14/04/2017
Hãy so sánh những khác biệt giữa các danh từ “ngoại
kiều,”“người di dân,” và “người tị nạn”. Chữ “ngoại kiều” gợi lên tinh thần quốc
tế và khả năng được sử dụng tài nguyên để tự di chuyển; chữ “người di dân” bày
tỏ phần nào nhu cầu hoặc sự thiếu thốn; chữ “người tị nạn, ”do định nghĩa của
nó, phản ảnh sự liều mạng: y bị bứt lìa ra khỏi quê quán, bị lâm vào tình trạng
vô tổ quốc/không quốc tịch, chỉ có rất ít hoặc chẳng có một tài nguyên nào. Người
ngoại kiều vẫn sở hữu chủ thể khi y sở hữu quyền công dân cùng các ưu quyền căn
bản của mình; người tị nạn đánh mất chủ thể của y trong tình trạng vô danh giữa
những người khác như y. Cũng giống như cách “những người bị nô lệ” (the
enslaved persons) bị cắt cụt thành “những người nô lệ” (the slaves) do tình cảnh
của họ, trong tự loại “người tị nạn” có sự đánh mất chủ thể. Do đó, khi
nói về một người bị hoàn cảnh ép buộc phải tìm chỗ nương thân, có lẽ sẽ nhân đạo,
và ít biểu cảm hơn, nếu chúng ta dùng cụm từ bao quát “người bị chuyển đổi nơi ở”
(người di cư).
Dường như Nguyễn Thanh Việt (NTV), một trong những
nhà biên niên sắc sảo về những cuộc di cư, đã chọn danh từ “người tị nạn” chính
vì tính chất hung bạo nghiệt ngã của nó. Chào đời năm 1971, và tự mô tả mình là
một người tị nạn, ông kết hôn với một người tị nạn, cũng là một đồng nghiệp
văn, có tên Lan Dương. Nơi lời cảm tạ trong cuốn The Refugees (Người
tị nạn), Nxb Grove, tập truyện ngắn mới, hấp dẫn và thương tâm, NTV nói về cậu
con trai Ellison của ông: “Tới lúc cuốn sách này xuất bản, nó gần bằng tuổi tôi
khi tôi trở thành người tị nạn.”
Tác giả Nguyễn Thanh Việt
Hẳn chẳng ngạc nhiên việc người tị nạn bị ảm ảnh về
bản sắc, cả tính cách cá nhân lẫn sắc tộc. Thông thường y bày tỏ sự nhạy cảm
cao độ đối với sự thông giải của người khác về y và về nền văn hoá “thiểu số” của
y. Như thế, qui chế ngoại vi của y ban cho y các lợi thế nhất định vì y đang ở
vị trí trông thấy những cái người khác không trông thấy. Như NTV kể lại nơi lời
bạt trong cuốn tiểu thuyết ra mắt đầu tiên của ông, The Sympathizer (Cảm
tình viên): “Xem phim Apocalypse Now, (Ngày tận thế),
tôi thấy các thủy thủ Mỹ tàn sát chiếc thuyền tam bản chở đầy thường dân, và
tài tử Martin Sheen lạnh lùng bắn một phụ nữ đang bị thương. Xem phim Platoon (Trung
đội), tôi nghe khán giả hò reo vỗ tay khi thấy người Mỹ giết bộ đội người
Việt. Những cảnh tượng ấy để lại trong tôi sự thịnh nộ run người.
Khai thác tính ly kỳ ở trình độ điêu luyện chẳng kém
loại truyện gián điệp gay cấn nào, The Sympathizer đoạt giải
Pulitzer, và được đánh giá là một trong các tiểu thuyết tuyệt tác về Chiến
tranh Việt Nam. Trong tác phẩm đó, người kể chuyện nói bằng giọng hậu hiện đại
táo bạo, vọng lại không chỉ Vladimir Nabokov và Ralph Ellison mà còn Dostoyeski
trong cuốn Notes from the Underground (Ghi từ lòng đất):
“Tôi là điệp viên, kẻ nằm vùng, một ma quỷ, người
hai mặt. Có lẽ chẳng chút ngạc nhiên, tôi cũng là người có hai tâm trí. Tôi
không là sinh vật đột biến nào đó bị hiểu sai lạc từ một cuốn sách hoạt hình hoặc
từ một cuốn phim kinh dị, dù vài nhân vật đó ứng xử giống như tôi. Đơn giản,
tôi có thể trông thấy bất cứ vấn đề nào từ cả hai phía. Đôi khi tôi tự nịnh bợ
mình rằng đó là một tài nghệ, và đó cũng là tài nghệ duy nhất tôi sở hữu.”
