on
May 13, 2015 5:30 PM
Để
tưởng nhớ Trung Tá Phạm Việt Châu, tác giả“Trăm
Việt Trên Vùng Định Mệnh”
Địa
Lý Bách Việt miền Hoa Nam thời cổ đại.
*
Người
Việt chúng ta thường cho rằng mọi hình thức văn hoá và con người phát xuất từ
phường bắc của Việt Nam, đặc biệt là từ vùng Hoa Nam của Trung quốc, đều thuộc
về Trung Hoa. Chúng ta vẫn gọi chung người Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải
Nam. Họ là ngườì Tàu hay người Hoa, kể cả toàn bộ người dân sống ở những vùng
này cách đây hàng mấy ngàn năm cũng là người Tầu. Chữ “Tàu” hay “Hoa” hàm ý
nghĩa họ là những người khác chủng với dân tộc Việt. Họ là người Trung Hoa, hay
ngườì Hán.
Quan
điểm nầy trước hết sai lầm về mặt lịch sử xuất phát của dân tộc và đất nước Việt,
và sau đó tạo cho Hoa Kiều sống tại Việt Nam một mặc cảm tâm lý chủng
tộc khó hội nhập vào cộng đồng dân tộc và tạo nhiều bất lợi cho nền kinh tế và
văn hoá nước nhà. Bên cạnh đó nước Trung Hoa to lớn về dân số lẫn đất đai không
thể nào bỏ qua việc vận dụng thành phần người Hoa sinh sống ở nước ngoài để biến
họ thành công cụ phục vụ cho chính quyền Hoa Lục.
Quan
điểm sai lầm nầy của người Việt đối với người Hoa phát xuất từ quá trình đồng
hoá quá lâu của người Hán đối với các dân tộc Bách Việt tại vùng Hoa Nam.
Đồng thời nó phát xuất từ những nhận định sai lầm về lịch sử của các triều đại
trước đây.
Ngày
nay những nổ lực khám phá về lịch sử và địa lý miền Hoa Nam cổ đại, cũng như những
nghiên cứu về chủng tộc dựa trên DNA (gen di truyền) đã chiếu nhứng
ánh sáng mới giúp chúng ta đặt lại một số vấn đề cơ bản về chủng tộc và lịch sử.
Những nhận định cơ bản nầy sẽ là nền tảng lý luận giúp chúng ta có một cái nhìn
hợp lý về sử học nước nhà, một chính sách ngoại giao dựa vào văn hoá đồng chủng
với các nước Đông Nam Á và các đảo quốc ở Thái Bình Dường, và một sách lược văn
hoá đối với người Hoa đang sinh sống tại Việt Nam.
Sự
hiện diện của văn minh Bách Việt thời Thương Chu trong lịch sử Trung Hoa được
đánh dấu bằng câu chuyện sứ giả Việt Thường ở phường nam đem Bạch Trĩ và Ruà sống
ngàn năm để cống dâng cho vua nhà Chu. Lúc bấy giờ lãnh thổ của
nhà Chu chỉ kéo dài tới sông Hoàng Hà. Đến thời Chiến Quốc, khoảng
500 trước công nguyên, một số dân tộc ở Nam Trung Hoa mới xuất hiện trong sử
Trung Quốc. Nổi bật nhất là các nước Sở, nước Ngô và nước Việt.
Khi
Sở, Ngô, Việt bị Tần Thủy Hoàng sát nhập vào Trung Hoa, và Lưu Bang đã diệt được
Hạng Võ, cuối triều đại nhà Tần và đầu thời kỳ Hán khi Lưu Bang mới lên ngôi
(256-195TCN) phía nam nước Sở vẫn còn là chủ quyền của các dân tộc Bách Việt
hoàn toàn độc lập và tự chủ. (Xem bản đồ Trung Hoa thời Tần Thủy Hoàng Cao tổ).
Truyền
thuyết xác định rằng dân tộc Việt phát xuất từ Động Đình Hồ miền Lĩnh Nam.
