Thursday, April 14, 2011

NHÀ THƠ THÁI THỦY KHÔNG CÒN NỮA ! (Du Tử Lê)

Người Việt
Wednesday, April 13, 2011 8:03:12 PM
FOUNTAIN VALLEY (NV) - Thi sĩ Thái Thủy vừa ra đi một cách êm đềm lúc 5 giờ 47 phút sáng ngày 13 Tháng Tư tại bệnh viện Fountain Valley, California, hưởng thọ 73 tuổi, nguồn tin từ thi sĩ Bùi Vĩnh Hưng, một thân quyến của thi sĩ quá cố cho biết.

Cố thi sĩ Thái Thủy. (Hình: Du Tử Lê cung cấp)

Ðược biết thi sĩ Thái Thủy tên thật là Phạm Thái Thủy, sinh ngày 25 Tháng Mười Hai, 1937 tại Hà Nam, miền Bắc Việt Nam.
Căn cứ theo một bài viết của thi sĩ Du Tử Lê, nhan đề “Nhà thơ Thái Thủy, người đứng sau nhiều cột mốc văn học, nghệ thuật miền Nam,” (*) đăng trên nhật báo Người Việt hồi Tháng Bảy, 2010, thi sĩ Thái Thủy bước vào ngành phát thanh rất sớm, khi ông mới 17 tuổi.
Ðó là năm 1955, tại Hải Phòng, họ Phạm đã là một thành viên nòng cốt của một chương trình phát thanh tại đây. Lúc đó, cố Luật Sư Lê Quang Luật, với tư cách đại biểu chính phủ Bắc Phần, trong 300 ngày cuối cùng, trước khi chương trình di cư đồng bào miền Bắc vào Nam kết thúc theo Hiệp Ðịnh Geneva 1954, đã dùng phương tiện truyền thanh này để kêu gọi, thông báo những chi tiết cần thiết cho số người muốn di cư vào Nam, trước khi thời hạn di cư chấm dứt.
Sau khi di cư vào miền Nam, Phạm Thái Thủy chưa kịp có một chọn lựa nào thì ông được nhà văn Chu Tử giới thiệu với Hồ Hán Sơn, để cùng ông thực hiện chương trình phát thanh cho Trung Tướng Nguyễn Thành Phương (Cao Ðài). Mục đích ủng hộ chính quyền do thủ tướng (trước khi trở thành tổng thống) Ngô Ðình Diệm đứng đầu. Ðó là đài “Tiếng nói của Hội Ðồng Nhân Dân Cách Mạng,” trụ sở đặt tại đường Phùng Khắc Khoan, Sài Gòn.
Khi ông Trần Chánh Thành được cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bổ nhiệm vào chức bộ trưởng Bộ Thông Tin, thì cũng là thời gian đài Pháp Á bị đóng cửa. Văn nghệ sĩ từng cộng tác với đài này được mời về cộng tác với đài Tiếng Nói Quốc Gia (còn được gọi ngắn gọn là đài Sài Gòn), trong số đó có thi sĩ Thái Thủy. Thời gian đó, cũng là thời gian ông được chọn làm phụ tá cho nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, trưởng phòng văn nghệ của đài.
Không lâu sau, họ Phạm lại cùng với bạn là nhà văn Thanh Nam nhận lời thi sĩ Ðinh Hùng bắt tay việc thực hiện chương trình “Thi văn Tao Ðàn - Tiếng nói của thơ văn miền tự do” ngay từ những ngày khởi đầu.
Ðầu thập niên 1960, thi sĩ Thái Thủy lại nhận lời mời của cố thi sĩ Nguyên Sa trong vai trò thư ký tòa soạn tạp chí Hiện Ðại. Tạp chí này ra đời trước sau chỉ có 10 số, nhưng cùng với các tạp chí Sáng Tạo, Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi, nó đã lại một dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương thời bấy giờ.
Trước khi biến cố 30 Tháng Tư, 1975 xảy ra, ông Phạm Thái Thủy giữ chức chánh sự vụ sở chương trình đài phát thanh Sài Gòn.
Sau đó, ông bị tù cải tạo 10 năm. Sau khi được thả, ông lại bị chính quyền Cộng Sản bắt lại năm 1990 vì bị tình nghi có liên quan tới phong trào đấu tranh đòi dân chủ và nhân quyền của Bác Sĩ Nguyễn Ðan Quế.
Năm 1995, do sự can thiệp tích cực của Hội Ân Xá Quốc Tế, ông được trả tự do. Năm 1998, ông cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ.
Với bản chất khiêm tốn, luôn luôn không muốn ai biết tới mình, một thân hữu của cố thi sĩ Thái Thủy cho hay, sinh thời, tác giả “Lá thư gửi mẹ” sáng tác không nhiều, chỉ khoảng trên dưới 100 bài thơ. Nhưng ngay từ những ngày còn ở miền Nam, ông đã chủ trương không in tác phẩm.
Có thể vì vậy, khi đã định cư tại Hoa Kỳ, ông đã từ chối đề nghị in tuyển tập “Thơ Thái Thủy,” một hảo ý của cố thi sĩ Nguyên Sa.
“Lá thư gửi mẹ” sau này được cố nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ nhạc.
Sự ra đi vĩnh viễn của ông không chỉ là một mất mát không thể bù lấp của gia đình mà cũng là của nhiều bằng hữu trong văn giới và truyền thông nữa.