Quả thật người nói ra lời ấy là một điệp viên; tại
Việt Nam Cộng hòa, hắn là một gián điệp Cộng sản trong bộ tư lệnh của một viên
tướng Nam Việt Nam trước khi di tản khỏi Sài Gòn sang sống ở Hoa Kỳ thời sau
chiến tranh Việt Nam.
Lời tự thú của hắn đầy mỉa mai, và câu chuyện của hắn
có tính bi hài kịch. Không như những người tị nạn trong The Refugees,
hắn tự xem lại mình với những khoảng cách tự ghê tởm bản thân, vì trong khi
tuân lệnh trên, hắn đã dự phần vào những cuộc ám sát. Bị ám ảnh bởi các câu hỏi
“phổ quát và phi thời gian”, hắn là hình ảnh thu nhỏ của con người thế kỷ hai
mươi: người cách mạng làm gì khi cuộc cách mạng thắng lợi: tại sao kẻ kêu gọi độc
lập và tự do lại lấy đi độc lập và tự do của người khác? Và có tỉnh táo hoặc mất
trí không khi chẳng tin vào cái gì cả, như có quá nhiều người chung quanh chúng
ta rõ ràng là đang làm.
Hình bìa tác phẩm “The Refugees”
Các câu truyện trong The Refugees cũng
thế, chúng làm rõ nét những nhân vật chính, bị treo lơ lửng giữa một quá khứ
tàn phá (Việt Nam) và một xứ sở giàu có bảo dưỡng họ (Hoa Kỳ). Cuốn truyện ngắn
này lấy một khổ thơ trong bài “A German Requiem” (Kinh cầu hồn
Đức) của James Fenton làm trích dẫn:
Không phải những hồi ức của ngươi ám ngươi.
Không phải những gì ngươi từng ghi.
Không phải những gì ngươi quên, những gì ngươi phải quên.
Những gì ngươi suốt đời phải tiếp tục quên.
Không phải những gì ngươi từng ghi.
Không phải những gì ngươi quên, những gì ngươi phải quên.
Những gì ngươi suốt đời phải tiếp tục quên.
Sống sót, đối với người tị nạn, là bị xô đẩy thô bạo
giữa sự dằn vặt tràn đầy phiền muộn khi nhớ lại những mất mát nơi quê nhà và sự
dằn vặt mang tính tự bảo vệ để “quên đi”, một nỗ lực sẽ rất lớn lao và kéo dài
trọn đời.
Đối với sự ám-ảnh-kẻ-chết thì cuộc hiện sinh bình
thường bị các hồn ma cư trú. Nó không là những ý tưởng về các hồn ma hoặc những
ẩn dụ thi ca. Nó là những hồn ma để lại đằng sau chiếc chiếu ẩm ướt và quần áo
mặn chát lúc bị đắm đuối khi vượt trốn khỏi quê hương tả tơi hai chục năm trước.
Chúng là những hồn ma thân thuộc, thí dụ, cậu bé mười lăm tuổi đã trang trải
sinh mạng mình để cứu mạng người chị bị hải tặc đe dọa bắt cóc và hãm hiếp.
Chúng ta đọc thấy trong truyện ngắn mở đầu “Black-Eyes Women” (Những
người đàn bà mắt huyền) đầy xúc động và gần như không chịu đựng nổi: “Các
ngư phủ gân guốc và nâu sậm ấy tập trung chúng tôi, những người cha và người
anh em lại; chúng chỉ việc huơ mã tấu và súng máy.”
Bản thân người kể câu truyện ấy là một “nhà văn nữ
viết thuê” (ghost writer), xúc tiến các dự án không bao giờ gắn tên mình vào.