Sách Lĩnh nam Chích Quái của Trần Thế Pháp ở thế kỷ 15 kể Truyện họ Hồng Bàng
như sau:
“Đế
Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía
Nam đến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục
dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối
ngôi mình.
Ngũ
Lĩnh là năm rặng núi lớn ở Nam Trung Hoa thuộc miền Lĩnh Nam. Miền Lĩnh
nam đưọc sử tây phường viết như sau “Lĩnh nam là vùng đất phia nam của rặng Ngũ
Lĩnh gồm các rặng Đại Dũ /Dữu Lĩnh, Kỵ Điền Lĩnh, Đô Bàng Lĩnh, Manh Chử Lĩnh
và Việt Thành Lĩnh. Vùng nầy gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam và
Giang Tây của Trung Hoa hiện đại. Vùng nầy do dân Bách Việt sinh sống và là tổ
quốc của dân Nam Việt cổ đại” (xem http://en.wikipedia.org/wiki/Jiangxi )
Tác
giả Việt Sử Thông Luận cho rằng, sau khi mất bản địa Thái Sơn (tỉnh Sơn Đông, bắc
Trung Hoa), Con cháu Thần Nông đã rút quân về Động Đình Hồ để xây dựng căn cứ địa
văn hoá mới cho dân Việt. Tướng của Đế Minh là Si Vưu ở lại giữ Thái Sơn và sau
ba năm chiến đấu chống tù trưởng của nòi Hán là Hiên Viên, quân của Si Vưu tan
rã và từ đó, dân Việt mất căn cứ địa văn hoá Thái Sơn. Hiên Viên chiếm đưọc
thái Sơn lên ngôi là Hoàng Đế. Ngày nay, dân tộc Việt chỉ còn câu ca dao:
“Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” để ghi dấu
cái nôi văn hoá đầu tiên của dân Việt.
Khi
Lưu Bang cướp ngôi nhà Tần ở phưong bắc, thì ở phường nam, Triệu Đà thống
nhất được các nước Bách Việt trong đó có cả nước Âu Lạc của tổ tiên chúng ta. Đó là cuộc thống nhất Bách Việt
lần thứ nhất. Nhà Triệu truyền ngôi được 4 đời thì bị nhà Hán xâm chiếm
và miền Lĩnh Nam bị bắc thuộc từ đó.
Đến
thời kỳ Hai Bà Trưng, 40 năm sau công nguyên, Hai Bà đã thống nhất được 65
thành miền Lĩnh Nam. Sử viết: “Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật
Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam.
Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vường.” Đây là cuộc thống nhất Bách Việt
lần thứ hai.
Do
đó, khi truy tầm nguồn gốc Bách Việt của dân tộc Việt cần để ý các vần đề sau
đây:
Thời
cổ đại đã xuất hiện các dân tộc Bách Việt ở phía nam sống Dường Tử. Một số nước
Việt giáp biên giới với nhà Chu thường được đề cập đến trong sử sách Trung Hoa,
đó là Sở, Việt (với Viêt Vường Câu Tiển), Ngô Việt (với Ngô Phù Sai). Khi nhà Tần
thống nhất thiên hạ, các nước Việt trên bị sáp nhập vào nhà Tần. Còn các nước
Việt khác như Âu Việt, Mân Việt, Thái Việt, Điền Việt, Lạc Việt, Việt Thường và
một số nước Việt khác phiá nam vẫn còn giữ được nền độc lập.
Cần
xem khám phá mới của Stephen
Oppenheimer tác giả Eden in the East: The Drowned Continent of
Southeast Asia (Địa Đàng ở Phường Đông: Lục Địa Đông Nam Á Bị Chìm Dưới Đáy Biển)
để thấy nền văn minh Hoa Nam trãi dài xuống Đông Nam Á và các hải đảo ở Thái
Bình Dường. Các dân tộc như Mân Việt, Ngô Việt, Âu Việt gồm các bộ tộc, Phúc
Kiên, Triều Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, Hẹ, Hải Nam, Đai Loan, Thái, Nam Dưong
và các thổ dân ở vủng đảo Thái Bình Dường đều có nguồn gốc Bách Việt.