-----------------------------

Du Tử Lê
(04/13/2011 07:59 AM)

dutule.com (ngày 13 tháng 4 năm 2011): Nguồn tin từ nhàthơ Bùi Vĩnh Hưng, một thân quyến của nhà thơ Thái Thủy cho hay, nhà thơ TháiThủy đã ra đi một cách êm đềm vào lúc 5 giờ 47 phút sáng ngày 13 tháng 4 vừa qua, tại bệnh viện Fountain Valley Hospital, khu Oncology ở bệnh viện Fountain Valley Hospital, thành phố Fountain Valley, thuộc quận hạtOrange County, nam California; hưởng thọ 73 tuổi.

Trước đó, trong hai ngày Thứ Hai và Thứ Ba, 11 và 12tháng 4, rất nhiều bằng hữu đã đến thăm để nói lời cuối cùng với ông. Như bà quả phụ nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi, ông bà Lý Đại Nguyên, các ông Vũ Quang Ninh, Nguyễn QuangHà, Trần Phong Vũ, Nguyễn Đình Toàn, Phạm Bá Cát, Du Tử Lê v.v…
Trước khi vĩnh viễn ra đi, nhà thơ Thái Thủy tác giả “Lá thư gửi mẹ” (do cố nhạc sĩ Nguyễn Hiền soạn thành ca khúc,) cũng nhận được nhiều điện thoại thăm hỏi của bằng hữu khắpnơi, luôn cả Việt Nam. Điển hình như nhà văn Văn Quang, ở Saigon, khi hay tin,đã thay mặt một số bằng hữu ở Việt Nam, nói lời chia tay…Tác giả “Lá thư gửi mẹ.

