Có thể nói, trong lịch sử Việt Nam cận đại, năm 1945
là năm hội tụ những biến cố xã hội trọng đại nhất liên quan đến số phận của cả
giống nòi. Từ thời điểm đó trở đi, đất nước và dân tộc đi vào trào lưu chính trị
khai phóng văn minh hay là tự lạc vào mê lộ của thứ chính trị chỉ đem đến những
đọa đày mà xuất phát điểm của nó là các yếu tố hoàn toàn ngoại lai, xa lạ với
phẩm chất và truyền thống dân tộc? Câu hỏi đó đến nay đã quá đủ dữ liệu để trả
lời. Tôi nghĩ rằng ai ai cũng nghĩ như những gì tôi sẽ viết dưới đây thôi, chỉ
có điều nói ra làm gì và nói ra để được cái gì? Thì đó lại là một câu chuyện
hoàn toàn khác, một quyết định chọn lựa có thể dẫn đến những hệ lụy chết người,
vậy mà nhiều người vẫn tự dấn thân vào. Phải chăng điều đó là số phận hay là tất
yếu? Tôi nghĩ là cả hai.
Bản
Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên & Đế quốc Việt Nam
Có quá nhiều người Việt Nam hôm nay không biết rằng
5 tháng trước ngày ông Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại quảng trường Ba Đình 2-9-1945, thì đã có bản
Tuyên Ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam với thế giới, đó là Bản Tuyên
Ngôn ngày 11-3-1945 của Hoàng Đế Bảo Đại. Sau khi triều đình nhà Nguyễn
tuyên hủy Hiệp Ước Patenotre và sau khi Hoàng Đế Bảo Đại chuẩn y để toàn thể
các Thượng Thư lục bộ của triều đình Huế đồng loạt xin từ chức, vua Bảo Đại
tuyên bố Việt Nam độc lập và Đế Quốc Việt Nam đã ra đời. Tư duy của người đời
nay dễ dị ứng là sao quốc hiệu lại có vẻ phản cảm như thế? Ngược dòng lịch sử
ta thấy khi kho tàng tiếng Việt chưa xuất hiện cụm từ “Quân Chủ Lập Hiến” thì “Đế
Quốc Việt Nam” chỉ thuần túy là cách gọi tên của một quốc gia lập hiến
có sự hiện diện của ngôi vua, tương tự như Thái Lan, Ấn Độ, Anh Quốc, Hà Lan,
Úc... hoàn toàn không có nghĩa xấu như tên gọi Đế Quốc Mỹ sau này. Đế Quốc Việt
Nam là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam độc lập với ngày Quốc Khánh là ngày
11-3-1945.
Chính phủ đầu tiên của Đế Quốc Việt Nam do học giả
Trần Trọng Kim đứng ra tạo dựng. Chính phủ này quy tụ 100% là trí thức Việt Nam
ở bậc thượng thặng lúc đó, họ đã chọn Thủ đô là Phú Xuân.
Quốc kỳ là lá cờ Quẻ
Ly
Quốc kỳ là lá cờ Quẻ Ly, Quốc ca là bài Đăng
Đàn Cung với lời lẽ nhân ái, bình dị, không có mùi máu người, thây
người cùng sự thôi thúc khói lửa binh đao như bài Tiến Quân Ca của Văn Cao mà
những người cộng sản Việt Nam trong kỳ họp quốc hội khóa I - 1946 đã chọn. Đây
là lời ca của Đăng Đàn Cung:
“Kìa núi vàng bể bạc
Có sách trời... sách trời định phần!
Một dòng ta - gầy non sông vững chắc.
Đã ba ngàn mấy trăm năm!
Bắc Nam cùng một nhà con Hồng cháu Lạc.
Văn minh đào tạo
Màu gấm hoa càng đượm
Rạng vẻ dòng giống Tiên Long.
Ấy công gầy dựng
Từ xưa đà khó nhọc
Nhớ ơn dày nặng
Lòng trung quân đã sẵn
Cố thương nhau... thương nhau một niềm.
Nguyện nhà Việt Nam muôn đời thạnh trị.”
Ngôn ngữ chính thống của Đế Quốc Việt Nam là tiếng
Việt, Hoàng Đế là Bảo Đại, Tổng Lý (Thủ Tướng) là Trần Trọng Kim (1883-1953)...