Do
các dân tộc Bách Việt đã sinh sống ở miền Hoa Nam trưóc khi vùng nầy
bị Tần Hán xâm lược, dân Việt phải là chủ nhân ông nền văn hoá thời bấy giờ.
Các khám phá khảo cổ về văn minh Hoa Nam trước thời Tần và Hán thuộc
phải được coi là chỉ dấu của văn minh Việt, chứ không thể là của Hán tộc. Người
Việt cần phải coi đó là di sản của Việt tộc và phải mạnh dạn giành lại chủ quyền
văn hoá của mình.
Các
nhà nhân chủng học Đài Loan gần đây đã tìm cách phục hồi lại nguồn gốc Bách Việt
của ngừời Đài Loan như Phúc Kiến (Minnan, Mân Nam) và Hẹ (Hakka) là hai giống
dân đông nhất trên đảo.
Hiện
nay có nhiều nghiên cứu về DNA đã xác định quan hệ chủng tộc của các dân tộc
Bách Việt. Cụ thể là trong tác phẩm nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen
di truyền (DNA) của nhà nghiên cứu M. Liu của Mackay Memorial hospital và được
viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ, tác giả M. Liu chứng
minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dường có
liên hệ gen di truyên khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc.
Những
khám mới về nhân chủng học của Đài Loan đã chiếu ánh sáng vào lịch sử nòi giống
Bách Việt. Chúng ta có thể xác định rằng dân Bách Việt đã từng chiếm lĩnh miền
Hoa Nam và dần dà bị Hán tộc xâm lăng và đồng hoá. Chỉ có Việt Nam hiện
nay tức là Âu Lạc, Lạc Việt, Việt Thường và Đại Việt sau nầy, là còn giữ được
văn hoá của Bách Việt.
Vấn
đề người Tàu lập đế nghiệp ở Đại Việt
Sau
khi đã xác định được địa lý văn hoá vùng Bách Việt chúng ta hãy trở về với một
bí ẩn lịch sử của dân tộc ta. Đó là từ nhà tiền Lý (Lý Nam Đế) đến
nhà Tây Sơn, một số các các triều vua lớn được sử sách của ta cho là có gốc từ
Tàu.
Về
Lý Nam Đế, sử gia Trần Trọng Kim viết: “Lý Bôn, có người gọi
là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy
sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là bảy đời, thành ra người bản xứ.”
Về dòng dõi nhà Trần, Đại Việt Sử Toàn Thư viết về gia phà của vua Trần Thái Tông như sau: “trước kia tổ tiên vua là người đất Mân, (có ngườì nói là Quế Lâm), có người tên là Kinh, đến ở hường Tức Mặc phủ Thiên Tường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua con của Thừa, mẹ họ Lê … (ĐVSKTT tr 159)
Về dòng dõi nhà Trần, Đại Việt Sử Toàn Thư viết về gia phà của vua Trần Thái Tông như sau: “trước kia tổ tiên vua là người đất Mân, (có ngườì nói là Quế Lâm), có người tên là Kinh, đến ở hường Tức Mặc phủ Thiên Tường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua con của Thừa, mẹ họ Lê … (ĐVSKTT tr 159)
Về
Hồ Quí Ly, Đại Việt Sử Ký toàn Thư viết: “Quý Ly, tự là Lý Nguyên, tự suy tổ
tiên là Hồ Hưng Dật vốn ở Chiết Giang, đời Hậu Hán, thời Ngũ Quí sang làm thái
thú Diễn Châu.”(ĐVSKTT tr 293).
Về
nhà Tây Sơn, Việt nam Sử Lược của Trần Trọng Kim viết: “Nguyên tổ bốn đời của
Nguyễn Nhạc là họ Hồ, cùng một tổ với Hồ Quí Ly ngày trước…” (VNSL Trần
trọng Kim tr. 144).
Như
thế thì có ít nhất là bốn triều đại như Tiền Lý, Trần, Hồ, Tây Sơn đều là người
gốc ở phương bắc và xuống phương nam lập nên đế nghiệp.
