Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2017
Hình 1: chân dung Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ. [nguồn:
bìa lưng bộ sách Cây Cỏ Việt Nam]
Peter
Shaw Ashton, Giáo Sư Charles Bullard
Ngành
Lâm Học, Đại Học Harvard
"Với những ghi chú bằng tiếng Anh, cùng với những
nét minh hoạ tinh vi của hơn 10,500 chủng loại, bộ sách Hoạ Hình Cây Cỏ Việt
Nam / Illustrated Flora of Vietnam của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã cung cấp cho giới
độc giả tiếng Anh lần đầu tiên và cập nhật một tài liệu tham khảo thấu đáo mà
chúng tôi ít biết đến. Công trình này sẽ đứng như một tượng đài của sự quyết
tâm, cống hiến, và uyên bác với lòng can đảm của tác giả. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
hầu như đơn độc hình thành một công trình sinh học thực vật có tầm vóc hàn lâm/
academic tại Đại Học Sài Gòn giữa những năm tháng khó khăn. Trong hoàn cảnh cực
kỳ thử thách ấy, giáo sư Hộ đã sưu tập được những chất liệu cho bộ sách đặc sắc
này và cả những chuyến du khảo nhằm thu thập những mẫu vật để minh hoạ. Và nay
công trình được xuất bản, đó sẽ là nguồn khích lệ cho các nhà sinh học trẻ ở Việt
Nam và cả ở hải ngoại.
"Cây cỏ Việt Nam có thể lên tới 12,000 chủng loại.
Bởi vì xứ sở này nằm sát bờ Thái Bình Dương Á Châu nhiệt đới, đó là hành lang
cho những chuyển dịch theo chu kỳ bắc-nam / periodic north-south migration của
thảm thực vật vô cùng phong phú từ phía nam Trung Hoa và phong phú hơn nữa là
thảm thực vật xích đạo Mã Lai / equatorial flora of Malaysia. Trên các rặng núi
vẫn còn lưu lại những chủng loại tùng bách / conifer và thực vật có hoa /
angiosperm taxa có tầm quan trọng vô song, trong khi các vùng bình nguyên mang
dấu ấn của quá khứ có liên hệ tới các vùng hải đảo Phi Luật Tân và Borneo Nam
Dương. Đến nay sự phong phú này hầu như tiêu vong. Những nỗ lực của chính phủ
Việt Nam trong chiến lược trồng cây tái sinh và bảo tồn sẽ được hỗ trợ bởi công
trình của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ như một hồ sơ theo dõi các thảm thực vật đến
nay còn tồn tại."
*
TIỂU
SỬ:
GS Phạm Hoàng Hộ, trên giấy tờ ngày sinh là 3 tháng
8 năm 1931 tại An Bình, Cần Thơ. Nhưng theo cáo phó mới đây của gia đình, GS Hộ
sinh năm Kỷ Tỵ 1929, mất ngày 29 tháng Giêng năm 2017 tại Montréal, Canada hưởng
thọ 89 tuổi. Anh Phạm Hoàng Dũng, con trai GS Phạm Hoàng Hộ xác nhận là
"Ba tôi sinh năm Kỷ Tỵ 1929, nhưng theo lệ ngày xưa thì lâu sau đó mới
khai sinh, là năm 1931".
Văn
Bằng:
-- 1953: Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực Vật học,
Paris
-- 1955: Cao học Vạn Vật học, Paris
-- 1956: Thạc sĩ / Agrégé Vạn vật học
-- 1962: Tiến sĩ Khoa học / Vạn vật học, Paris
Chức
Vụ:
-- 1957-1984: Trưởng phòng Thực vật Đại học Khoa học
Sài Gòn
-- 1965-1984: Giáo sư Thực vật học Đại học Khoa học
Sài Gòn
-- 1962-1966: Giám đốc Hải học viện Nha Trang
-- 1963-1963: Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn
-- 1963: Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục
-- 1966-1970: Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần
Thơ
-- 1978-1984: Chủ bút tuần báo Khoa học Phổ thông
Sài Gòn
-- 1984-1989: Giáo sư Khảo cứu tại Viện bảo tàng
Thiên nhiên Quốc gia Paris
Hội
viên Khoa học:
-- 1956: Hội viên Hội Thực vật học Pháp
-- 1963: Hội viện Hội Tảo học Quốc tế (International
Phycological Society)
-- 1964: Hội viên Sáng lập Hội Sinh học Việt Nam
-- 1965: Phó Chủ tịch Uỷ ban Danh từ Việt Nam
-- 1967: Hội viên Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế
(APU)
-- 1969: Sáng lập viên Niên san Đại học Cần Thơ
-- 1971: Hội viên Uỷ ban Thẩm định hậu quả chất Da
cam tại Nam Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, Hoa kỳ.
-- 1973: Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Quốc Tế Sông
Mekong (MRC)
Ấn
phẩm:
-- 1960: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam (Flore Illustrée
du Sud Vietnam)
Bộ Giáo dục Việt Nam: 1 vol., 803 pp., 275pls.
-- 1964: Sinh học Thực vật
Bộ Giáo dục Việt Nam: 1 vol., 861 pp., nhiều hình
-- 1968: Hiển hoa Bí tử
Trung tâm Học
liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 506 pp.,264 pls.
-- 1969: Rong Biển Việt Nam
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 558 pp., 493 figs.
-- 1970: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển I
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1115 pp., figs. 2787
-- 1972: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển II
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1139pp., figs. 5272
Cây
cỏ Việt Nam: An illustrated Flora of VietNam
-- 1991, Tập 1 Quyển I: Khuyết Thực Vật. Loã Tử.
Hoa-cánh-rời đến Tiliaceae
-- 1992, Tập 1 Quyển II Hoa-cánh-rời từ Eleagnaceae
đến Apiaceae
-- 1993, Tập 1 Quyển III Từ Smilacaceae... Cyperaceae...
Poaceae... đến Orchidaceae
-- 1991, Tập 2 Quyển I Hoa-cánh-rời từ Sterculiaceae
đến Fabaceae
-- 1993, Tập 2 Quyển II Từ Daphniphyllaceae ...
Fagaceae… Apocynaceae đến Scrofulariaceae
-- 1993, Tập 2 Quyển III Từ Smilacaceae...