Nội các Chính phủ Trần Trọng Kim, từ trái sang phải:
Hoàng Xuân Hãn, Hồ Tá Khanh, Trịnh Đình Thảo, Trần Trọng Kim (bị micro che mặt),
Vũ Ngọc Anh, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Vũ Văn Hiền, Phan Anh, Nguyễn Hữu
Thi (ảnh Trung Bắc Chủ Nhật, 20.5.1945, Thư viện Quốc gia Pháp).
Vì nhiều lý do tế nhị, trong đó có lý do để tránh
cho dân tộc khỏi bị cuốn vào cơn lốc của thế chiến II đang ở giai đoạn tàn lụi
mà nội các Trần Trọng Kim không thành lập Bộ Quốc Phòng, mọi lo toan bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ vẫn phải nhờ quân đội Nhật. Về vấn đề này, giáo sư Lê Xuân Khoa
viết:
“Chính phủ Trần Trọng Kim mang tiếng là thân Nhật,
nhưng thật ra chỉ là lợi dụng cơ hội Nhật đảo chính Pháp để nắm lấy quyền cai
trị, nhằm dần dần phục hồi độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Đó là phương cách thực
tế và khôn ngoan nhất mà bất cứ một chính trị gia sáng suốt nào, kể cả Hồ Chí
Minh cũng sẽ chọn lựa vào lúc đó”.
Đế Quốc Việt Nam ra đời và chỉ tồn tại được trong 5
tháng, từ tháng 3-1945 đến 8-1945. Tháng 8-1945 trong biến cố cướp chính quyền
do Việt Minh phát động, nội các của Thủ tướng Trần Trọng Kim không chủ trương bạo
động, không hề muốn có việc chém giết người Việt, ông Kim đã thẳng thừng từ chối
lời gợi ý của tư lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương rằng, nếu ông Kim muốn, quân đội
Thiên Hoàng lúc đó tuy đã thất thế trước đồng minh, họ vẫn dư sức giúp tiêu diệt
sạch lực lượng Việt Minh lúc đó còn rất yếu. Quá tin những người cộng sản núp
bóng Việt Minh sẽ đặt tổ quốc lên trên hết, dân tộc lên trên hết, Thủ Tướng Trần
Trọng Kim cùng các thành viên chính phủ chủ động trao chính quyền cho Việt Minh
trong ngày 23-8-1945 mà không hề có bất cứ một hành động quân sự chống đối
nào.
Rất tiếc vị Thủ Tướng đầu tiên của chính phủ quân chủ
lập hiến đầu tiên của Việt Nam không hề biết thế giới quan của người cộng sản lại
là cộng sản Việt Nam là“Mục Hạ Vô Nhân”, tức là chỉ có ĐCS là đỉnh
cao trí tuệ, là trên hết... nên kể cả khi chưa cướp được chính quyền họ đã hoàn
toàn phủ nhận sự hiện diện của Đế Quốc Việt Nam. Trong con mắt của Việt Minh
thì chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ chẳng ra gì. Theo họ thì vua Bảo
Đại chỉ là kẻ đàng điếm, ăn chơi vô tích sự, chính thể do ông ta tạo ra vẫn phải
dựa vào Nhật Bản để tồn tại... thì đó chỉ là một chính phủ bù nhìn không thể
công nhận và theo cương lĩnh chính trị của họ, chính quyền Việt Nam phải dựa
trên liên minh công - nông sau này được gắn thêm cái đuôi kệch cỡm “Của
Dân - Do Dân - Vì Dân” đầy huyễn hoặc. Nền học vấn của thế hệ chúng tôi
vẫn đinh ninh điều đó là đúng, rằng Tuyên Ngôn độc lập ngày 2-9-1945 của ông Hồ
Chí Minh tại quảng trường Ba Đình mới là number one. Thứ chính trị áp đặt vô lối
đó có tôn trọng sự thật lịch sử không? Câu trả lời là không. Khi thế giới là thế
giới phẳng, nhờ sự bùng nổ thông tin Internet mà nhiều giá trị tưởng rằng bất
biến đã thi nhau lung lay và đổ vỡ. Người đời đã biết đến một thứ gọi là “Chính
chọe” xác lập trên những trí trá, lèo lái, áp đặt, tô vẽ hết sức chủ quan của kẻ
cầm quyền. Kiểu như hôm nay lãnh đạo Hà Nội nói: “Thay thế cây xanh là
để môi trường sống Hà Nội ngày một tốt lên!”, nhưng thực chất đây lại là một
cuộc làm ăn của đám lâm tặc thuộc đủ cấp bậc được bảo kê, ngang nhiên diễn ra
giữa lòng thủ đô.