Được biết nhà thơ Thái Thủy tên thật là Phạm Thái Thủy, sinh ngày 25 tháng 12 năm 1937 tại Hà Nam, Bắc Phần.
Căn cứ theo một bài viết củanhà thơ Du Tử Lê, nhan đề “Nhà thơ TháiThủy, người đứng sau nhiều cột mốc văn học, nghệ thuật miền Nam,” (*) đăng tải trên nhật báo Người Việt hồi tháng 7 năm 2010 thì, nhà thơ Thái Thủy bướcvào ngành phát thanh rất sớm, khi ông mới 17 tuổi.
Đó là năm 1955, tại thành phố Hải Phòng, họ Phạm đã là một thành viên nòng cốt của một chương trình phátthanh tại thành phố này. Khi cố luật sư LêQuang Luật, với tư cách Đại biểu Chính phủ Bắc phần, trong 300 ngày cuối cùng,trước khi chương trình di cư đồng bào miền Bắc vào Nam, kết thúc theo hiệp địnhGenève 1954, dùng phương tiện truyền thanh để kêu gọi, thông báo những chi tiếtcần thiết cho số người muốn di cư vào Nam; trước khi thời hạn di cư chấm dứt.
Kế tiếp, sau khi di cư vàomiền Nam, Phạm Thái Thủy chưa kịp có một chọn lựa nào thì ông đã được nhà vănChu Tử giới thiệu với Hồ Hán Sơn; để cùng ông Sơn thực hiện chương trình phátthanh cho Trung tướng Nguyễn Thành Phương (Cao Đài). Mục đích ủng hộ chínhquyền do Thủ tướng (trước khi trở thành Tổng thống) Ngô Đình Diệm cầm đầu. Đólà đài “Tiếng nói của Hội Đồng Nhân dân Cách Mạng”, trụ sở đặt tại đườngPhùng Khắc Khoan, Saigòn.
Khi ông Trần Chánh Thành được TổngThống Diệm bổ nhiệm vào chức vụ Bộ trưởng bộ Thông Tin, thì cũng là thời gianđài Pháp Á bị đóng cửa. Văn nghệ sĩ từng cộng tác với Pháp Á được mời về cộngtác với đài Tiếng Nói Quốc Gia (còn được gọi ngắn, gọn là đài Saigòn), nhà thơThái Thủy đã là một trong những người ấy. Thời gian ấy, cũng là thời gian nhàthơ Thái Thủy được chọn làm phụ tá cho nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Trưởng phòngVăn Nghệ của đài.
Không lâu sau, họ Phạm lại cùng vớibạn là nhà văn Thanh Nam nhận lời thi sĩ Đinh Hùng, bắt tay việc thực hiệnchương trình “Thi văn Tao Đàn - -Tiếngnói của thơ văn miền tự do” ngay tự những ngày khởi đầu.
Đầu thập niên (19)60, nhà thơ TháiThủy lại nhận lời mời của cố thi sĩ Nguyên Sa trong vai trò Thư ký tòa soạn tạpchí Hiện Đại. Tạp chí này ra đời trước sau chỉ có 10 số, nhưng cùng với các tạpchí Sáng Tạo, Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi, nó đã lại một dấu ấn đáng kể trongsinh hoạt văn chương thời bấy giờ.
Trước khi biến cố 30 tháng 4-1975xẩy ra, ông Phạm Thái Thủy từng giữ chức Chánh Sự Vụ Sở Chương Trình đàiphát thanh Saigon.
Có dễ vì thế mà ông bị tù cải tạo 10 năm khi Saigon sụp đổ. Năm 1986, ông được trả tự do. Nhưng chỉ vài năm sau, năm1990 ông lại bị nhà cầm quyền CSVN giam nhốt lần thứ hai vì tội có liên hệ tới phongtrào đấu tranh đòi dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam của bác sĩ Nguyễn Đan Quế.
Năm 1995, do sự can thiệp tích cực của Hội Ân Xá Quốc Tế, ông được trả tự do lần thứ hai. Cuối năm 1997, dầu Năm 1998, ông cùng giađình chọn định cư tại Hoa Kỳ.

Với bản chất khiêm tốn, luôn luônkhông muốn ai biết tới mình, một thân hữu của nhà thơ Thái Thủy cho hay, sinh thời, tác giả “Lá thư gửi mẹ” sáng tác không nhiều, chỉ khoảng trên dưới 100 bài thơ. Nhưng ngay từ những ngày còn ở miền Nam, ông đã chủ trương không in tác phẩm.
Cũng vì bản chất khiêm tốn ấy, nên khi đã định cư tại Hoa Kỳ, ông cũng đã từ chối đề nghị in tuyển tập “Thơ Thái Thủy,” một hảo ý của cố thi sĩ Nguyên Sa.
Sự ra đi vĩnh viễn của ông, không chỉ là một mất mát không thể bù lấp của gia đình, ruột thịt tác giả “Lá thư gửi mẹ” mà, nó cũng là một mất mát khôn bù đắp của nhiều bằng hữu trong văn giới và truyền thông nữa.

(*) Có thể tìm đọc nguyên bài nơi trang mạng www.dutule.com, cột mục “Bằng hữu nhìn từDTL.”