Cyperaceae... Poaceae ...đến Orchidaceae
-- 1998: Cây cỏ có vị thuốc ở Việt Nam
Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh: 860 pp.,
Mô tả 2149 loài có vị thuốc gặp ở Việt Nam
Vẫn trong bản Tóm lược sự nghiệp Khoa học, GS Phạm
Hoàng Hộ tâm sự: "Có lẽ vì lúc còn rất nhỏ tôi đã sống ở nơi vườn
tược, ruộng đồng xanh um vùng châu thổ sông Cửu Long, nên từ nhỏ tôi đã thích
cây cỏ. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh của bông Súng ở ruộng hay ao, lộng
lẫy dưới ánh mặt trời ban mai, hay hình ảnh của bông Nhãn lồng phơi mình dựa bờ
ruộng. Nên Thực vật học và Sinh học Nhiệt đới đã hấp dẫn tôi lúc đi du học. Và
lúc học ở Đại học Khoa học Paris, tôi đã bắt đầu tìm hiểu Cây cỏ Đông Dương. Tiếp
xúc đầu tiên một cách khoa học với Cây cỏ ấy, tôi thực hiện ở Viện Bảo tàng
Thiên nhiên Quốc gia Paris. Lúc mới học Vạn vật, tôi đã vào nhà kiếng của Viện
này để tìm coi có loại nào ở nước nhà hay không. Và một số loài đã được vẽ từ
lúc ấy! Tôi nhớ một số Lan đã được vẽ từ năm 1950, trong nhà kiếng ấy. Đó là những
hình "xưa" nhất của bộ Cây cỏ của tôi. Sau này khi làm luận án Cao học,
cũng ở Viện ấy, tôi mới có dịp vào Thảo Tập, và nhiều hình, nhất là của giống
Ficus, khó, vì chưa nhiều loài đã được vẽ vì ngại sự khó khăn ấy về sau khi về
bên nhà mà tài liệu thật là khó kiếm. Thật ra lúc ấy tham vọng của tôi vô cùng
khiêm tốn, là sau này được biết các loại Ficus Việt Nam mà thôi! Cũng đã quá
sung sướng rồi.
Sau khi thi đậu Thạc sĩ / Agrégation hạng sáu, trên
300 thí sinh, và chỉ có 30 đậu, năm 1956 tôi về nước.
[* Ghi chú của người viết: cần phân biệt với bằng Thạc
sĩ hiện nay ở Việt Nam tương đương với cao học/ master, trong khi Thạc sĩ /
Agrégé ở Pháp là học vị về sư phạm, trải qua kỳ thi tuyển khó khăn, nếu thi đậu
sẽ trở thành giáo sư thực thụ / professeur titulaire từ bậc trung học / lycée tới
các trường cao đẳng / enseignement supérieur thuộc các ngành Khoa học, Y dược,
Luật khoa]
Giáo sư Hộ viết tiếp: "Lúc ấy tham vọng của tôi
chỉ là về dạy học ở một trường Trung học, và lúc rảnh rang sẽ tìm hiểu cây cỏ của
vùng Lục tỉnh mà thôi, nhưng Viện Đại học Sài Gòn và Hải học viện Nha Trang
"kéo" tôi về giảng dạy và trông nom Hải học viện. Khi làm việc ở Nha
Trang tôi khảo cứu Rong biển, như là một phận sự. Và sau vài năm khảo cứu dưới
sự hướng dẫn của Giáo sư J. Felmann, tôi hoàn thành luận án Tiến sĩ mà tôi
trình ở Đại học Paris, năm 1961. Công trình này được đăng trong Niên san Khoa học
Đại học đường Sài Gòn, và trong quyển Rong biển Việt Nam, cũng
như một số ấn phẩm trong vài tạp chí khoa học.
Ở Sài Gòn, phận sự chính của tôi là giảng dạy Thực vật
và Sinh học Thực vật (thay thế Giáo sư Pháp Roger, một nhà chuyên môn về nấm
gây bệnh cây) cho sinh viên dự bị và chuyên khoa. Chính vì muốn giảng dạy tốt,
thích nghi vào điều kiện nhiệt đới Việt Nam, các môn ấy mà tôi lục lạo và sau
đó cho ra đời công trình mà sau này sẽ là công trình của đời tôi là Cây
cỏ Việt Nam. [trích dẫn tư liệu gia đình GS. Phạm Hoàng Hộ: Văn
Bằng, Sự Nghiệp Khoa Học của Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Thực vật học].
1959-1960, tôi / người viết bài này mới chỉ là sinh
viên lớp dự bị Y khoa PCB / Physique Chimie Biologie tại Đại học
Khoa học Sài Gòn và được học Thầy Hộ mới tốt nghiệp Thạc sĩ ở Pháp về, dạy môn
Sinh Học Thực vật. Tuy chỉ được học Thầy một năm, nhưng Thầy đã để lại cho đám
sinh viên và riêng tôi một niềm cảm hứng với những dấu ấn rất khó phai mờ. Vào
trường Y khoa rồi, không còn được học Thầy Hộ nhưng tôi vẫn mang lòng ngưỡng mộ
và cả theo dõi những bước đi và sưu tập những bộ sách công trình nghiên cứu
khoa học của Thầy.
Hình 2: Bộ sách
Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam gồm 2 quyển, do Trung tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục VNCH
xuất bản 1970 [nguồn: internet Sách Xưa]
Vào đầu thập niên 1990, giới khoa học trong nước và
hải ngoại rất đỗi vui mừng khi bộ sách Cây Cỏ Việt Nam của GS.
Phạm Hoàng Hộ được lần lượt xuất bản. Theo GS Thái Công Tụng, hiện định cư tại
Montréal thì các sách của GS. Phạm Hoàng Hộ hiện có đầy đủ ở Bibliothèque
Jardin botanique Montréal, Canada, và dĩ nhiên là có trong nhiều thư viện lớn
trên thế giới.
Trọn bộ Cây cỏ Việt Nam gồm hai Tập,
mỗi Tập 3 Quyển, tổng cộng khoảng 3,600 trang, chưa kể Phần Từ Vựng tên Việt
Nam và Từ Vựng tên Khoa học các Giống (Chi) bao gồm thêm cả công trình của những
năm tháng giáo sư rời quê hương Việt Nam sang Pháp, vẫn tiếp tục cặm cụi làm việc.
iêng tôi / người viết đã sớm có được trọn bộ 6 Quyển Cây
Cỏ Việt Nam xuất bản ở hải ngoại do bác sĩ Phạm Văn Hoàng
nguyên Giám đốc Trung Tâm Phục Hồi Cần Thơ, một đàn anh trong Y khoa gửi tặng,
anh Phạm Văn Hoàng chính là bào đệ của GS Phạm Hoàng Hộ.
