Mặc Lâm
- RFA
2015-02-13
2015-02-13
Thứ
trưởng Vũ Hồng Nam trong cuộc họp báo mang tên “Xuân Quê Hương” vào ngày 30
tháng 1 chào đón kiều bào đã nói rằng theo Nghị quyết 36 của Bộ chính trị thì đại
đoàn kết dân tộc là mục tiêu cao cả, cuối cùng của toàn dân tộc Việt Nam.
Ông
Thứ trưởng còn nói đối với người Việt Nam ở nước ngoài thì Bộ Ngoại giao có
chính sách hàn gắn, đoàn kết dân tộc với những người còn có ý kiến khác, còn có
những hoạt động chống đối, lời nói xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Ủy ban
nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài đã tiếp cận những kiều bào còn định kiến,
cử các đoàn chuyên viên gặp gỡ, trao đổi với đại diện kiều bào ở các nước, có
những chính sách cởi mở hơn nữa để vận động họ trở về...
Đối chiếu với tuyên bố này, thực tế có những bức tranh hoàn toàn
khác đang gây ẩn ức từ việc công an cửa khẩu nhận được chỉ thị cấm hàng trăm
người nhập cảnh mỗi năm theo danh sách mà họ gọi là thành phần chống đối. Trong các thành phần
chống đối ấy công an không loại trừ các trí thức, chuyên gia, hay những người
làm từ thiện mà hoạt động của họ hoàn toàn không có một sự chống đối nguy hiểm
nào.
Trường
hợp thứ nhất là chuyên gia an ninh mạng
Hoàng Ngọc Diêu, anh bị nhà nước cấm cửa không cho vào Việt Nam mặc dù được
mời tham dự một hội thảo chuyên đề về an ninh mạng vào cái tết năm 2012, anh
Hoàng Ngọc Diêu cho biết thêm chi tiết như sau:
"Khoảng
tháng 1 đầu năm 2012 tôi được mời về Việt Nam do một nhóm chuyên gia bảo mật an
toàn thông tin của Việt Nam mời về dự cuộc hội thảo được gọi là “Tetcon” (Viết
tắt của Tết Conference, do được tổ chức vào ngày gần Tết) mình nhận được giấy mời
đàng hoàng, được đài thọ mọi thứ, coi như cái event đó nó được Ủy ban nhân dân
thành phố chấp thuận đầy đủ hết rồi.
Ngày
hôm đó mình chỉ lên máy bay, về tới nơi thì hải quan của phi trường Tân sơn nhất
họ giữ lại, họ lôi vô trong phòng nói chuyện trên trời dưới đất họ tìm cách trì
hoãn thời gian. Lúc đó mình chưa có hiểu rõ là mình không được vô Việt Nam mình
chỉ nghĩ họ muốn biết mình về Việt Nam làm gì thôi không ngờ họ kéo dài ba bốn
tiếng đồng hồ cuối cùng họ nói: thôi bây giờ anh ra máy bay, họ tống cổ lên
chuyến bay kế tiếp bay ngược lại Úc!"
Trường
hợp thứ hai là Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc
giảng dạy tại đại học Victoria thành phố Melbourne nước Úc. Giáo sư bị công an
cửa khẩu từ chối không cho nhập cảnh hai lần, lần đầu tiên vào năm 2005 khi ông
dẫn 14 sinh viên người Úc về Việt Nam để làm một cuộc du khảo vì các sinh viên
này đã theo học tiếng Việt ở Úc và cuộc đi này nhằm góp phần mở mang kiến thức
văn hóa Việt Nam cho các bạn sinh viên. Trong khi tất cả các sinh viên không có
vấn đề gì thì chính bản thân người dẫn đầu lại bị chặn và không cho phép vào Việt
Nam. Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc bị buộc phải lên máy bay quay về Úc ngay sau đó.
Ba
năm sau vào năm 2009 Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc được mời thuyết trình trong một hội
thảo quốc tế về vấn đề giảng dạy ngôn ngữ do trường đại học Hà Nội và một trường
đại học tại Úc đồng tổ chức. Ông được mời, được Việt Nam cấp Visa nhưng khi tới
phi trường Nội Bài ở Hà Nội thì lại không được phép nhập cảnh.
Trở
về Úc, Giáo sư hỏi đại sứ Việt Nam tại Úc và Bộ Ngoại giao Việt Nam tại sao lại
có chuyện như vậy thì Bộ Ngoại giao không trả lời chỉ có đại sứ Việt Nam tại Úc
trả lời là họ không biết.
Trường
hợp thứ ba là của cô MiVan Lovstrom,
vào tháng 10 năm 2011 cô cũng bị cấm nhập cảnh khi cùng hai người bạn Na Uy đi
với cô vào Việt Nam mang quà tặng cho trẻ khuyết tật. Chỉ mình cô bị cấm vào và
phải quay về Thái Lan mà không một lời giải thích. MiVan cho biết:
"Lúc
đó thì họ nói là tạm thời MiVan không được nhập cảnh, MiVan có hỏi lý do thì
không được trả lời lý do như thế nào. Sau đó MiVan hỏi nữa thì tòa đại sứ Việt
Nam ở Thái Lan nói là chắc MiVan đi tới những vùng nhạy cảm họ cũng nói rằng ở
Việt Nam muốn làm từ thiện thì phải qua Mặt trận tổ quốc hay Đoàn thanh niên.