Như bà mẹ tị nạn của cô đã cảnh cáo: “Tại quê nhà chúng ta… từng có phóng
viên nói rằng chính quyền tra tấn nhân dân trong nhà giam. Thế nên chính quyền
đối xử với anh ta đúng chính xác cái họ đã làm với những người khác… Đó là cái
xảy ra cho nhà văn khi họ ghi tên mình nơi bài họ viết.” Ngay cả tại
Hoa Kỳ, cũng có nỗi sợ hãi trong cộng đồng tị nạn, sợ các thanh niên đang sống
giữa họ “những kẻ lúc lớn lên trong thời chiến đã học biết về bạo động.” Ngoái
lại nhỉn, nhà văn viết thuê ấy có thể thấy rằng Việt Nam, nơi cô đã trải qua thời
thơ ấu, là một “xứ sở bị ám”, mà cả thời trưởng thành tại Hoa Kỳ của cô cũng bị
ám với “những câu chuyện thống khổ.”
Trong “War Years” (Những năm chiến
tranh) lấy bối cảnh một cộng đồng người Việt tị nạn thành thị tại Hoa Kỳ năm
1983, nơi phúc lợi của một gia đình không bị đe dọa bởi người Mỹ da trắng mà bởi
các đồng bào tị nạn quyết liệt chống Cộng; họ đòi hỏi người Việt buôn bán “hiến
tặng” tiền bạc cho một nguyên cớ rõ ràng là đã mất: cuộc nổi dậy tại Việt Nam.
Tuy vậy, nó mang tính điển hình của NTV một cách tinh tế, rằng hành động giả định
là tống tiền đó lấy danh nghĩa việc làm ăn mạo hiểm chân chất, nếu không là
khinh suất, liên quan tới việc may quân phục cho binh sĩ Nam Việt Nam. Người
may là bà Hoa, bị thống khổ tới loạn trí vì mất người chồng và hai con trai
trong cuộc chiến đã kết thúc một thập niên trước.
“Kích cỡ Mỹ quá lớn so với người Việt, với các tỷ lệ
không ổn. Thêm nữa, những ngườì Việt ấy còn muốn được khâu họ tên cùng với cấp
bậc và đơn vị của mình.” Bà Hoa thò tay xuống gầm bàn máy may, lôi ra một thùng
các-tông mà khi chúng tôi chồm người qua bàn may, nhìn vào đó thì thấy những
túi ny-lông, loại đựng bánh xăng-uých, chứa phù hiệu quân hàm và binh chủng đầy
màu sắc của người lính Nam Việt Nam.”
Người kể chuyện nhớ lại một cách sống động bà Hoa cuồng
tín đó: “Trong khi một số người đang sống bị kẻ chết ám, thì những kẻ
khác lại bỉ kẻ đang sống ám.”
Trong khúc bi thương dịu dàng “I’d Love You
to Want Me” (Em yêu thích anh muốn em), một cuộc hôn nhân ngày càng hư
hoại bởi hồi ức của một ông giáo sư vật lý người Việt mắc bệnh mất ngủ vì quá
trằn trọc. Dễ bị ảnh hưởng do ngẫu nhiên, có lẽ bởi những hồi tưởng lầm lạc
nhưng đầy sức mạnh phát sinh từ quá khứ, ông giáo sư ngày nay đang sống cuộc sống
thoải mái của một người dân Mỹ ở ngoại ô, đã bắt đầu lẫn lộn bà vợ lâu năm của
mình với một người đàn bà khác tên Yen [Yến? – ND]. Chưa từng nghe tới tên Yến,
bà vợ phẫn uất ấy cảm thấy mình không chỉ khóc thương cho sự tàn tệ ký ức của
ông chồng mà còn bị sỉ nhục bởi một loại tò mò về sự không chung thủy, trong
khi ông chồng ngày càng thành kẻ xa lạ với bà.
“Và em là ai?” Bà hỏi cho ra. “Em là cái gì?”
“Ông hé mắt nhìn bà: “Đương nhiên là Yến.”
Bà nhớ lại lần bà và ông giáo sư viếng thăm Sài Gòn
mấy năm trước, khi họ khó nhọc tìm cho ra ngôi nhà của mình trên đường phố nay
đã đổi tên. Đó là một thế giới mà tên họ và bản sắc không cố định, dễ bị đánh mất.
Dù ông giáo sư tới lúc nhận ra rằng tâm trí mình đang ngày càng lẫn, những hồi
tưởng của ông về một Yến kỳ bí ngày càng trở nên ám ảnh. Trong sự đảo ngược đầy
mỉa mai, bà vợ kinh ngạc khi phát hiện ông giáo sư giữ cuốn sổ ghi về bà:
“Sự việc càng ngày càng tệ. Hôm nay bà ấy cứ nhất
quyết rằng tôi gọi bà bằng tên của một người đàn bà khác. Phải để mắt trông chừng
bà kỹ hơn… vì bà có thể không biết bà là ai nữa.”