Tưởng cũng nên ghi lại ở đây, là trước 1975, Giáo sư
Phạm Hoàng Hộ đã từng là Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Sông Mekong/ Mekong
River Committee và khoảng năm 1974 hai Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Thái
Công Tụng đã có một nghiên cứu chung về Môi sinh Đồng Bằng Sông Cửu Long: The
Mekong Delta, Its environment, Its Problems; [do Bộ Canh Nông VNCH xuất
bản, Sài Gòn 1974]; khi tìm kiếm tới tài liệu có tính cách lịch sử ấy, tôi được
anh GS Thái Công Tụng bùi ngùi cho biết: là đã mất hết sau cơn binh lửa...
Để tìm hiểu thêm tại sao, các tác phẩm khoa học của
Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ lại được ưu tiên xuất bản bằng tiếng Việt cho dù ngôn ngữ
chính thông thạo của GS. Hộ trong suốt quá trình đào tạo và giảng dạy là tiếng
Pháp.
Trong lời mở đầu quyển Rong Biển Việt Nam xuất
bản năm 1969, GS. Phạm Hoàng Hộ viết: "Lúc đầu, quyển sách này được thảo bằng
ngoại ngữ, khi làm việc ở Hải học viện Nha Trang và ở Museum, và tôi có hoài
bão được xuất bản trong ngoại ngữ ấy để công bố công trình khảo cứu của mình ra
bốn phương, như lời hứa ngầm lúc trình luận án.
Song nay tôi đã đổi ý và cho xuất bản bằng tiếng Việt
Nam. Đó là để chứng minh rằng ngôn ngữ nào, miễn được chăm sóc, đều có thể diễn
tả kiến thức ở mọi trình độ. Tôi biết rằng có nhiều người cho rằng không ấn
hành trong một ngôn ngữ quốc tế là phí công, giới khảo cứu làm sao biết đến.
Nhưng tôi thấy chẳng cần đến việc ấy. Được mấy mươi triệu người Việt Nam biết
và dùng, có giá trị hơn là được vài ngàn học giả chuyên môn thưởng thức. Tôi đã
bỏ cái tự hào sai là tranh đua cùng người ngoài để tự tạo lấy thanh danh,
"làm thơm lây dân Việt". Tôi tin rằng cái tự hào ấy không thực tế, vì
một người Việt Nam hay, không bằng nhiều người Việt Nam khá: cầm đuốc soi thành
phố người có vẻ không thức thời trong khi nước nhà còn u ám. Cái tự hào trên thật
ra chỉ để che đậy sự trốn trách nhiệm, sự bỏ phận sự trước con cháu chúng ta một
cách không tha thứ được.
Tạo ra cho chúng ta một nền văn chương khoa học là một
công trình rất bao la. Vì thấy nó quá to tát nên nhiều học giả chấp nhận giải
pháp dễ nhất: học ngay trong văn chương khoa học ngoại ngữ vô cùng phong phú, dồi
dào. Cái học như vậy sẽ cho ta những người giỏi, nhưng ta không quên rằng nền
văn minh bây giờ là văn minh của đại chúng chứ không phải của vài người được nữa.
Ta đừng để cho sự phong phú của văn hoá nước ngoài đè bẹp ta. Người Nhật, cách
đây một thế kỷ, há đã không hoảng sợ trước sự hùng mạnh của khoa học nước ngoài
sao? Mà nay họ đã tự tạo được một một nền văn chương khoa học riêng biệt đã đến
lúc gần hay hơn cả những nước ấy!
Hơn lúc nào hết, câu của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn vẳng
bên tai: "Nước Việt Nam ta sau này hay hay dở là ở chữ quốc ngữ".
Trong thế giới tương lai, sự lệ thuộc về văn hoá, nhất là về văn hoá khoa học sẽ
là sự lệ thuộc chánh".[Lời Mở Đầu của quyển Rong
Biển Việt Nam; Trung Tâm Học Liệu, Bộ, Giáo Dục xuất bản 1969].
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhVDdNIgQxxoPPUs7nVFJKSFekI-w2klHpD6OT_ZYCNkiSRrfPlSxuTgYstsR_p1wlS5QnyFiHCdLemjN9t0fPG5AevTKibCkZMuyDYIsSHzAjvrdDFrx5sojB01KDiT7xqYq_L11wcL2k/s400/image006.jpg
Hình 3: mấy dòng tiểu sử của GS. Phạm Hoàng Hộ cùng với Lời Tựa của Peter Shaw Ashton, nhà sinh học gốc Anh, Tiến sĩ Đại Học Cambridge, Giáo Sư Charles Bullard ngành Lâm Học, Đại Học Harvard nơi bìa sau của bộ sáchCây Cỏ Việt Nam [Quyển II, Tập 2] xuất bản tại Montréal 1993
Hình 3: mấy dòng tiểu sử của GS. Phạm Hoàng Hộ cùng với Lời Tựa của Peter Shaw Ashton, nhà sinh học gốc Anh, Tiến sĩ Đại Học Cambridge, Giáo Sư Charles Bullard ngành Lâm Học, Đại Học Harvard nơi bìa sau của bộ sáchCây Cỏ Việt Nam [Quyển II, Tập 2] xuất bản tại Montréal 1993
Hình 4: Một số hình bìa bộ sách đồ sộ Cây Cỏ
Việt Nam gồm 6 Quyển 2 Tập của Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ xuất bản tại hải
ngoại [nguồn: Ngô Thế Vinh]
CHẶNG
ĐƯỜNG ĐAU KHỔ
Hình ảnh một Giáo sư Phạm Hoàng Hộ những năm sau
1975, là một tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí
thức Miền Nam mà Giáo sư Phạm Hoàng Hộ là một biểu tượng.
Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ thì bộ sách Cây
cỏ Việt Nam đã được thực hiện qua 4 giai đoạn:
-- Nghiên cứu giai đoạn một: hợp
tác với GS Nguyễn Văn Dương về phần dược tính, Cây cỏ Miền Nam Việt
Nam, do bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1960 mô tả 1,650 loài thông
thường của Miền Nam, "Đó là giai đoạn còn mò mẫm, học hỏi một thực-vật-chúng
chưa quen thuộc đối với một sinh viên vừa tốt nghiệp từ vùng xa lạ mới về.