Phải
chăng những vị lập nên các triều đại nầy là người Hán? Để giải đáp bài
toán lịch sử nầy chúng ta phải xét lại hiện tượng phục hoạt của Việt tính hay ý
thức Việt ở trong các triều đại nói trên.
SỰ
PHỤC HOẠT CỦA VIỆT TÍNH TRONG THỜI KỲ BẮC THUỘC
Từ
khi cuộc kháng chiến chống quân Hán xâm lược của Lữ Gia và Triệu Dường Vưong thất
bại (111 TCN) đất Nam Việt bị nhà Hán chiếm đóng và danh xưng Việt đã bị
linh lạc bởi quá trình đô hộ và đồng hoá. Từ thời kỳ Hán thuộc trở đi, danh
xưng Việt đã biến mất trong các sách sử của Trung Quốc, và được thay thế bằng
hai chữ An nam và Giao Chỉ. Ngay cả thời kỳ Hai Bà Trưng danh xưng Việt cũng
chưa được phục hoạt.
Khoảng
cách thời gian giữa Lữ Gia và Lý Bôn là hơn 650 năm. Tại sao khi Lý Bôn (544)
lên ngôi ông lấy đế hiệu là Nam Việt Đế? Ý thức Việt trong đế hiệu đó ở đâu ra?
Phải chăng suốt 650 năm bị Hán hoá, một tầng lớp nhân dân Bách Việt từ miền
Lĩnh Nam rút về vùng đất  Lạc, Việt Thường vẫn giữ vững ý thức Việt, lưu giữ
và bảo tồn nó qua không gian và thời gian.
Lịch
sử chiếm đóng miền miền Lĩnh Nam của nhà Hán đi liền với những nổi dậy
của dân tộc Việt và những cuộc đàn áp khốc liệt. Suốt hai ngàn năm, địa danh
Lĩnh Nam biểu tượng cho tinh thần chống lại Hán hoá. Ngưòi dân miền nầy
đưọc gọi là “Lục Lường” hay “Cường Lường” nghĩa là dân cứng cổ. (theo Lê
Văn Siêu và Lý Đông A). Người đọc sử cần hiểu ý nghĩa về xã hội loạn lạc
thời Hán ở vùng Lĩnh Nam. Khi sử gia Trần Trọng Kim viết: “ Tổ
tiên (Lý Bôn) ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu.” người
đọc sử phải hiểu rằng “Loạn” là những cuộc nổi dậy của dân bản địa nổi lên đánh
đuổi chính quyền đô hộ phưong bắc.
Đây
là lý do hợp lý nhất để giải thích sự kiện dòng họ Lý Bôn đã đi về phường Nam.
Khi đã định cư ở Âu Lạc, dòng họ nầy vẫn ấp ủ tinh thần Phục Việt từ thế hệ nầy
qua thế hệ khác. Họ chờ đợi để được thấy một ngày nào đó danh xưng Việt được
tái hiện trong lịch sử. Dòng họ Lý Bôn và những dòng họ Bách Việt khác đã đã
truyền lại cho con cháu mối quyết tâm nuôi dưỡng tinh thần quật khởi đợi ngày
giành lại non sông.
Chỉ
bằng sự xác định được quan hệ giữa Bách Việt và Lý Bôn chúng ta mới hiểu được tại
sao ý thức Việt đã được phục hoạt trong phong trào độc lập của nhà Tiền Lý. Nếu
nói “Lý Bôn là dòng dõi người Tàu” như sử gia Trần Trọng Kim viết,
thì e rằng chúng ta không giải thích được hiện tượng phục hoạt danh xưng Việt ở
thời kỳ đó.
Đặc
biệt là thời kỳ Lý Trần là thời kỳ cực thịnh của văn hoá Việt. Câu hỏi có thể đặt
ra là nếu họ Trần có gốc Tàu thì tại sao họ Trần phải phục hưng văn hoá Việt?