---------------------------------

Du Tử Lê
(04/13/2011 08:13 AM)

Trong chiều dài sinh hoạt 20năm văn học, nghệ thuật miền Nam, nhiều nhân vật từng có mặt, tham dự vào nhữngcột mốc đáng kể của dòng sông nước xiết này. Nhưng vì bản tính hay do nhữnghoàn cảnh đặc biệt nào đó, họ không hề xuất hiện nơi “tiền trường”. Tôi muốngọi những người này, là những nhân vật “behind the scene”.
Một trong những nhân vật“behind the scene” đó, là nhà thơ Thái Thủy.
Thái Thủy và gia đình hiệncư ngụ tại miền nam California,từ năm 1997, sau nhiều năm tháng tù đầy bởi biến cố 30 tháng 4-1975.
Cùng với ông Vũ Quang Ninh,Tổng giám đốc hệ thống Little Saigòn Radio, ở Hoa Kỳ hiện nay, nhà thơ TháiThủy bước vào ngành phát thanh rất sớm, khi ông mới 17 tuổi.
Đó là năm 1955, tại thànhphố Hải Phòng, khi cố luật sư Lê Quang Luật, với tư cách Đại biểu Chính phủ Bắcphần, trong 300 ngày cuối cùng, trước khi chương trình di cư đồng bào miền Bắcvào Nam, kết thúc theo hiệp định Genève 1954, dùng phương tiện truyền thanh đểkêu gọi, thông báo những chi tiết cần thiết cho số người muốn đi cư vào Nam;trước khi thời hạn di cư chấm dứt, theo quy định của hiệp định.
Những người có chiều dàithân thiết với nhà thơ Thái Thủy trên nửa thế kỷ cho biết, dường như họ Phạmsinh ra để làm công tác truyền thanh, như định mệnh thứ nhất của đời ông.
Bởi vì, khi di cư vàoSaigòn, ngay khi chưa có một chọn lựa nào, ông đã được nhà văn Chu Tử giớithiệu với Hồ Hán Sơn; để cùng ông Sơn thực hiện chương trình phát thanh choTrung tướng Nguyễn Thành Phương, Cao Đài, mục đích ủng hộ chính quyền do Thủtướng (trước khi trở thành Tổng thống) Ngô Đình Diệm đứng đầu.
Đó là đài “Tiếng nói của Hội Đồng Nhân dân Cách Mạng”,trụ sở đặt tại đường Phùng Khắc Khoan, Saigòn.
Khi ông Trần Chánh Thànhđược Tổng thống Diệm bổ nhiệm vào chức vụ Bộ trưởng bộ Thông Tin, thì cũng làthời gian đài Pháp Á bị đóng cửa. Văn nghệ sĩ từng cộng tác với Pháp Á được mờivề cộng tác với đài Tiếng Nói Quốc Gia (còn được gọi ngắn, gọn là đài Saigòn.)
Cùng thời gian, nhà thơ TháiThủy là phụ tá của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Trưởng phòng Văn Nghệ của đài.
Cũng ở thời điểm này, haingười bạn của Thái Thủy là Vũ Quang Ninh, Thanh Nam (nhà văn) và luôn cả TháiThủy còn là ba chàng độc thân, đã chung tiền mua một căn nhà ở đường Phan VănTrị, khu Nancy, gần nhà cố Họa sĩ Tạ Tỵ.
Chính tại căn nhà ở khuNancy ấy, Thái thủy đã gặp gỡ và, mau chóng có một tình thân đặc biệt với cốthi sĩ Đinh Hùng - - Trước khi ông cùng Thanh Nam nhận lời Đinh Hùng bắt tayvào việc thực hiện chương trình thi văn Tao Đàn, với lời mở đầu quen thuộc quagiọng đọc của thi sĩ Đinh Hùng:
Đây Tao Đàn, Tiếng nói của thơ văn miền Tự Do”.
Cũng tại ngôi nhà của bachàng trẻ tuổi…Bắc kỳ di cư kia, Thái Thủy đã gặp nhà thơ Nguyên Sa, trước khiông trở thành người giữ một vai trò quan trọng của Tạp chí Hiện Đại, phát hànhsố đầu tiên, tháng 4 năm 1960.
Là người được định mệnhchọn, để gắn bó một đời với nghiệp phát thanh, nhà thơ Thái Thủy trải qua gầnnhư tất cả các đời Giám đốc rồi Tổng giám đốc (sau khi được nâng cấp) của Hệthống Vô Tuyến Truyền Thanh Việt Nam kể từ 1955 tới tháng 4 năm 1975.
Một trong vài người có cơhội làm việc với ông Đoàn Văn Cầu, Giám đốc đầu tiên của đài Vô Tuyến TruyềnThanh Việt Nam, cho biết, họ Đoàn là một người không chỉ có công đặt nền tảngcho nền phát thanh Việt Nam thời còn non trẻ mà, ông còn là người rất trọng đãinhững văn nghệ sĩ cộng tác với đài, không phân biệt nam, bắc; cũng không phânbiệt cổ hay tân nhạc.
Nhân vật này kể, mỗi chươngtrình và mỗi nghệ sĩ tham dự vào chương trình trong vai trò biên tập hay, trìnhdiễn, đều được trả đồng đều 200$/ 1 người, cho mỗi chương trình.
Với giá sinh hoạt năm 1955thì, cát sê 200$ cho một nghệ sĩ trong mỗi chương trình là con số rất lớn.
Cũng chính nhờ họ Đoàn, khithấy đài Saigòn đã có chương trình Cổ Nhạc Nam Phần và Cổ Nhạc Bắc Phần mà chưacó chương trình Thi Văn, nên ông đã liên lạc với thi sĩ Đinh Hùng, đề nghị vớitác giả “Mê hồn ca” thực hiện mộtchương trình thơ văn của đài.
Sinh thời, khi được hỏi vềchương trình Tao Đàn, cố thi sĩ Đinh Hùng nói, ông nhận lời đề nghị của ôngĐoàn Văn Cầu. Ngặt nỗi ông chỉ có khả năng viết bài, đọc qua làn sóngđiện…Nhưng ông lại không có chút kinh nghiệm nào về phương diện kỹ thuật!
Để giải quyết cái “khâu” sinhtử này, Đinh Hùng tìm tới căn nhà ở đường Phan Văn Trị của ba chàng độc thân,như đã nói ở trên. (1)
Kết quả, Thanh Nam,Thái Thủy (về sau, còn có thêm Tô Kiều Ngân) nhận lời hợp tác với thi sĩ ĐinhHùng, dựng bảng Chuơng trình thi Văn Tao Đàn, “Tiếng nói của thơ văn miền tựdo”.
Người gánh vác phần kỹ thuậtchính, là nhà thơ Thái Thủy.
Để chương được phong phú, đadạng, bốn nhân vật khai sinh chương trình thi văn Tao Đàn chia nhau đi mời mộtsố nam, nữ nghệ sĩ đảm trách phần diễn ngâm. Giai đoạn khởi sự, người ta nhớ cócác nghệ sĩ như Giáng Hương(1,) Hồ Điệp, Quách Đàm, Hoàng Thư v.v…