--
Nghiên cứu giai đoạn hai: kỳ tái bản lần hai
1970 bộ Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, số loài lên được
5,328 [Hình 2]. "Đó là giai đoạn mà tôi xem như vàng son của một nhà thực
vật học Việt Nam chúng ta. So với bây giờ, lúc ấy tôi yên ổn làm việc, có nhiều
phương tiện cá nhân cũng như của non nước và nhất là được sự khuyến khích của mọi
giới, bạn bè cũng như chính quyền.
-- Nghiên cứu giai đoạn ba: tiếp tục
công việc nghiên cứu sau 1975, đưa thêm được vào bộ sách Cây cỏ Miền
Nam Việt Nam 2,500 loài và bộ được nới rộng cho toàn cõi Việt Nam.
Sau biến cố 1975, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cũng như người
bạn đồng hành trí tuệ của ông là Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã cùng chọn ở lại để
xây dựng đất nước sau chiến tranh và thống nhất, nhưng với cái giá rất đắt mà
sau này được GS Hộ ghi lại là: "thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ
thấy đất nước đi lên. Giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường
Quê hương."
Tuy Giáo sư Phạm Hoàng Hộ vẫn còn chức danh là Hiệu
phó [phó Khoa trưởng] Đại học Khoa học, nhưng chính quyền mới chỉ sử dụng trí
thức cũ như ông chủ yếu là “làm kiểng", không có vai trò tương xứng trong
giáo dục. Vì không là đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì Đảng bộ họp riêng và
quyết định, có việc ông không bao giờ được biết. Năm 1977 sau trải nghiệm những
ngày học chính trị, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội
khoa học” dành riêng cho các trí thức Miền Nam tổ chức tại TP Hồ Chí
Minh; từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời
gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can
dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”. [Huy Đức, Bên Thắng Cuộc]
Rồi phải chứng kiến một thiểu số trí thức cũ xu thời,
mau chóng hợp tác toàn diện với chế độ mới, bất chấp sự liêm khiết, sẵn sàng cống
hiến những công trình mệnh danh khoa học theo phong trào để mừng các ngày lễ hội
3-2 hay 19-5 như các bài báo chứng minh "ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký
thịt bò" hoặc là "ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo"... những
công trình "giả khoa học / pseudo-science " ấy đã mau chóng trở thành
giai thoại đầy mỉa mai được lan truyền trong các trại tù Cải tạo, nơi mà đám tù
nhân Miền Nam đang bị thiếu ăn suy dinh dưỡng với thực phẩm cung cấp chủ yếu là
gạo hẩm "đại mễ" của Trung Quốc cùng với với bo bo và khoai mì /
ngoài bắc gọi là sắn.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng như số trí thức cũ khảng
khái của Miền Nam còn ở lại, thấy không thể tiếp tục sống trong một xã hội giả
dối và suy đồi đến như thế, việc ông đi tới quyết định phải chấm dứt những năm
"ảo vọng" và lãng phí ấy, là điều không thể tránh. Và rồi dịp ấy
đã tới, năm 1984 khi được chính phủ Pháp mời sang làm giáo sư thỉnh giảng, Giáo
sư Phạm Hoàng Hộ đã quyết định chọn cuộc sống lưu vong và ở lại Pháp.
-- Nghiên cứu giai đoạn bốn: một
giai đoạn mà giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi là "vừa hiếm có vừa đau khổ
nhất". Giáo sư Hộ viết tiếp: "Đau khổ vì rời quê hương mà
không hy vọng trở lại. Đau khổ vì xa gia đình thân yêu, vĩnh biệt mẹ hiền đã trọn
đời hy sinh cho các con. Đau khổ vì thấy đất nước thân yêu đang ở trong một nỗi
khổ khôn lường, một sự nghèo khôn tả, một sự tuyệt vọng thương tâm."
Nhưng rồi với hùng tâm, ông cũng vượt lên trên sự khổ
đau khôn lường ấy. Giáo sư Hộ đã kiên nhẫn đằm mình trong Viện Bảo Tàng Thiên
nhiên Quốc gia Paris, cật lực làm việc ròng rã suốt sáu năm. Viện Bảo Tàng
Thiên nhiên Quốc gia ở Paris / Muséum National d'Histoire Naturelle (MNHN)
thuộc hệ thống Đại học Sorbonne, bên tả ngạn Sông Seine, được thành lập từ thế
kỷ XVIII thời kỳ Cách Mạng Pháp.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cho rằng: "Hiếm
có một nhà Thực vật học, nhất là người Việt Nam, đã lục lạo cây cỏ ở nước nhà,
lại được ở lại nghiên cứu tại Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp, chứa một
thảo tập phong phú vào bậc nhất thế giới, với 8 tới 10 triệu mẫu vật cây cỏ. Ít
nhất cho Việt Nam, nó là kho tàng duy nhất, vì chứa hơn 10 ngàn loài thu được ở
nước ta. Trong sáu năm làm việc ở Viện ấy, không một ngày nào mà khi chiều ra về,
dù trời đông âm u lạnh lẽo, hay chiều hè vắng vẻ nóng khô, mà tôi không thốt ra
câu "Thật là một ngày tuyệt" vì đã biết thêm cho Việt Nam ít nhất là
một loài hiếm, lạ hay mới!" Trong giai đoạn chót này, ông bổ túc
thêm cho bộ Cây Cỏ được trên 3000 loài. Số loài mô tả khoảng 10,500.
Hình 5: Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia
Pháp, Paris nơi Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đơn độc làm việc ròng rã suốt sáu năm để
hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam [nguồn: internet]
Tại Pháp khi gặp lại người học trò cũ, nay đã là
thành viên trong ban giảng huấn Đại học Khoa học Sài Gòn, cũng đang làm việc tại
Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp nghiên cứu về Cá / Laboratoire
d'Ichthyology, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã tâm sự:
“Tôi ráng làm càng nhiều càng tốt. Bộ sưu tập của
Pháp rất dồi dào, đúng phương pháp khoa học. Do được sưu tập từ mấy mươi năm
trước, các mẫu vật đã cũ, mình không làm gấp e sẽ hư hỏng thì uổng quá... Nhiều
người Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ
sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó
không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết
thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp
chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà
còn thua hồi thuộc Pháp!” [4]
Sau khi hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam, Giáo
sư Phạm Hoàng Hộ đã bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với Viện Bảo Tàng Thiên nhiên
Quốc gia Paris và các bạn đồng sự Pháp, ông đã rất chân thành tâm sự: "thực
hiện những điều mà lúc nhỏ dù điên rồ tới đâu tôi cũng không dám mơ ước: nô lệ
của một thuộc địa, học ở một trường thường, ở một tỉnh nhỏ, bao giờ dám nghĩ đến
tạo một quyển sách dù nhỏ bé, mê cây cỏ xung quanh nhưng bao giờ nghĩ đến biết
cây cỏ cả nước!"