Có một dòng chữ buốt nhói và tuyệt vời về việc ấy: “rất
chầm chậm, cuốn sách cuộc đời bà khép lại.” Nơi nhà văn khác có thể kết
thúc câu chuyện của mình bằng nốt nhạc duyên dáng mà ảm đạm thì NTV chuyển
thành một âm đoạn cuối trong đó bà vợ quyết định buông bỏ căn cước của mình, chấp
nhận ảo giác của ông giáo sư: “Đúng là em… Là Yến.” Tận hiến
mình cho ông chồng suy nhược, bà sẽ đọc cho ông nghe truyện sách, đủ ngắn để nó
khớp với khẩu độ chú tâm đang rạn gãy của ông: “Bà sẽ đọc lớn tiếng như
đếm từng mẫu tự, từng trang một, từng chữ một.”
Nó là chủ đề tái diễn trong cuốn The
Refugees rằng cá nhân chấn thương phải tìm lấy lối của mình, một cách
chậm rãi, từng chữ một. Lối kể chuyện của NTV – hạn chế, bao dung, tránh ẩn dụ
hoặc điêu luyện cú pháp khi phô diễn ở từng khổ văn (paragraph) trong cuốn “The
Sympathizer” – cũng rất thích hợp trong việc phản ánh những trạng thái trải
nghiệm. Các nhân vật của ông là người đang dưỡng thương đầy xúc động – có thể dẫn
đưa kẻ sống sót tới việc am hiểu sự chấn thương của mình. “Viết là nhập
vào thế giới sương mù, cảm giác lối đi của tôi tới con đường từ thế giới này
sang thế giới siêu phàm của các con chữ, một con đường tìm thấy dễ dàng hơn người
khác,” người kể chuyện ấy thấy như thế, trong “Black-Eyed
Women.”
Tự quán sát nội tâm một cách thú vị và không chồn bước
– một triệu chứng khác của ý thức “tị nạn” – có thể dẫn đưa kẻ sống sót tới việc
nhận ra những sự thật khắc nghiệt về bản thân, như trong câu truyện “The
Other Man” (“Người Đàn Ông Khác”), khi một người tị nạn mười
tám tuổi được vào sống trong một gia đình dư dả ở San Francisco:
“Cậu cố quên những người rướn mình hớp không khí khi
họ bị rớt xuống sông, vài người bị đánh gục khi giành nhau leo lên, vài người bị
bắn vào lưng bởi lính tráng hoang loạn dọn đường đào thoát cho chính họ. Cậu cố
quên những gì mình đã khám phá, những cuộc đời khác ít có giá trị biết bao đối
với cuộc đời đang lâm nguy của chính cậu.”
Sự thật về những kẻ khác không còn có tính an ủi. Ở
bất cứ lúc nào, người tị nạn đó như thể đang bị đương đầu, một cách bực bội, bởi
sự thiển cận của những kẻ không phải là người Việt. Trong “The
Transplant” (“Cấy ghép”), Arthur, người thụ hưởng lá gan của một
người Việt hiến tặng, gặp rối rắm khi phân biệt quốc tịch này nọ của các tên họ
Á đông, đồng thời cũng khổ sở với sự hoa mắt tương ứng và thông dụng trong đó mọi
người Á đông đều có diện mạo giống như nhau. Trong “Fatherland” (Đất
tổ), một thiếu nữ Việt phục vụ trong một tiệm ăn hạng sang ở Sài Gòn nghe lỏm
du khách nói với nhau về phụ nữ Việt “thanh tú và nhỏ nhắn”, những
kẻ mặc như khâu [vải] liền vào thân mình. Một hướng dẫn viên du lịch người Việt
giải khuây đám khách Mỹ cả tin “có sao làm vậy” rằng: “Chúng tôi đều giống
như họ – nhỏ nhắn, hấp dẫn và dễ quên.” Như người kể chuyện có đôi mắt
sắc sảo của “The Sympathizer” nói với chúng ta rằng, “Đặc tính
toàn Mỹ" không phải là sự thông cảm hay lòng quảng đại mà là sự hoang tưởng
chủng tộc. Tại Hoa Kỳ, khi đi tới vấn đề chủng tộc thì hoặc là tất cả hoặc chẳng
là gì. Bạn là hoặc không là da trắng, thế thôi.” Dĩ nhiên cái bạn là,
có thể là vấn đề bối cảnh. Trong “Fatherland”, một thiếu nữ Mỹ gốc
Việt đi Sài Gòn thăm các con cha mình có với bà vợ sau: những người em cùng cha
khác mẹ. (Mẹ của Vivien cùng các con bay đi Mỹ khi chiến tranh kết thúc). Đối với
gia đình ấy. cuộc thăm viếng của Vivien là một cơ hội lớn. Cô tặng họ những món
quà đắt tiền, đối xử hào phóng với họ, đem họ đi ăn loại nhà hàng mà cư dân địa
phương không trang trải nổi. Cách riêng, cô em dị bào của Vivien, kém chị bảy
tuổi, kính sợ sức mê hoặc của chị, háo hức mường tượng việc sang Mỹ sống với chị
và ganh đua với cái mà cô tin là sự thành công của Vivien làm bác sĩ ở Chicago.