Về nội dung chương trình TaoĐàn được phân chia như sau:
Phần cổ thi, Đinh Hùng phụtrách. Phần thơ văn hiện đại thì Thanh Nam, Thái Thủy và Tô Kiều Ngân đảmnhận.
Khởi đầu, chương trình thivăn Tao Đàn phát thanh 6 buổi một tuần. Thời lượng: 40 phút. Từ 9 giờ 20 tới 10giờ tối.
Một thành viên có mặt từ đầutrong chương trình Tao Đàn cho biết, ở giai đoạn đó, sinh hoạt văn học nghệthuật của miền Namchưa phát triển mạnh mẽ. Thị trườngsách, báo còn khan hiếm. Nhất là lãnh vực thơ mới. Để có đủ bài vở cho 6 chươngtrình mỗi tuần, ban biên tập của chương trình Tao Đàn phải tìm kiếm thơ cũtrong các sách, báo cũ, cũng như tìm đọc thơ văn trong các báo đương thời, hầucó thể tìm kiếm những bài thơ hay, đáp ứng được nhu cầu của chương trình…
Chương trình thi văn Tao đànăn khách tới mức độ, chỉ một thời gian sau, một số soạn giả tuồng Cải lương,như Hoàng Khâm hay, Kiên Giang – Hà Huy Hà…đã đem thể điệu ngâm thơ của miềnBắc vào trong các vở tuồng của họ. Họ gọi cách diễn đạt đó là “ngâm thơ kiểu Tao Đàn”.
Ngoài ra, một sự kiện theochúng tôi, cũng nên được ghi lại. Đó là khoảng đầu thập niên 1960, hai ôngThanh Namvà Thái Thủy lập thêm một gọi là chương trình “Thi - Nhạc Giao Duyên.”
Như tên gọi, đây là chươngtrình ngâm thơ xen kẽ với tân nhạc.
Để thực hiện được sự hòađiệu này, Thanh Namvà Thái Thủy đã phải thay phiên nhau làm những bài thơ có nội dung gần với nộidung của các bản nhạc được chọn, trước khi cho hai loại hình thái nghệ thuậtnày…giao duyên nhau.
Cho đến nay, không ai trảlời được câu hỏi, phải chăng, khởi từ sáng kiến “thi-nhạc giao duyên” mà sau này, miền Nam có thêm một hình thái nghệthuật khác nữa; được biết dưới tên “Tân -Cổ giao duyên”?
Mặc dù chương trình đượcquần chúng ủng hộ mạnh mẽ, nhưng với số lượng văn nghệ sĩ cộng tác từ biên tậptới diễn ngâm khá đông đảo, cộng thêm giờ phát thanh khá nhiều, đài Saìgon mỗitháng đã phải chi trả một số tiền không nhỏ cho chương trình Tao Đàn này.
Vì sự tốn kém quá lớn vừa kểnên vào cuối năm 1957, số lượng buổi phát thanh của chương trình Thi Văn TaoĐàn đã bị rút xuống còn 3 buổi, thay vì 6 buổi mỗi tuần, như những tháng nămđầu.
Cũng thời gian này, ông Giámđốc Đoàn Văn Cầu bị một số người ganh ghét tố cáo với Tổng thống Diệm tội“nhũng lạm công quỹ”!
Ông Đoàn Văn Cầu bị Tổngthống Diệm kêu trình diện.
Họ Đoàn thẳng thắn khairằng, ông có chi ra một số tiền lớn cho nhân viên cũng như cộng tác viên của đàiSaigòn. Nhưng ông xác định, ông không hề tư túi, dù chỉ một đồng của công quỹ.
Họ Đoàn quả quyết: “Xin Tổngthống cho người điều tra… Nếu tôi có lấy một đồng công quỹ để tiêu dụng cho cánhân hay gia đình tôi, thì Tổng thống cứ việc bỏ tù tôi…”
Kết quả, Thống thống Diệmthấy lời khai của ông Đoàn Văn Cầu là đúng. Nên ông chỉ cách chức họ Đoàn màthôi.
Trở lại với chương trình thivăn Tao Đàn, năm 1967, khi thi sĩ Đinh Hùng từ trần, bà Đinh Hùng tới đàiSaigòn, gặp nhà thơ Thái Thủy, Trưởng ban Chương trình, xin cho bà thay chồng,tiếp tục điều hành hành chương trình Tao Đàn.
Dù rất cố gắng, bà Đinh Hùngcũng không duy trì được bao lâu, chương trình Thi văn Tao Đàn do chồng bà sánglập.
Vì lý do ngân sách, cát sêtrả cho các chương trình của đài Saigòn ngày một thêm eo hẹp!