Người "trí thức đau khổ" Phạm Hoàng Hộ đã
vươn lên và hoàn tất được "giấc mơ điên rồ" tưởng như không thể được ấy
và trở thành cây "đại thụ" trong Khoa học Thực vật của Việt Nam và cả
thế giới.
CHÚT
GIAI THOẠI VĂN HỌC
Trong cuốn Bông Hồng Tạ Ơn, khi viết về bộ sách của
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhớ lại: "Các năm trước
1975, bộ sách của giáo sư Phạm Hoàng Hộ còn mang tên là Cây Cỏ Miền
Nam. Cuộc chia cắt đất nước đã giới hạn tầm mức của cuốn sách. Thế
nhưng công trình của giáo sư Phạm Hoàng Hộ không phải chỉ được coi là quý đối với
các nhà chuyên môn về thực vật học, mà theo nhà văn Võ Phiến có kể lại trong bộ
sách Văn Học Miền Nam soạn thảo tại hải ngoại sau 75, thì đã có nhiều nhà văn,
[trong số đó có Nguyễn Đình Toàn] đã tìm đọc cuốn Cây Cỏ
Miền Nam để biết thêm về một vài loại cây cỏ quanh mình, để khi cần,
có thể đưa vào tác phẩm". Giai thoại văn học này có lẽ, chính Giáo sư
Phạm Hoàng Hộ không hề biết tới.
SÁNG
LẬP VIỆN ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Khoảng thập niên 1960, do sự vận động của các nhân
sĩ trí thức Cần Thơ, với hai tên tuổi hàng đầu là Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bác
sĩ Lê Văn Thuấn, Viện Đại học Cần Thơ được phép thành lập vào ngày 31.03.1966
và cũng là Đại học đầu tiên của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Giáo sư
Phạm Hoàng Hộ là Viện trưởng đầu tiên của Đại học Cần Thơ từ 1966 tới 1970.
Với uy tín lớn về thành tích khoa học và cả về nhân
cách, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quy tụ được rất nhiều "chất xám" tinh
hoa của Miền Nam thời bấy giờ; chỉ riêng trong lãnh vực Nông Nghiệp có thể kể tới
sự hợp tác của những tên tuổi như GS Tôn Thất Trình, GS Thái Công Tụng, TS Nguyễn
Viết Trương, TS Trần Đăng Hồng với công lao bước đầu đưa giống Lúa Thần Nông/
HYV / High Yield Variety vào ĐBSCL.
Rồi phải kể tới một đội ngũ giảng huấn đầy khả năng
khiến Đại Học Cần Thơ mau chóng trở thành một trung tâm giáo dục và khoa học có
tầm cỡ, đáp ứng nhu cầu trí tuệ của một vùng châu thổ rộng lớn rất giàu nguồn
tài nguyên thiên nhiên nhưng chưa được khai thác. Để có thể thấy được thành quả
bước đầu của Viện Đại học Cần Thơ, đó là các lớp sinh viên đầu tiên trưởng
thành và tốt nghiệp 4 năm sau đó.
Giáo sư Đỗ Bá Khê trong "think tank"
của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng đến từ Đại học Khoa học Sài Gòn, cách đây 47
năm, trong bài diễn văn “xuất trường” của Viện Đại Học Cần Thơ, đã có một tầm
nhìn rất xa về vai trò của Viện Đại Học này đối với tương lai vùng Đồng Bằng
Châu Thổ:
“Ngày nay (19/12/1970) trong Thời Đại
Khoa Học Kỹ Thuật, các tỉnh ĐBSCL đang trông chờ nơi ánh sáng soi đường của
Viện Đại Học Cần Thơ và ước mơ một chân trời mới, tô điểm bằng những cành lúa
vàng nặng trĩu, những mảnh vườn hoa quả oằn cây, dân cư thơ thới, một cộng đồng trù
phú trong một xã hội công bằng.”
NGƯỜI
BẠN ĐỒNG HÀNH GS NGUYỄN DUY XUÂN
Đến năm 1970, bước đầu xây dựng được một Đại học Cần
Thơ vững vàng, để có thể trở về Sài Gòn tiếp tục các công trình nghiên cứu khoa
học và giảng dạy, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ chính thức mời Giáo sư Nguyễn Duy Xuân
về thay ông, làm Viện trưởng thứ hai của Viện Đại Học Cần Thơ.
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh
năm 1925 hơn Giáo sư Phạm Hoàng Hộ 4 tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học
Vanderbilt Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học
Cần Thơ trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn,
xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống
campus cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây. Ông là người tiên phong thực
hiện giáo dục đại học theo tín chỉ/ credits (thay vì chứng chỉ, certificat như
trước đây); giống như mô hình hệ thống Đại học Hoa Kỳ. Ông còn gửi cả một đội
ngũ giảng viên trẻ đi du học, điển hình như anh Trần Phước Đường đi Mỹ tốt nghiệp
tiến sĩ tại Đại học Michigan, sau đó họ trở về trường phục vụ ngành Sinh học,
Giáo sư Trần Phước Đường sau này trở thành Viện trưởng Đại học Cần Thơ từ 1989
tới 1997.
Năm 1972, ông cũng đích thân mời nhà nông học trẻ Võ
Tòng Xuân khi ấy đang công tác ở Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế Los Banos
Philippines về trường giảng dạy. Sau này anh Võ Tòng Xuân kể lại, khi nhận được
thư của GS Nguyễn Duy Xuân: “Anh Nguyễn Duy Xuân nói ĐBSCL là cái vựa của lúa gạo
nên rất cần những nhà khoa học về nông nghiệp. Chiến tranh rồi có ngày hòa
bình, đất nước sẽ cần những người như tôi. Đó là một trong những lý do tôi về
công tác ở Đại học Cần Thơ.” TS Võ Tòng Xuân sau này trở thành một Giáo sư Nông
học danh tiếng, "Doctor Rice" tên tuổi anh VTX gắn
liền với sự phát triển của cây Lúa Thần Nông và sau đó anh là Viện trưởng Đại học
An Giang là Đại học lớn thứ hai của ĐBSCL sau Viện Đại học Cần Thơ.
Chỉ trong vòng 9 năm [1966 - 1975] với công lao xây
dựng của hai Viện trưởng tiền nhiệm: GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân, Viện
Đại Học Cần Thơ như một Ngọn Hải đăng Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo
và nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm
và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền
Nam, đóng góp cho sự thăng tiến của vùng ĐBSCL.