Ảo vọng đó tan biến khi cô em phát hiện Vivien không phải bác sĩ, mà là một tiếp
viên thất nghiệp với các viễn ảnh hạn chế chẳng kém gì mình. Sau khi người chị
dị bào ấy ra đi, cô em cùng cha khác mẹ người Việt đốt các bức ảnh hai chị em
chụp chung: các đường nét của Vivien tan chảy trước mắt cô em; khuôn mặt họ biến
mất trong lửa. Hình ảnh cuối cùng của cuốn “The Refugees” là tro tàn thổi tung
bay trong bầu trời bên trên Sài Gòn.
Dù mãi tới nay mới được cùng xuất bản trong dạng một
cuốn sách, các truyện ngắn mang tính qui ước tương đối, nhiệt tình, chân thật
và bộc trực của cuốn The Refugees có lẽ đã được viết ra trước
cuốn The Sympathizer đầy kinh nghiệm và có văn phong. Thế
nhưng toàn bộ hư cấu của NTV cũng thấm đẫm một cường độ thị lực bằng việc chạm
mạnh những nhận thức bồng bềnh như tro than bị thổi tung bay trong gió. Với kết
cuộc của “The Sympathizer”, chúng ta đột ngột quay lại cái khởi đầu có tính chủ
đề của nó, khi người kể chuyện mà lúc này là kẻ sống sót qua cuộc hành hạ trong
trại cải tạo của Cộng sản, trở thành người tị nạn, thêm lần nữa giữa những
“thuyền dân” vô danh – được người kể chuyện ghi làm danh hiệu – đánh thẳng vào
sự chiếu cố mang tính nhân loại học, gợi lên một nhánh bị quên lãng nào đó của
gia đình loài người.
NTV để lại cho chúng ta một cái nhìn rất đau đớn của
những tấn thảm kịch thời chiến đang trải rộng, và những lừa dối đạo đức mà
chúng ta có khả năng có. “The Sympathizer” kết thúc với tuyên bố rằng sẽ hoạt động,
cũng như đối với người Việt di cư trong The Refugees rằng: “Chúng
tôi sẽ sống!”
-------------
Ghi
chú của người dịch:
1. Joyce Carol Oates (1938–) Nhà văn Mỹ; Giáo sư thỉnh
giảng Anh ngữ tại Đại học Berkeley, California. Tác phẩm đầu ra mắt năm 1963;
ngoài hơn 43 tiểu thuyết đã xuất bản, còn có các cuốn kịch, thơ, truyện ngắn, biên
khảo… Bà được trao nhiều giải thưởng văn học danh tiếng. Tác phẩm đã được dịch
ra tiếng Việt có: Muốn làm gì tôi thì làm (bộ 2 cuốn); Đây
là mùa; Người tự sát, v.v.
2. Bài này dịch toàn văn bài điểm sách “Not
All There” đăng trong tuần san The New Yorker, số Feb. 13&20,
2017, tt. 93-95. Có thể tìm đọc bản tiếng Anh ở http://vietnguyen.info/2017/new-yorker-refugees-america
3. Tại Bắc Mỹ, các nhà xuất bản thường khuyến khích
nhà văn in cuốn đầu tay là tiểu thuyết, trước khi cho in tuyển tập truyện ngắn.
No comments:
Post a Comment