Hay
như trong hịch Tây Sơn của đức Quang Trung Hoàng đế kêu gọi : “đánh cho được
để tóc dài, đánh cho được nhuộm răng đen, đánh cho nó chích luận bất phản, đánh
cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Nếu cho rằng Quang Trung mang dòng máu Tàu thì tại sao ông đòi đánh Tàu để dân
tộc Việt được giữ gìn tục để tóc dài, ăn trầu, nhuộm răng đen, để cho bọn Tàu
biết là nước Nam nầy là có chủ. Và khi đã diệt được quân xâm lược ngài đã yêu
sách đòi nhà Thanh phải trả lại miền Lưỡng Quảng, tức là vùng Lĩnh nam thời cổ
đại?
Chỉ
có một câu trả lời hữu lý duy nhất là ông tổ của các dòng họ như Lý Bôn, Trần
Thừa, Hồ Quí Ly và nhà Tây Sơn là những người thuộc giòng giống Bách Việt. Những
dòng tộc nầy đã thất bại trong những lần nổi dậy chống quân xâm lược và đã lui
về phường nam tìm đất sống. Họ đã hoà nhập vào văn hoá Âu Lạc, Lạc Việt và Việt
Thường để trở thành người dân địa phường. Họ đã cùng với các dòng tộc Việt địa
phường nuôi duỡng ý chí Phục Việt âm thầm dưới đáy tầng quốc dân từ đời nầy qua
đời khác để lấy ý thức dân tộc làm sức mạnh kháng cự tham vọng của Hán tộc để bảo
tồn văn hoá và giành lại độc lập cho dân tộc Việt.
Bách
Việt trong Lòng Đại Việt
Nói
tóm lại, lịch sử tồn tục và tiến hoá của dân tộc Việt là hành trình lui dần về
phường nam trước sự lớn mạnh của Hán tộc để bảo tồn nòi giống. Từ thời cổ đại,
dân tộc Việt đã mất Thái Sơn là cái nôi văn hoá đầu tiên. Sau khi Thái Sơn bị
Hoàng Đế xâm chiếm, con cháu Thần Nông đã rút về Đông Đình Hồ vùng
Lĩnh Nam để xây dựng lại căn cứ địa văn hoá lần thứ hai. Khi Lữ Gia
thất trận, các dân tộc Bách Việt thuộc nước Nam Việt đã chạy vê Phong Châu ở
phường nam hội nhập vào Âu Lạc để xây dựng lại căn cứ địa văn hoá thứ ba. (Xem
Việt Sử Thông Luận của Lý Đông A, và Dịch Kinh Linh Thể của Kim Định)
Đây
là lý do khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa các dân tộc Bách Việt thuộc 65 thành ở
Lĩnh nam đã hưởng ứng. Địa lý chính trị thời kỳ Hai Bà chính là vùng
Lĩnh Nam và nước Nam Việt cũ. Mặc dầu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng thất bại, công cuộc thống nhất Bách Việt của Hai Bà đã tái hợp Bách Việt
và kéo các dân tộc Bách Việt ngồi lại với nhau. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà đã
cho các dân tộc Bách Việt miền Hoa Nam niềm hy vọng phục hoạt dân tộc
Việt. Vùng đất Âu Lạc với những địa linh như Phong Châu, Mê Linh và những nhân
kiệt như Hai Bà Trưng và Bà Triệu, và những danh tướng trong đoàn quân kháng
chiến, đã nêu tấm gương yêu nước và là niềm hy vọng cho nòi giống Bách Việt.
Sau
thời kỳ Hai Bà Trưng các dân tộc Bách Việt với dân tộc Âu Lạc đã hội nhập lại với
nhau. Bên cạnh đó sự xuất hiện của Phật Giáo như là một hệ thống triết học và
văn hoá trong thời kỳ nầy đã tạo nên một sức mạnh văn hoá mới được dân Việt
nhanh chóng tiếp thu, và đã giúp cho dân Việt có chổ dựa tinh thần và vật chất.