TỪ
ẢO VỌNG TỚI THẢM KỊCH
Chỉ mấy ngày trước biến cố 30 tháng 4, 1975, cũng
như GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân như một trí thức dấn thân, quyết định ở
lại và giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, ông vẫn can đảm nhận chức Tổng trưởng Bộ Văn
hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Giữ chức vụ đó chưa đầy một tuần
lễ thì chính quyền Miền Nam xụp đổ, TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
GS Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo, sau
đó bị đưa ra Bắc, giam trong trại Tù Hà Nam Ninh, hầu như không có ngày về. Vẫn
theo anh Võ Tòng Xuân (VTX), năm 1983, trong một lần ra Hà Nội dự họp, anhVTX
đã vô trại Ba Sao để thăm lại vị Viện trưởng của mình khi còn ở Viện Đại học Cần
Thơ. Gặp lại đồng nghiệp, GS Nguyễn Duy Xuân rất mừng, và dù đang trong nghịch
cảnh tù đầy, ông vẫn đau đáu quan tâm hỏi han tới hiện trạng của Đại học Cần
Thơ, nơi mà ông và GS Phạm Hoàng Hộ đã dầy công xây dựng.
Tôi, người viết bài này không thể không tự hỏi nếu
không có 11 năm giam hãm đầy đoạ độc ác và vô ích của những người Cộng sản thắng
cuộc, nếu GS Nguyễn Duy Xuân, một Tiến sĩ Kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước
như ông vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975,
không biết Viện Đại học Cần Thơ sẽ tiến xa tới đâu.
Năm 1983 là lần gặp gỡ đầu tiên của hai Giáo sư cùng
tên Xuân sau 1975 ở trại Ba Sao và cũng là cuối cùng GS VTX được gặp lại GS
Nguyễn Duy Xuân. Tiếp tục bị đầy ải thêm 3 năm nữa tổng cộng 11 năm, GS Nguyễn
Duy Xuân đã chết trong tù cải tạo Hà Nam Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong
đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa
tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao.
Phải mãi đến tháng 4 năm 2015, gần 30 năm sau, di cốt
của GS Nguyễn Duy Xuân, mới được người con gái là bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga từ
Pháp về bốc mộ đưa từ nghĩa địa trại tù Ba Sao Hà Nam Ninh về Chùa Thiên Hưng,
Quận Bình Thạnh Sài Gòn để lưu giữ tại đây. [5] Trong buổi lễ cầu siêu,
ngoài các thành viên của gia đình cố Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân, còn có một số
cựu giảng huấn và các cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Cần Thơ trước 1975 như
GS Võ Tòng Xuân, TS Nguyễn Tăng Tôn (cựu SV), TS Nguyễn Văn Mận (Cựu SV),
KS Minh (Cựu SV) Ông Hòa (nhân viên hành chánh), đến tham dự buổi
lễ.
Hình 6: Trại tù Ba Sao Hà Nam Ninh, Miền Bắc Việt
Nam, nơi triền núi phía sau trại tù là nghĩa địa chôn vùi xác nhiều tù nhân cải
tạo có gốc từ Miền Nam sau 1975.
Hình 7: từ trái, GS Võ Tòng Xuân,bà Nguyễn Thị Nguyệt
Nga con gái GS Nguyễn Duy Xuân, ôm bình tro cốt của cha, bạn trai Alan và một
thân hữu [nguồn: Võ Tòng Xuân]
VIỆN
ĐẠI HỌC CẦN THƠ SAU 1975
Thay thế Giáo sư Viện
trưởng Nguyễn Duy Xuân là ông Phạm Sơn Khai, gốc Miền Nam Tập kết là đảng viên
Cộng sản, với học vị "Chuyên Ngành Lịch Sử Đảng", ông
Khai được đề cử giữ chức Viện trưởng và lãnh đạo Đại học Cần Thơ trong suốt 13
năm từ 1976 tới 1989.
Kể từ sau 1975, chính quyền mới với chủ trương một nền
giáo dục "hồng hơn chuyên" nên học trình của Đại học Cần Thơ, cũng
như toàn hệ thống các Đại học Miền Nam đã có thêm môn học chính trị cưỡng
bách "Chủ nghĩa Mác Lê và Tư Tưởng Hồ Chí Minh". Một môn
học mà "thầy không muốn dạy, trò không muốn học" nhưng vẫn cứ được
duy trì cho đến ngày hôm nay. Ngót nửa thế kỷ, 42 năm sau ngày thống nhất đất
nước, trên toàn cõi Việt Nam vẫn chưa có được một nền "tự trị đại học".
Quá sớm để nói tới dân chủ hoá đất nước, khi mà các Đại Học như những
"Think Tank" vẫn còn bị chi phối lãnh đạo bởi những Chi bộ Đảng Cộng
Sản.
Hình 8: Những Hiệu trưởng Viện Đại học Cần Thơ từ
ngày thành lập tới nay; từ trái, 1. GS Phạm Hoàng Hộ, 1966-1970; 2. GS Nguyễn
Duy Xuân, 1970-1975; 3. Ông Phạm Sơn Khai, 1976-1989; 4. GS Trần Phước Đường,
1989-1997; 5. TS Trần Thượng Tuấn, 1997-2002; 6. TS Lê Quang Minh, 2002-2006;
7. GS Nguyễn Anh Tuấn, 2007-2012; 8. TS Hà Thanh Toàn, 2013 đến nay. [nguồn: tư
liệu Lê Anh Tuấn]
Hình 9: GS Võ Tòng Xuân mời GS Phạm Hoàng Hộ tham
gia chuyến khảo sát Đồng Tháp Mười của Đại học Cần Thơ, tháng 3, 1981. Từ trái,
TS Trần Thượng Tuấn, TS Nguyễn Thị Thu Cúc (bị che),ThS Đỗ Thanh Ren, GS
Võ-Tòng Xuân, GS Trần Phước Đường, một cán bộ Phân Viện Qui Hoạch, GS
Phạm Hoàng Hộ, một cán bộ tỉnh Đồng Tháp. [nguồn: tư liệu Võ Tòng Xuân]
Qua một eMail, anh Võ Tòng Xuân kể lại: "Tôi nhớ
mãi GS Hộ trong chuyến đi đó, ông rất kỹ về vấn đề ăn uống, đem theo đồ ăn và
bình ton đựng nước uống riêng".[Hình 8]
GS
PHẠM HOÀNG HỘ SINH NHẬT 80
Tháng 7 năm 2009, một số môn sinh đã tổ chức tại
Montréal một lễ mừng sinh nhật 80 tuổi của GS Phạm Hoàng Hộ, cùng với một bức
tượng được đem tới tặng Thầy với phát biểu đầy xúc động của một môn sinh: "Bức
tượng không phải chỉ là hình ảnh của một giáo sư Thực Vật đáng
kính mà còn là biểu tượng của người trí thức Miền Nam, đã hiến
trọn đời mình cho khoa học, hết sức khiêm tốn so với tài năng của mình và
nhất là hết lòng yêu quê hương đất nước."