MiVan
cảm thấy nó không hợp lý vì vẫn không có câu trả lời thỏa đáng và lúc hỏi khi
nào mới trở vào được thì vẫn không có câu trả lời rõ ràng. MiVan cảm thấy chuyện
của mình làm là mang một chút nguồn vui tới những người kém may mắn hơn vì vậy
MiVan mong được sự thông cảm đối với việc của mình."
Giáo sư Nguyễn Hưng
Quốc
là một nhà phê bình lý luận văn học có tiếng ở hải ngoại. Ông là một trí thức
hiếm hoi ở nước ngoài dấn thân lặn lội trong việc nghiên cứu văn học Việt Nam
nhưng bắt đầu từ hai chuyến cấm nhập cảnh đó người theo dõi thấy chủ đề và cách
viết của ông thay đổi một cách rõ ràng. Ông không viết về văn học nữa mà tập
trung các bài phân tích chế độ cộng sản Việt Nam một cách sắc sảo mà trước đó
ông chưa bao giờ làm. Khi được hỏi có phải sự thay đổi lớn lao này phát sinh từ
hai chuyến về Việt Nam hay không ông
nói:
"Tôi
nghĩ là có anh ạ. Thật ra không phải tôi không quan tâm đến chính trị thế nhưng
từ lúc vượt biên, lúc cầm bút vào cuối năm 1985 cho đến khoảng năm 2008 thì hầu
như hoàn toàn tôi không viết về chính trị mà chỉ viết về văn học thôi. Không phải
vì mình không băn khoăn, không suy nghĩ về chính trị nhưng có hai lý do: Lý do
thứ nhất tôi muốn tập trung vào lĩnh vực văn học thôi vì tôi nghĩ đó là sở trường
của mình, thứ hai, chuyện chính trị tôi nghĩ có thể có nhiều người khác có khả
năng hơn mình họ có thể làm được và làm một cách xuất sắc hơn mình.
Thế
nhưng sau khi bị trục xuất ra khỏi Việt Nam lần thứ hai thì tôi bị shock, rồi
chính cái shock ấy tôi mới nghĩ rằng là mình muốn tránh né chuyện chính trị
cũng không được. Ngay bản thân tôi hồi trước chỉ tập trung vào phê bình văn học,
tậy trung vào nghiên cứu nhưng cuối cùng vẫn bị áp lực của chính trị buộc mình
không được đặt chân vào ngay chính quê hương của mình để thăm gia đình, bạn bè
cho nên thật ra mà nói tôi rất shocked."
Cò
lẽ sự ẩn ức của Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc không phải từ cá nhân ông, nhưng việc
cấm nhập cảnh giống như mảnh vải đen che mắt của ông bị lột bỏ để ánh sáng tri
thức soi rọi vào một góc tối mà trước đó ông không để ý, giáo sư chia sẻ:
"Ngay
cả khi mình sống ở hải ngoại mà mình còn chịu sự tác động của những quyết định
độc tài độc đoán như vậy huống hồ gì những người trong nước họ hoàn toàn lệ thuộc
vào các quyết định của chính phủ. Họ có thể sợ những công an trong khu vực ra
đường thì sợ cảnh sát…cả đời họ sợ hãi bởi vậy cho nên tôi nghĩ nếu trong hoàn
cảnh như vậy mà mình tiếp tục viết vể văn học nghệ thuật thì tự nhiên mình cảm
thấy có gì nó hơi hờ hững quá, nó không phải cho nên tôi bắt đầu viết vể chính
trị.
Thoạt
đầu tôi định viết ít thôi, mỗi tuần viết trên blog của đài VOA thì tôi định mỗi
tuần tôi viết hai bài vể văn học, một bài về ngôn ngữ học hoặc giáo dục và một
bài vể chính trị nhưng mà càng đọc, theo dõi tình hình chính trị Việt Nam thì
càng cảm thấy khó chịu, bức bối nó đòi viết bởi vậy dần dần về sau này thì gần
như tôi viết hoàn toàn về vấn đề chính trị. Gần đây tôi có mở một trang
Facebook thì ở trong đó tôi cũng viết về chính trị cho nên có thể nói thế này,
chính cái việc bị trục xuất ra khỏi Việt Nam nó làm như một cái cú shock về
phương diện tâm lý và từ phương diện tâm lý như vậy nó thay đổi cả về phương diện
nhận thức và cuối cùng tôi viết về chính trị một điều mà trước đó tôi nghĩ có lẽ
mình sẽ không bao giờ nghĩ tới"
Trong
buổi họp báo vào trước Tết, Thứ trưởng Vũ Hồng Nam khẳng định với báo chí rằng “Việt
Nam có chủ trương rõ ràng, đất mẹ Việt Nam mở rộng cánh tay đón tất cả những
người con trở về, không phân biệt thành phần quá khứ, miễn là không chống lại đất
nước, không chống lại nhân dân. Đây là một thông điệp rõ ràng của Đảng, Nhà nước
chúng ta.”
Rất tiếc thông điệp này, ít nhất theo những người bị cấm nhập cảnh
vô cớ, chỉ có thể là thông điệp phát đi từ Bộ Ngoại giao, làm theo nội dung của
nghị quyết 36 chứ Bộ Công an hoàn toàn không chia sẻ. Những cái nhìn quá nhạy
cảm của Cục Đối ngoại thuộc Bộ Công an không phân biệt nổi đâu là sự chống đối
nguy hiểm đến chế độ và đâu là các hoạt động thuần túy nghề nghiệp đã đẩy những
người có tâm với đất nước trở thành đối đầu một cách kiên trì để từ đó mọi giải
thích chỉ được đánh giá là tuyên truyền không hơn không kém.
Tin, bài liên quan
No comments:
Post a Comment