Nhiều năm trước đây, trungtâm Thúy Nga Paris thực hiện video nhạc chủ đề “Mẹ”, đã chọn ca khúc “Lá thư gửi mẹ” (thơ Thái Thủy, nhạcNguyễn Hiền) là một trong mấy chục ca khúc nói về người mẹ Việt Nam.
Nhân dịp này, trả lời câuhỏi về nguyên ủy của bài thơ và ca khúc đó, nhà thơ Thái Thủy cho biết, bài thơ“Lá thư gửi mẹ của ông được thi sĩĐinh Hùng chọn đăng trong Giai phẩm Xuân Tự Do, xuất bản tại Saigòn, năm1955.(2)
Khi nhạc sĩ Nguyễn Hiền tìnhcờ đọc được bài thơ ấy, họ Nguyễn đã chắp thêm cho nó, đôi cánh âm nhạc.
Trọn vẹn ca khúc đó, nhưsau:

Mẹ ơi! thôi đừng khóc nữa
Cho lòng già nặng sầu thương
Con đi say tình viễn xứ
Đâu có quên tình cố hương

Thương ngóng về quê cũ
Gót thù xéo thảm thê
Bầy trai thầm rơi lệ
Súng gươm hẹn mai về

Con về tằm đẹp lứa
Mẹ cười vun khóm dâu
Mái tranh nghèo vươn khói
Vườn thơm ngát hương cau