Hình 10: GS. Phạm Hoàng Hộ bên bức tượng bán thân do
một điêu khắc gia người Canada là bác sĩ Megerditch Tarakdjian thực hiện nhân dịp
sinh nhật thứ 80 do một số môn sinh tổ chức tại Montréal, Canada. [3]
Cũng rất ý nghĩa, trong buổi họp sinh nhật ấy, bác
sĩ Tăng Quang Kiệt đã đọc lời chúc của Giáo sư Phùng Trung Ngân, định cư tại
California, người sáng lập ra Bộ Môn Sinh Môi Học/ Ecology Department cũng
là Khoa trưởng Đại Học Khoa Học Saigon từ 1973-1975, là bạn đồng môn và cùng tuổi
với GS Phạm Hoàng Hộ:
"Anh Hộ thân mến, Tôi thành thật cám ơn Anh Chị
và gia đình đã cho phép tôi gởi bài phát biểu trong buổi lễ long trọng này. Với
80 tuổi đời, Anh đã đóng góp một công trình đồ sộ về Cây Cỏ Việt Nam đồng thời với
việc hướng dẫn sinh viên yêu Thực vật và Thiên nhiên Việt Nam. Là người cộng
tác gần gũi với Anh trong công tác giáo dục sinh vật cho lớp trẻ VN tôi đã thấy
sự tận tụy với nghề nghiệp của Anh và lòng hăng say nghiên cứu của Anh. Kết quả
là công trình nghiên cứu vĩ đại về Cây Cỏ Nam Việt Nam và nhứt là công trình bổ
sung đầy đủ Cây cỏ toàn bộ VN với các mẫu cây quý báu đang bị bỏ quên trong Viện
Thảo Tập ở Paris. Trước năm 1975 Anh và tôi thường dẫn sinh viên đi thực tập ở
Lâm Đồng-Đà Lạt, cho các em leo lên đỉnh Lâm Viên, một trong những ngọn núi cao
khoảng 2000m ở miền Nam, chúng ta thường ước mong khi hòa bình trở lại sẽ cùng
nhau ra miền Bắc khảo sát Cây cỏ Đỉnh Fan Xi Pan cao hơn 3000m ở Hoàng Liên
Sơn. Rất tiếc đến ngày hôm nay ước mong của chúng ta chắc không bao giờ thực hiện
được. Tuy nhiên Anh đã tự mình tiếp xúc với đỉnh Fan Xi Pan qua các mẫu cây còn
lưu trữ tại Viện thảo Tập Paris và cũng từ đó hình thành bộ công trình Cây
Cỏ Việt Nam cho Khoa học. Tôi rất may mắn là cộng tác viên thân cận của
Anh trong nhiều năm nên đã học được tính chu đáo trong nghiên cứu, sự tận tụy
trong giảng dạy và lòng say mê nghiên cứu Thiên nhiên Việt Nam."[3]
DI CHÚC GIỮ XANH ĐẤT MẸ
Trong Quyển cuối cùng của bộ sách Cây Cỏ Việt
Nam [Quyển III, Tập 2] xuất bản tại Montréal 1993, chỉ với hai
trang Thay Lời Tựa, GS Phạm Hoàng Hộ đã để lại một Thông điệp; cũng
có thể coi như một Di Chúc cho Việt Nam.
"Thực-vật-chúng Việt Nam có lẽ gồm vào 12,000
loài. Đó là chỉ kể các cây có mạch, nghĩa là không kể các Rong, Rêu, Nấm.
Đó là một trong những thực-vật-chúng phong phú nhất
thế giới. Sự phong phú ấy là một diễm phúc cho dân tộc Việt Nam. Vì như tôi đã
viết từ 1968, Hiển hoa là ân nhân vô giá của loài người. Hiển hoa cho ta nguồn
thức ăn căn bản hàng ngày; Hiển hoa cung cấp cho ta, nhất là người Việt Nam,
nơi sinh sống an khang. Biết bao cuộc tình duyên êm đẹp khởi đầu bằng một miếng
Trầu, một miếng Cau. Bao nhiêu chúng ta đã không chào đời bằng một mảnh Tre để
cắt rún, rời nhao? Lúc đầy nguồn sống lúc nhàn rỗi, chính Hiển hoa cung cấp cho
loài Người thức uống ngon lành để say sưa cùng vũ trụ. Lúc ốm đau, cũng chính
Cây cỏ giúp cho ta dược thảo hiệu linh.
Các điều ấy rất đúng hơn với chúng ta, người Việt
Nam mà ở rất nhiều nơi còn sống với một nền văn minh dựa trên thực vật.
Nhưng ân nhân của chúng ta ấy đang bị hiểm hoạ biến
mất, vì rừng nước ta đã lùi dưới mức độ an toàn, đất màu mỡ bị soi mòn mất ở một
diện tích lớn, và cảnh sa mạc đang bành trướng mau lẹ. Đã đến lúc theo nhạc của
một bài ca, ta có thể hát: "Thần dân nghe chăng? Sơn hà nguy biến. Rừng
dày nào còn, Xoi mòn đang tiến... Đâu còn muôn cây làm êm ấm núi
sông." [Ghi chú của người viết: bài ca Hội nghị Diên Hồng,
nhạc của Lưu Hữu Phước, lời: Huỳnh Văn Tiễng - Mai Văn Bộ - Lưu Hữu Phước].
Kho tàng thực vật ấy chúng ta có phận sự bảo tồn. Sự
bảo tồn và phục hồi thiên nhiên ở nước ta rất là cấp bách. Nó có thể thực hiện,
vì mỗi người của chúng ta, dù lớn dù nhỏ đều có thể góp phần vào sự bảo tồn ấy.
Bằng những cử chỉ nhỏ nhặt hàng ngày, sự đóng góp của chúng ta quan trọng không
kém.