Về tinh thần, Phật Giáo hoà nhập vào văn hoá dân tộc để chống lại quá trình Hán
hoá. Về vật chất, chùa chiền trở thành những trung tâm nối kết và vận động lịch
sử từ miền Ngũ Lĩnh xuống đến tận Việt Thường. Luy Lâu (Bắc Ninh) trở thành
trung tâm Phật Giáo miền Hoa Nam. Các tổ sư Mâu Bác, Huệ Năng đưa Phật
giáo tới đỉnh cao của thiền học. Võ thuật cũng được phát triển mạnh mẽ vùng
Lĩnh Nam trong thời kỳ nầy. Do đó, chúng ta thấy bên cạnh những phong
trào kháng chiến thời Hán thuộc đều có bóng dáng của những cao tăng. Và trong
thời kỳ độc lập, các thiền sư như Ngô Chân Lưu, Khuông Việt và Vạn Hạnh đã đóng
một vai trò tích cực trong việc phục hồi văn hoá dân tộc và xây dựng đất nước.
Nhờ những định chế văn hoá mới dưới hình thức tôn giáo nầy các dân tộc Bách Việt
ở Âu Lạc đã tụ họp với nhau, bảo lưu được văn hoá và lịch sử dân tộc, và nuôi
dưỡng được ý chí phục Việt.
Chiến
Lược Phục Hoạt Văn Hoá Bách Việt
Sau
gần một nghìn năm bị nòi Hán đô hộ, hai triều đại Lý-Trần, khởi đi từ Lý Nam Đế,
đã phục hưng và phục hoạt lại nền độc lập và văn hóa Việt, xây dựng một nước Đại
Việt hùng mạnh suốt gần 500 năm.
Ngày
nay đất nước ta đang bước vào thế kỷ thứ 21. Sự lớn mạnh của Trung Hoa ngày nay
hiện đang là mối đe doạ cho sự tồn vong của dân tộc. Vấn đề biên giới, lãnh hải,
lãnh thổ giữa hai nước vẩn chưa ổn định và sẽ là mầm mống mâu thuần trong tường
lai và cho thế hệ mai sau. Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa vẫn là mối ưu tư hàng đầu
của mọi người Việt còn thao thức với đất nước.
Trong
bối cảnh đó, xác định được văn hoá Bách Việt và quan hệ chủng tộc giữa người Việt
và các dân tộc miền Hoa Nam là tiền đề cho một sức mạnh tinh thần để
đối phó với nước láng giềng phường bắc. Để khai quật được sức mạnh tinh thần nầy,
Người Việt cần có một suy nghĩ mới và một chính sách văn hoá mới đối với các nước
đồng chủng trong vùng và đối với Hoa Kiều đang định cư tại Việt Nam.
Cái
cơ sở nền tảng để khai quật được sức mạnh tinh thần Đại Bách Việt hiện đại là ý
thức rằng dân tộc Việt ngày nay là dân tộc thừa kế chân truyền di sản văn hoá
Bách Việt ngày xưa. Và di sản văn hoá và văn minh Bách Việt cổ xưa đã được lưu
giữ và bảo tồn trong trong quá trình hình thành nước Đại Việt và Việt Nam hiện
đại. Với ý thức đó, người Việt hiện đại phải có cái nhìn mới và chính xác về lịch
sử nước nhà, phải mạnh dạn xác định sự đóng góp của các dòng họ Bách Việt trong
quá trình hình thành lịch sử và văn hoá nước Đại Việt và Việt Nam hiện đại. Đồng
thời chúng ta phải hãnh diện xác nhận dân tộc Việt hiện đại là dân tộc kế thừa
và là chủ nhân ông di sản văn hoá Đại Bách Việt. Chúng ta phải đóng vai trò chủ
động làm sống lại lịch sử và văn hoá của các dân tộc đồng chủng ở trong vùng và
Hoa kiều gốc Lĩnh nam trong nước.
Từ
cơ sở đó, người viết đề nghị ba sứ mạng văn hoá như sau:
§
Thứ
nhất, cần phải có một nghiên cứu sử chính thức và học trình sử để chính thống
hoá giá trị văn hoá Bách Việt trong sự hình thành văn hoá Việt Nam ngày nay.