Mẹ ơi! thôi đừng khóc nữa
Cho lòng già nặng sầu thương
Con đi say tình viễn xứ
Đâu có quên tình cố hương
(3)

Tới hôm nay, dù đã hơn nửa thế kỷ, nhưng mỗi khi ca khúc này được cất lên, nó vẫn còn gây xúc động người nghe không ít.
Một người bạn từ thời Hà Nội của nhà thơ Phạm Thái Thủy tiết lộ rằng, tác giả “Lá thư gửi mẹ” làm thơ rất sớm. Từ những ngày niên thiếu tại Hà Nội, ông đã có thơ được đăng tải trên một số báo xuất bản thời đó. Điển hình như tờ Giang Sơn, một tờ báo mà những aitừng sống ở Hà Nội đầu thập niên 1950, không thể không biết.
Vẫn theo lời kể thì, tínhđến 30 tháng 4 năm 1975, Phạm Thái Thủy đã sáng tác khoảng vài trăm bài thơ.
Giai đoạn họ Phạm làm đượcnhiều thơ nhất là thời gian đầu khi mới di cư vào miền Nam và, thời gian ôngđảm nhiệm vai trò Thư ký tòa soạn cho Tạp chí Hiện Đại của thi sĩ Nguyên Sa.
Nhưng bản chất Thái Thủy làngười khiêm tốn, không thích khoa trương tên tuổi cho nên, ngay từ Việt Nam,khi một vài bằng hữu đề nghị Thái Thủy gom thơ của mình lại, để có thể in thànhmột tập…Ông đã từ chối…
Người bạn này nói thêm: “Thậm chí khi được định cư tại Hoa Kỳ, cố thi sĩ NguyênSa cũng bảo Thái thủy đưa thơ của mình, để nhà xuất bản Đời ấn hành…Ông cũng đành tạ tình thương mến của bạn…”
Thái Thủy không chỉ khôngnhớ thơ của mình mà ngay cả số thơ ông lưu giữ được, cũng chỉ độ mươi, mười lămbài mà thôi.
Về vai trò Thư ký tòa soạnTạp chí Hiện Đại của Thái Thủy, sinh thời, thi sĩ Nguyên Sa cho biết, đầu thậpniên 1960, ông được bác sĩ Trần Kim Tuyến đề nghị thực hiện một tạp chí thuầntúy văn học cho miền nam, song song với những tạp chí đang có mặt như Sáng Tạo,Thế Kỷ 20, Văn Nghệ…
Sự kiện chính phủ muốn cóthêm một tạp chí nữa ra đời, cũng không ngoài mục đích khuyến khích, xiển dươngnền văn học nhân bản và, khai phóng của miền nam Việt Nam.
Tác giả “Áo lụa Hà Đông” kểvì ông quá bận bịu với công việc dạy học, nên ông đã mời nhà thơ Thái Thủy phụtrách phần tòa soạn, bài vở. Nhà báo Trịnh Viết Thành phụ trách phần ấn loát vàphát hành.
Khi đó, nhà báo Trịnh ViếtThành cũng là chủ nhà in Nam Sơn ở gần ngã tư đường Trương Công Định và NguyễnAn Ninh, Saigòn.
Tạp chí Hiện Đại không chỉin tại nhà in Nam Sơn mà tòa sọan cũng được đặt trên lầu của nhà in này, để tiện việc điều hành và in ấn.
Vẫn theo cố thi sĩ NguyênSa, tuy được tài trợ bởi chính phủ, nhưng cá nhân ông không biết một chút gì vềsố tiền chi tiêu hàng tháng của Hiện Đại.
Hàng tháng một nhân viên củaPhòng Nghiên Cứu Chính Trị của bác sĩ Trần Kim Tuyến đến tòa soạn Hiện Đại,giao thẳng tiền cho nhà báo Trịnh Viết Thành. Nhà thơ Thái thủy cũng không biếtsố tiền trợ cấp hàng tháng là bao nhiêu.
Ông chỉ nhận đủ số tiền chidùng cho việc trả tiền nhuận bút cho các cộng tác viên.
Tạp chí Hiện Đại chủ trươngtrả nhuận bút đồng đều cho thơ cũng như văn là 1000$ một bài.
Trong một cuộc nói chuyện về“thời” của tạp chí Hiện Đại, nhà thơ Thái Thủy kể, Hiện Đại số 1, ra đời vàotháng 4 năm 1960, ngoài ba nhân vật chịu trách trực tiếp là Nguyên Sa, TrịnhViết Thành và Thái Thủy, Hiện Đại còn nhận được sự cộng tác tích cực ngay tựnhững ngày khởi đầu của các tác giả như Nguyễn Duy Diễn, Nguyễn Văn Trung, ĐinhHùng, Thanh Nam…
Khi tờ báo ra được 7, 8 sốthì cuộc đảo chánh của đại tá Nguyễn Chánh Thi ngày 11 tháng 11 năm 1960, xẩyra…
Hậu quả của cuộc đảo chánhnày, tuy bất thành, nhưng cũng để lại khá nhiều xáo trộn trong sinh hoạt chínhtrị, xã hội, cũng như văn hóa của miền Nam thời ấy.
Chính vì thế, sau khi ra số10 vào khoảng tháng 2 năm 1961, tờ Hiện Đại đình bản.
Trước thời gian tạp chí HiệnĐại ra đời, là thời gian thi phẩm “ThơNguyên SaTập một của thi sĩNguyên Sa được xuất bản. Ngay lập tức, thi phẩm đã được chào đón nồng nhiệt,như một hiện tượng hiếm thấy, nhất là trong giới thanh niên, sinh viên, họcsinh ở miền Nam.(4)
Trong thi phẩm này, có nhiềubài thơ giá trị, viết cho tình bạn. Một trong những bài đó là bài “Bây giờ”. Nguyên Sa đề “TặngThái Thủy.”