Nhiều thập kỷ đã trôi qua, giờ đây nói nội các Trần
Trọng Kim là nội các thân Nhật thì vẫn đúng, còn nói nội các Trần Trọng Kim chỉ
là bù nhìn của Nhật Bản thì có quá chủ quan không, khi chỉ trong 126 ngày tồn tại
(Từ 17-4-1945 đến 23-8-1945) họ đã làm được cả một núi công việc có lợi cho quốc
kế dân sinh như:
- Thả tù chính trị.
- Thành lập tổ chức Thanh Niên Tiền Tuyến.
- Thu hồi Nam Kỳ.
- Cải cách hành chính.
- Sơ thảo hiến pháp.
- Thay thế các ảnh hưởng của Pháp.
- Đưa quốc ngữ vào vị trí ngôn ngữ chính.
- Cứu đói.
Vậy mà ông Trần Trọng Kim vẫn sòng phẳng và ngang ngửa
trước Tổng Tư Lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương Tsuchihashi đến như thế
này:
“Quân đội nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa
hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự
khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước
tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật…Nếu các ông cho tôi là người làm
việc cho nước Nhật, việc đó không phải là phận sự của tôi. Tôi sẵn sàng xin
lui” (Lệ Thần Trần Trọng Kim).
Tôi nghĩ rằng nếu như chính trường Việt Nam ngay từ
những ngày tháng 8-1945 trở đi được vận hành bởi những những tập thể có những dự
án chính trị trong sáng, những chính khách lương thiện đủ tâm đức và tài năng
lèo lái dân tộc tránh được 2 cuộc đổ máu 1945-1954 và 1955-1975 khủng khiếp nhất
trong lịch sử 4000 năm mà vẫn đi đến được độc lập như hơn 40 nước cùng cảnh ngộ
thuộc địa thì đến nay, nếu Việt Nam không ngang phân với Nhật Bản thì cũng
không phải tủi phận ở vị trí đội sổ Asean đang bị Lào và Campuchia qua mặt và bị
kẻ cuồng bạo phương Bắc không ngừng cưỡng bức như hiện nay. Rất tiếc nền chính
trị của Việt Nam sau những ngày 8-1945 đã không đi vào những chính đạo dẫn đến
những rạng rỡ, lại lạc bước trên những mê lộ vòng vèo chỉ dẫn đến những trớ
trêu, chia rẽ, những bế tắc nhuốm mầu đọa đầy vẫn do ngoại bang chi phối. Có thể
nói, chính khách Việt Nam từ 8-1945 trở đi... họ thực sự chỉ làm nhiệm vụ của
những quân cờ trên bàn của các siêu cường.
Đế
quốc Việt Nam năm xưa và CHXHCN Việt Nam hôm nay... ai phụ thuộc ngoại bang hơn
ai?
Thật là một trớ trêu, 70 năm sau ngày người cộng sản
Việt Nam giải thể nội các Trần Trọng Kim và coi Đế Quốc Việt Nam chỉ là bù nhìn
phụ thuộc Nhật Bản... thì lúc này quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc có khác
gì đâu cái tư thế ngày nào của chính phủ Trần Trọng Kim trước Nhật Bản. Tự nguyện
núp dưới “Lá Bùa 16 chữ vàng và 4 tốt” đầy ma mị của Trung Quốc,
mỗi lần đứng trước các ông lớn Bắc Triều, ban lãnh đạo Việt Nam hôm nay...
không một ai có được, chỉ 1/3 cái khí phách của ông Trần Trọng Kim trước các võ
quan Nhật Bản ngày nào qua trích đoạn trên.
Trong con mắt của những người cộng sản, chính thể
VNCH cũng chẳng tốt đẹp hơn gì "nội các bù nhìn" Trần Trọng Kim.
Nhưng... hãy cùng một lần nhìn lại ánh mắt của phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ khi
ông đứng trước người đồng minh Hoa Kỳ của VNCH, cũng là những kẻ đã khai tử cho
chế độ này...