§
Thứ
hai, phái có một chính sách hợp tác văn hoá đối với các nước đồng chủng ở Á
Châu, đặc biệt là vùng Đông nam Á.
§
Thứ
ba, phải có một quan niệm mới đối với người Hoa hiện đang ở Việt Nam.
Sự
xác định tính đồng chủng của các dân tộc Hoa Nam và Đông nam Á có chung huyết
thống Bách Việt như các nước Đông Nam Á, các dân tộc miền Hoa Nam và Đài Loan
và sự tái kiến thiết văn minh Bách Việt, sẽ là đối lực thích hợp đối với tham vọng
về lãnh thổ, lãnh địa và văn hoá của Trung Hoa. Từ nhận định đó, chúng ta phải
có một chính sách ngoại giao mới đối với các nước Đông Nam Á. ASEAN sẽ có một
vai trò văn hoá mới ngoài vai trò kinh tế, chính trị và quân sự. Ý thức đồng chủng
sẽ giúp cho ASEAN mở rộng vòng tay để đón Đài loan và các đảo quốc ở Thái Bình
Dương nhằm mở rộng không gian Bách Việt mới và để gây sức mạnh tinh thần trong
liên minh các nước ở vùng Biển Đông.
Vấn
đề quan trọng hơn là khi đã nhận diện được tính đồng chủng Bách Việt, người
Việt trong nước và hải ngoại phải có một quan niệm mới và sách lược mới về Hoa
Kiều ở Việt Nam.
Đối
với thành phần Hoa Kiều xuất xứ từ Hoa Nam hay Lĩnh Nam như người Quảng Đông,
Phúc Kiến, Triều Châu, Đài loan, Hải Nam, trước hết người Việt chúng ta cần phải
chấm dứt não trạng xem họ là những người Trung Hoa hay người Hán. Chúng ta phải
coi họ là người Bách Việt, người Lĩnh Nam. Họ là nạn nhân lâu đời của quá
trình Hán hoá. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tái hội nhập họ vào cộng đồng văn
hoá Bách Việt hiện đại.
Công
tác văn hoá chủ yếu đối với thành phần Hoa Kiều từ miền Lĩnh Nam là phải giúp họ
ý thức được họ là dòng dõi Bách Việt. Chúng ta phải giúp cho các dân tộc miền
Lĩnh Nam phục hồi được lịch sử Việt để cho dòng máu Việt bắt đầu chảy
lại. Chúng ta phải giúp họ ý thức rằng mọi dân tộc xuất phát từ miền Bách Việt
Lĩnh Nam đều là ngườì gốc Việt như chúng ta. Những người Hoa vùng
Hoa Nam trưóc đây sẽ trở lại với nguồn gốc chân chính của họ là người
Bách Việt. Từ đó, một cộng đồng dân tộc Việt mới sẽ được hình thành. Và cộng đồng
dân tộc mới nầy sẽ có sức mạnh văn hoá chất chứa 5,000 năm của Đại Bách Việt và
một vùng địa lý văn hoá trãi rộng từ Hoa Nam xuống tận Đông Nam Á. Sức
mạnh văn hoá mới đó có khả năng hoá giải sách lược dùng Hoa Kiều làm nội gián
cho chiến dịch xâm thực tầm gửi của Trung Quốc hiện nay trên đất nước ta và các
nước trong vùng Biển Đông.
Kết
luận
Hồn
sử là sự tồn tục và tiến hoá của dân tộc trên sự thành lập của nòi giống. Cái ý
thức của tổ tiên khai sinh ra nòi giống tạo thành cái quốc túy dân tộc. Do đó,
quốc hồn và quốc túy của một dân tộc là thành tố gốc của lịch sử. Một dân tộc mất
quốc hồn và quốc túy là một dân tộc sẽ bị lịch sử đào thãi. Mọi con người, mọi
triều đại khi cầm nắm vận mệnh đất nước nếu không nắm giữ được quốc hồn và quốc
túy sẽ bị lạc đường lịch sử và đưa đất nước vào tình trạng vong thân. Vì thế,
những phong trào chống xâm lăng đều lấy ý thức dân tộc làm động lực lịch sử và
lấy văn hoá thủy chuẩn dân tộc làm nền tảng nội dung cho sứ mệnh cứu nước. Ý thức
lịch sử nầy đã thúc đẩy Lý Thường Kiệt viết Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư thời kỳ
Phá Tống Bình Chiêm; Trần Hưng Đạo viết Hịch Tướng Sĩ thời kỳ Kháng Nguyên;
Nguyễn Trãi viết BìnhNgô Đại Cáo và bộ Địa Dư Chí, Quang Trung viết hịch tướng
sĩ với những dòng chữ “Đánh cho đưọc để tóc dài”; giúp cho Phan Bội Châu viết
Việt Nam Quốc Sử Khảo; và Lý Đông A viết bộ Việt Sử Thông Luận trong thời kỳ chống
Pháp.
Ý
thức dân tộc vượt lên mọi định kiến về văn hoá kinh tế và chính trị. Ý thức dân
tộc tồn tại qua mọi không gian, thời đại và triều đại. Nó nằm trong lòng mỗi một
người dân. Nó phủ định mọi tư duy phủ nhận văn hoá dân tộc. Nó phủ định mọi nổ
lực xử dụng văn hoá dân tộc ở mức độ hình thức để phục vụ cho nền văn hoá ngoại
bang ở nội dung. Tìm về cội nguồn chính là quá trình tìm lại hồn sử.
Suốt
một ngàn năm bị bắc phường đô hộ và đồng hoá, ý thức dân tộc vẫn nằm ẩn tàng
trong đáy tầng của quốc dân. Nó được bảo quản và lưu truyền từ đời nầy qua đời
khác. Nó là ĐNA lịch sử làm cho giòng máu Lạc Hồng tiếp tục chảy, và chảy mãi
xuyên suốt thời đại.
Khi
nền cai trị của ngoại bang suy yếu, khi tâm thức nô lệ ngoại bang ở mặt tầng
suy sụp, ý thức dân tộc từ đáy tầng sẽ bùng dậy như những đợt sóng đáy, thúc đẩy
những người yêu nước đứng lên giành lấy quyền làm chủ đất nước, làm chủ vận mạng
của mình để phục hồi văn hoá thủy chuẩn dân tộc, để bảo tồn và phát huy ý thức
dân tộc, và để khơi dậy nguồn sống cho dân tộc.
Với
tâm thức đó, lịch sử có được một Lý Bôn với một dòng họ bôn ba từ miền Lĩnh Nam
nổi trôi về miền Âu Lạc, và ông đã đứng lên giành độc lập cho dân tộc, lấy đế
hiệu là Nam Việt Đế, đặt tên nước là Vạn xuân.
Sự
việc Lý Bôn làm tái sinh danh xưng Việt với đế hiệu là Nam Việt Đế là một hành
động lịch sử khởi động cho nền văn hoá Bách Việt được hồi sinh để nền văn hoá
Bách Việt còn lưu truyền mãi trong lòng dân tộc Đại Việt; và từ đó Đại Việt đã
trở thành căn cứ địa phục hoạt và phục hưng nền văn minh Bách Việt.
LS
Nguyễn Xuân Phước
Tham khảo:
-Các
tác giả: Lý Đông A, Trần Ngọc Thêm, Cung Đình Thanh, Phạm Việt Châu, Lê
Văn Siêu, Đào Duy Anh, Stephen Oppenheimer, Keith Weller Taylor, National
Geographics, Trần Thế Pháp, Kim Định, Trần Trọng Kim, Đại Việt Sử Ký
– Google
search: “Bách Việt, Lĩnh Nam, Linnan, Yueh, bǎi
yuè, Lý Nam Đế, Lý Bôn, Quang
Trung, Việt Sử, Taiwanese DNA,
No comments:
Post a Comment