Không quăng bậy một tia lửa, một tàn thuốc, là ta
góp phần tránh nạn cháy rừng. Không đốn bậy một cây, là ta bảo vệ Thiên nhiên của
ta. Trồng cây là phận sự của chính quyền hay của các Công ty gầy rừng. Nhưng
quanh nhà chúng ta, chúng ta có thể tìm trồng một cây lạ, đặc biệt, hiếm của
vùng hay chỉ có ở Việt Nam. Dân ta yêu cây hoa-kiểng, nhưng các nhà nhàn rỗi có
thể trồng cây lạ, đặc biệt, cũng là một thú không kém hay đẹp. Các thị xã nên
có một công viên hay vườn bách thảo, không lớn thì nhỏ để khoe các cây hay của
vùng, không bắt buộc là cây hữu ích hay đẹp. Cây Dó đâu có gì lạ? Nhưng nó là
niềm tự hào cho dân tộc vì từ Hồng Bàng, dân ta đã biết lấy trầm từ nó. Cả ngàn
loài cây khác chỉ có ở Việt Nam mà thôi! Các cây này có thể trồng như cây che
bóng mát dựa lộ. Các làng, các quận, các tỉnh nên tạo phong trào trồng nhiều
loài lý thú như vậy. Ta không cần đợi các lâm viện, khu dự trữ để bảo vệ tài
nguyên quý báu cho thế hệ sau, mà ta cũng có thể chính mình góp phần vào sự bảo
vệ ấy. Trồng các cây lạ, đặc biệt ấy còn là một yếu tố quến [chữ GS Phạm Hoàng Hộ theo cái nghĩa quyến rũ] du khách quan trọng: Lan
Thuỷ tiên hường Dendrobium amabile của ta, chỉ có ở một Vườn Bách thảo ngoại quốc
trồng được và họ tự hào đến đỗi đã ghi trong "Sách ghi quán quân thế giới
1988."
Hàng năm ta có thể tuyên dương nhà nào đã trồng cây
hay, lạ. Tất nhiên là công với nước nhà mới trông không bằng những ai đã đem
Rhizobium vào để tăng năng xuất đậu nành, đã trồng được cây Dó tạo trầm, đã du
nhập lúa Thần nông hay Nho. Nhưng nếu cả ngàn người, cả triệu người đóng góp
cho non nước những "nhỏ-nhen" [chữ GS Phạm
Hoàng Hộ theo cái nghĩa nhỏ nhặt], cả triệu cái nhỏ-nhen chắc chắn trở nên một
khối đồ sộ.
Đóng góp lớn, tôi vẫn cho là việc khó. Tôi quý các
đóng góp nhỏ, hằng ngày mà ai cũng làm được. Nó hay hơn. Kẻ sĩ, theo tôi không
phải chỉ là những kẻ đã làm được những chuyện lớn. Đóng góp những chuyện nhỏ
hàng ngày cũng là hành động của một kẻ sĩ, kẻ sĩ vô danh. Kẻ sĩ vô danh cao quý
không kém. Với những đóng góp nhỏ ấy, chắc chắn bạn không làm buồn lòng cho Tổ
Quốc và không thẹn với NonSông. [lược dẫn Thay Lời Tựa, bộ sách Cây Cỏ Việt Nam; Quyển III, Tập 2].
Qua "Di Chúc" ấy của GS Phạm Hoàng Hộ, từ
nay môn Sinh học Thực Vật không còn là lý thuyết mà đã đi vào đời sống; Giữ
Xanh Đất Mẹ phải là kim chỉ Nam cho mọi trình độ giáo dục từ Tiểu học
tới Đại học, cả trong công dân giáo dục, là giá trị phổ quát và xuyên suốt cho
mọi thể chế chính trị và cả trên tầm vóc toàn cầu là Giữ Xanh Trái Đất này/
Keep this Planet Green.
THAY CHO MỘT KẾT TỪ
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã xem bộ sách "Cây
Cỏ Việt Nam là công trình của đời tôi" và Giáo sư đã đề tặng toàn
sự nghiệp ấy cho:
“Những
ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp
tục dâng góp cho đất nước.
Tặng
giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986
tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh.
Tặng
hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.
Xin gửi tới hương linh Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một
nhà khoa học lớn, một nhân cách lớn, một kẻ sĩ khí phách biểu tượng của trí thức
đã đi hết chặng đường đau khổ với trọn đời cống hiến trong một giai đoạn vô
cùng đen tối của đất nước. Bài viết ngắn vội này trong nỗi xúc động, như một
nén nhang của một môn sinh tưởng nhớ Thầy với câu thơ của thi hào Nguyễn
Du: Thác là thể phách còn là tinh anh. Và cũng với ước mong một
ngày nào đó "hoa sẽ nở trên đường quê hương", sẽ có một
tượng đài của Thầy trên đỉnh Fan Xi Pan cao hơn 3000m ở Hoàng Liên Sơn để các
thế hệ môn sinh tiếp tục được Thầy hướng dẫn tới đó khảo sát Cây Cỏ và hoàn tất Giấc
Mơ Việt Nam của Thầy.
NGÔ
THẾ VINH
California, ngày 05 tháng 02 năm 2017
Tham
Khảo:
1/ GS. Phạm Hoàng Hộ & GS. Nguyễn Duy Xuân đối với
việc hình thành và phát triển Viện Đại học Cần Thơ (1966 - 1975); Phạm Đức Thuận;
Tập San Xưa và Nay Số 439 Tháng 11 Năm 2013.
http://www.cantholib.org.vn/Database/Content/1188.pdf
2/ Vị Tổng Trưởng quyết không rời Quê hương. Trung
Hiếu; Báo Thanh Niên 28.04.2015;
http://thanhnien.vn/thoi-su/giu-huyet-mach-cho-hon-ngoc-vien-dong-ky-6-vi-tong-truong-quyet-khong-roi-que-huong-556577.html
3/ Anh Chị Thuỷ - Thu Vân thăm Thầy Phạm Hoàng Hộ
http://truongxuabancu.fpb.yuku.com/topic/118/Anh-Ch-ThuThu-Vn-thm-Thy-Phm-Hong-H#.WJNVUxTcdwg
4/ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một người thầy của tôi. Lê
Học Lãnh Vân;
Một Thế Giới.VN 02.02.2017
http://motthegioi.vn/giao-duc-c-69/cau-chuyen-giao-duc-c-108/giao-su-pham-hoang-ho-mot-nguoi-thay-cua-toi-55462.html
No comments:
Post a Comment