Nguyên văn bài thơ như sau:

Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt
Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòe ra chẳng có một âm thừa.
Cửa địa ngục ở hai bên lồng ngực
Phải vác theo trăm tuổi đường dài
Nên có gửi cho ai vài giọng nói
Cũng nghe buồn da diết chạy trên môi.
Hai mắt rỗng phải che bằng khói thuốc
Chúng tôi nằm run sợ cả chiêm bao
Mỗi buổi sáng mặt trời làm sấm sét
Nên nhìn đêm mở cửa chẳng đi vào.
Năm ngón tay có bốn mùa trái đất
Chúng tôi cầm rơi mất một mùa xuân
Có cất tiếng đòi to. Tiếng đòi rơi rụng
Những âm thanh làm thành sẹo trong hồn.
Chúng tôi chót ngẩng đầu nhìn trước mặt
Trán mênh mông va chạm cửa chân trời
Ngoảnh mặt lại đột nhiên thơ mầu nhiệm
Tiếng hát buồn đè xuống nặng đôi vai. (5)

Qua những gặp gỡ đây đó, hơnmột lần tôi định hỏi Thái Thủy: Giữa thi ca, phát thanh, làm báo… đâu là conngười gần nhất với bản chất của ông? (Hay)
- Đâu là con người thật củamột Phạm Thái Thủy, sau nhiều thăng, trầm eo xèo nhân thế?
Cuối cùng, tôi thấy khôngcần thiết.
Bởi vì, cách gì thì, địnhmệnh cũng đã chọn ông, một đời, làm người đứng sau mọi cột mốc, sinh hoạt vănhọc, nghệ thuật miền Nam, 20 năm, đã qua.

Du Tử Lê
(Tháng 7-2010.)

Chú thích:
(1): Nghệ sĩ Giáng Hương hiện cư ngụ tại miền nam Cali. Bà là người bạn đời đầu tiên của namdanh ca Anh Ngọc.
(2): Là một thành viên nòngcốt của nhật báo Tự Do, thời gian đó, thi sĩ Đinh Hùng không chỉ tuyển chọn thơcho tờ báo mà, ông còn viết tiểu thuyết dã sử với bút hiệu Hoài Điệp Thứ Langvà, phụ trách mục “Đàn ngang cung”với bút hiệu Thần Đăng nữa.
(3): Theo dactrung.com
(4): Ấn bản đầu tiên,Saigòn, năm 1958.
(5) “Thơ Nguyên Sa Toàn Tập”, trang 53&54. Đời xuất bản. California, 2000.
.
.
.

No comments: