Tuesday, April 26, 2011

"CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP" : MỘT CUỐN SÁCH KHÔNG TRUNG THỰC (Hà Thanh Thủy)


26.04.2011

Chiều ngày 21-4-2011 vừa qua có buổi ra mắt cuốn sách Chân trần, chí thép của James G. Zumwait, cựu quân nhân Mỹ, hiện nay là một doanh nhân, giám đốc của tập đoàn Admiral Zumwalt & Consultants, Inc. Cuốn này được Thứ trưởng Bộ Quốc phòng - thượng tướng Phan Trung Kiên viết lời giới thiệu. Lẽ tất nhiên buổi ra mắt sách này là một trong những màn ngoạn mục được gia công dàn dựng để chào đón ngày 30-4 sắp tới.

Photo: Trung (báo Tuổi Trẻ)

Nguyên tác của cuốn Chân trần, chí thépBare Feet, Iron Will ~ Stories from the Other Side of Vietnam's Battlefields, được xuất bản năm 2010. Cuốn sách này bị đánh giá thấp ở Mỹ vì chứa đựng quá nhiều câu chuyện bất khả tín. Ngoại trừ một bài điểm sách trên tờ Washington Times, hầu như không một tờ báo lớn nào có bài điểm sách về cuốn này.

Trong bài điểm sách trên tờ Washington Times, nhà phê bình Robert F. Dunn đã phân tích cho độc giả thấy sự bất khả tín của cuốn Bare Feet, Iron Will:
Tác giả thỉnh thoảng lại rơi vào cái bẫy của sự chấp nhận dễ dàng những chuyện kể từ phía Việt Nam là đúng sự thực 100 phần trăm. Ông cũng thường tỏ vẻ cảnh giác về những chuyện đó, nhưng cuốn sách lại quá thường xuyên đọc giống như ở từng diễn biến thì phía Bắc Việt đều là bất khuất và phía quân đội Mỹ thì đều là những kẻ bá láp (the author occasionally falls into the trap of accepting at face value 100 percent of Vietnamese claims. He does frequently caveat those claims, but too often the book reads as if at every turn the North Vietnamese were invincible and the Americans bumblers).

Nhà phê bình Robert F. Dunn khuyên độc giả nên tiếp nhận một cách hoài nghi những câu chuyện do Đại tá Zumwalt kể lại (the reader is advised to absorb skeptically the stories passed on by Col. Zumwalt). Vì sao phải nghi ngờ? Vì Zumwalt kể lại khá nhiều chuyện láo.

Ví dụ, ông tường thuật vụ một bắn máy bay không vận trên cầu Thanh Hoá, trong vụ đó có 41 máy bay không vận của Mỹ bị bắn rơi. Điều này hoàn toàn phi lý. Nếu Hải quân Mỹ mất 41 chiếc máy bay trong một ngày, thì đã có những tít báo chạy trên trang nhất khắp thế giới và Hải quân Mỹ chắc hẳn đã phải rút quân khỏi Vịnh Bắc bộ. Thực tế là Hải quân Mỹ đã không rút lui, và 41 chiếc máy bay đã không rơi trong một cuộc tấn công.
(For example, he reports an aircraft carrier strike on the Thanh Hoa Bridge, during which 41 American carrier aircraft were shot down. This is preposterous. Had the U.S. Navy lost 41 aircraft in one day, there would have been banner headlines around the world and the Navy might well have withdrawn from the Tonkin Gulf. It did not withdraw, and 41 aircraft were not downed on one strike.)

Nhà phê bình Robert F. Dunn nhận xét là cuốn sách có thể khá hơn nhiều nếu như nó có một được chút sự kiểm chứng dữ kiện (the book would have been much better had there been a modicum of fact-checking).
Thay vì vậy, tác giả, chỉ với một ít cảnh giác lác đác, hình như chấp nhận tất cả những gì do phía Bắc Việt kể cho ông nghe thì đều như lời kinh thánh, kể cả chuyện bắt giữ “Thiếu tá không quân Robert H. Shumaker sau khi ông nhảy dù ra khỏi oanh tạc cơ F-105.” Câu chuyện trở thành bất khả tín khi người ta biết được rằng Shumaker là một Thiếu tá Hải quân lái chiếc máy bay tiêm kích F-8 Crusader của Hải quân.
(Instead, the author, with only a small caveat here and there, seems to accept everything told to him by the North Vietnamese as gospel, including the capture of “Major Robert H. Shumaker after ejecting from his F-105.” The story loses punch when one happens to know that Shumaker was a Navy lieutenant commander flying a Navy F-8 Crusader.)

Nhà phê bình Robert F. Dunn nhận xét thêm:
Một vấn đề nữa là suốt cả cuốn sách thường khẳng định hay ngụ ý rằng phía Việt Nam không có ác cảm gì chút nào đối với người lính Mỹ, đối xử tốt với anh ta, với lý do là anh ta chỉ chiến đấu cho đất nước của anh ta cũng như bộ đội Việt Nam chiến đấu cho đất nước của họ mà thôi. Hãy nói điều này với một quân nhân Mỹ đã từng ở nhà giam Hỏa Lò thì biết.
(Another problem is that it is often stated or implied throughout that the Vietnamese bore no grudge toward the American fighting man, treating him well, reasoning that he was merely fighting for his country as the Vietnamese were for theirs. Tell that to a Hanoi Hilton graduate.)

Một cuốn sách thiếu trung thực như thế mà lại được Đảng và Nhà nước Việt Nam hồ hởi lăngxê, với Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đứng ra viết lời giới thiệu, tổ chức ra mắt để chào đón ngày 30-4, thì đủ biết cái “giá trị” của nó nằm ở chỗ nào. Còn câu hỏi vì sao Zumwalt lại viết một cuốn sách như thế thì cần một bài phân tích khác.

.
.
.


No comments: