên nhà Lim tìm Phương nhưng không thấy chị em Phương ở nhà. Tôi bước ra khỏi nhà Phương về nhà cùng Điện trở lại kho 18 xem người ta hôi của. Những ngày này lúc nào rời nhà trên vai tôi cũng mang túi hành trang với những cuốn sách. Khi đến kho 18 tôi nhìn xéo về cổng căn cứ chuyển vận, một điều làm tôi rất ngạc nhiên: Những người lính gác cổng đã bỏ trống cửa ngõ! Tôi nhìn chung quanh thấy anh Hát đang đứng nhìn đám người khiên đồ từ kho 18. Anh Hát là Thiếu Úy bộ binh QLVNCH từ Quảng Trị vừa về. Tôi kêu anh Hát và Điện lần mò tới cổng vào sân tàu và không thấy một ai ngăn cản. Ba đứa tôi đi thẳng luôn, và trước mặt là ba chiếc tàu Hải Quân đổ bộ chứa đầy dân và những người lính Lôi Hổ. Cảnh người nhôn nháo trèo lên tàu, la ó ồn ào như bầy ong vỡ tổ. Bên lề đường những chiếc xe Peugeot không người, cửa mở tung, xe Lambretta, Vespa, và Honda 67 đỏ chói nằm la liệt đầy đường. Thì ra đây là những chiếc xe mà mấy ngày nay chạy tấp nập trên Tỉnh Lộ 15. Mọi người vứt bỏ xe cộ bên đường leo lên tàu. Tôi mạnh dạng bước đến và leo lên tàu rồi anh Hát và Điện cũng bước lên theo. Thì ra lúc này những người lính gác cổng đã rút lui lên tàu để cùng đi với gia đình. Trên tàu đông nghẹt lính Lôi Hổ và gia đình, tôi hoàng toàn xa lạ, nhưng lòng thầm vui.
Nhìn lên bờ, xa xa tôi thấy bóng dáng của đứa em gái trên bãi cỏ, tôi liền gọi thật lớn: “Đào.” Đứa em tôi chạy lại. Rồi một lát anh Hai tôi cũng chạy lại bên chiếc tàu há miệng. Cả hai chỉ đứng trên bờ nhìn ba người tôi trên tàu.
Trong túi hành trang tôi không có gì để uống và lúc đó tôi thấy khát nước, tôi liền bảo đứa em gái lấy cho tôi ca nước. Nó chạy đi và thật lẹ sau đó trao cho tôi một canh nylon đầy nước. Tôi muốn dẫn đứa em đi theo, nhưng nghĩ tới những nguy hiểm trước mặt và những tin tức từ đài phát thanh mấy hôm nay, tôi đành làm thinh. Đứa em trao cho tôi canh nước xong trở lại trên bờ với người anh cả.
Trời lúc đó khỏang 8 giờ tối. Tôi, anh Hát và Điện đang đứng cùng đoàn người lô nhố trên tàu. Ba chiếc tàu và cả ngàn người chen lấn trên đó, xì xầm như phiên chợ. Tự nhiên anh Hát nắm tay tôi và nói:
-“Ở nhà chỉ có tao và mầy là hai người biết chuyện và lo cho gia đình, bây giờ nếu cả hai cùng đi thì ai lo cho gia đình đây. Thôi mầy đi đi, tao trở lại.”
Vừa nói xong anh Hát liền nhảy xuống tàu trở lại trên bờ cùng Đào và anh Hai. Tôi không kịp nói lời nào, chỉ biết nhìn hai anh và đứa em. Tôi đang do dự về lời nói của anh Hát thì chiếc tàu đã bị chặt đức giây neo, từ từ de ra dòng sông. Tôi ôm túi hành trang nhìn hai ngươi anh, đứa em, và con tàu cứ lùi dần ra xa. Lúc đó là 8 giờ 20 phút tối 29 tháng 4, 1975. Chỉ trong vòng 25 phút sau khi tôi bước chân lên tàu, con tàu chặt neo! Tôi đưa tay lên vãy chào. Trong giây phút hình ảnh của ba người thân mờ dần trong bọt nước, rồi mất hẳn. Bóng tối trùm xuống, trong cái chớp mắt tôi nghĩ đến Phương, nhưng, xa rồi!
Con tàu quay đầu về hướng biển Đông. Và tôi, bắt đầu cuộc phiêu lưu.
.
.
.
No comments:
Post a Comment