Người mang kính gọng đen đứng bên tay mặt ông Kỳ là
Tiến sĩ H. Kissinger kiến trúc sư số 1 cho cái chết của VNCH
Một cú cúi chào không bình thường của ôngTrương Tấn Sang, làm rầu lòng người dân Việt
Và hãy cùng đọc lại một vài xuất ngôn đình đám nhất
của cuộc đua để được lòng Trung Quốc của một số ứng cử viên cho chiếc ghế TBT
trong nhiệm kỳ tới, sẽ thấy tư chất bù nhìn, phụ thuộc đâu chỉ có ở nội các Trần
Trọng kim và VNCH. Nếu ông Phùng Quang Thanh bầy tỏ nỗi lòng mình với Trung Quốc
bằng sự xót xa hết sức vong bản, giả dối, trơ trẽn và sống sượng:
“Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế
nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực
cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc...”
thì ông Nguyễn Tấn Dũng một người đã từng nổi tiếng
là người cấp tiến, ưa Mỹ, thích phương Tây và ghét Tàu nhất, vậy mà giữa lúc
Liên xô với hồ sơ Crime, Trung cộng với hồ sơ Biển Đông... đang bắt tay nhau, cảm
thông và ủng hộ nhau rất bất lợi cho Việt Nam, giữa lúc quan hệ Việt-Mỹ và vấn
đề vào TPP của Việt Nam đang rất tế nhị và Mỹ đang có vai trò đối trọng đủ sức
làm phá sản những tham vọng của Trung cộng ở Biển Đông thì diễn văn đọc trong lễ
kỷ niệm 30-4 vừa qua tại Sài gòn, ông Dũng đã làm nhiều người ngơ ngác khi ông
thể hiện ông là một Nguyễn Tấn Dũng vẫn tiếp tục đánh Mỹ đến cùng và quỵ lụy
Tàu cũng không kém đối thủ chính trị nào. Ông Dũng đánh đi tín hiệu này cho ai
đây và người đời sẽ có cảm nghĩ gì về tư thế của Việt Nam trước các siêu cường
khi nghe lời miệt thị người này và lời cám ơn người khác đặt ra rất không đúng
lúc của ông Dũng:
"Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực
dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo
cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc.
Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng
bào ta, đất nước ta..." và "Tại buổi
lễ trọng thể này, một lần nữa chúng ta chân thành cảm ơn các nước XHCN, nhất là
Liên Xô, Trung Quốc".
Với người quan tâm tới thế sự, ai mà chẳng bâng
khuâng và tâm tư... khi một chính khách lọc lõi như ông Dũng, người đã từng nhiều
lần thoát hiểm một cách ngoạn mục trước các “Hố Đen” chính trị
do các đồng chí của ông tạo ra... lại có thể có những phát ngôn hớ hênh thiếu
thận trọng đến thế sao?
Chê nội các Trần Trọng Kim là bù nhìn của Nhật, miệt
thị VNCH là chư hầu của Mỹ... vậy thử hỏi Việt Nam hôm nay Tự Do - Độc Lập - Tự
Chủ cái gì mà ông Nguyễn Phú Trọng muốn đi Mỹ đã phải đi Tàu để quán triệt định
hướng của Thiên Triều đã (!?).
Và có một hiện tượng ít người để ý là... tuy bị mang
tiếng là bù nhìn của Nhật Bản, nội các Trần Trọng Kim và hậu duệ sau này của họ
là Việt Nam Cộng Hòa đã không hề chủ động làm hư hao một ly, một lai đất đai biển
đảo nào của tổ tiên vào tay ngoại bang, đâu có tệ hại như những thua thiệt về
lãnh thổ, biển đảo luôn chỉ thuộc về phía Việt Nam trong quan hệ giữa Việt Nam
và Trung Quốc qua nhiều thập kỷ.
Đến đây câu hỏi “Đế quốc Việt Nam và
CHXHCN Việt Nam ai phụ thuộc vào ngoại bang hơn ai?” đã có câu trả
lời thuyết phục rồi. Không biết giờ đây dưới những tầng đất sâu trên cao nguyên
Đà Lạt, ông Trần Trọng Kim có khi nào cựa mình mà rơi lệ trước cảnh “Quốc Thổ
trầm luân!”, có chút hối hận nào cho việc đã quá dễ dàng trao quyền cho Việt
Minh 70 năm về trước? Và ông có biết thất bại của ông cũng là thất bại của một
chính phủ 100% là trí thức ở bậc thượng thặng. Đây cũng là một lần trí thức Việt
Nam mất điểm nghiêm trọng nhất trên chính trường nước nhà.. (Còn tiếp).
Sài Gòn một chiều tháng 4-2015
Nguyễn
Thượng Long
Nơi ở: Ngách 102/12 Đường Văn La - Phú La - Hà Đông,
Hà nội.
- Điện thoại: 0433521066 & 01652323836.
- Email: nguyenthuonglong571@gmail.com
Đón đọc: Bài ca tôi đã hát (Phần IV) -
“Chính trị thớ lợ & Trí thức xu thời”
No comments:
Post a Comment