Ván cờ Nguy hiểm của Trung Quốc
Howard W. French, The Atlantic, Số tháng 11, 2014
neofob cập nhật các phần bị bỏ sót và chỉnh sửa từ bản của vietnamnet [0]
Posted on Dec 13, 2014
http://phiatruoc.info/van-co-nguy-hiem-cua-trung-quoc/
Những nỗ lực ngày càng mãnh liệt của Trung Quốc để vẽ lại biên giới hàng hải khiến vừa cả láng giềng lẫn Hoa Kỳ lo ngại nguy cơ chiến tranh. Nhưng liệu sự gây hấn ấy là để phản ảnh một chính quyền đang lớn mạnh hay là một chính quyền đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng chính danh?
*
Tại những bến cảng thanh bình dọc bờ
biển của Palawan, một hòn đảo hình thanh kiếm ở bờ tây Philippines,
những chuyến phà đầy ắp hành khách di chuyển ngược xuôi giữa các thị xã
tĩnh lặng, và chủ buôn mang đầy rau quả tươi. Vào những ngày Chúa Nhật,
các thị trấn tràn ngập dân chúng ăn mặc sang trọng để đi dự lễ nhà thờ.
Từ những cầu cảng kế cận, các ngư phủ ra khơi với những chuyến hải hành
nhiều ngày trên những chiếc bancas của họ. Những con tàu hai thân thô sơ, buồm thấp mà họ đã quen dùng qua bao thế hệ.
Trong đất liền, những con phố hẹp và đông đúc râm ran với tiếng pút pút
của những chiếc xe lam. Những bảng hiệu ở các cửa hiệu và nhà hàng dọc
khu phố hầu hết là tiếng Triều Tiên, tiếng Việt, hoặc tiếng Hoa cũng như
tiếng Tagalog của Philippines.
Những vùng biển bao bọc vùng đất này, từ
mũi cực nam của bán đảo Triều Tiên cho đến quần đảo Indonesia, đã đóng
vai trò như là một giao lộ rộng mở cho giao lưu văn hóa, thương mại, và
di cư không ngừng. Trong quá khứ, các sử gia của khu vực đã từng gọi
vùng biển bao gồm Hoa Đông và biển Đông là Địa Trung Hải của Đông Á. Thế
nhưng gần đây nó đã bắt đầu được so sánh với phần khác của Châu Âu, một
vùng phân mảnh mà nó nổi tiếng vì đã khai mào Đệ Nhất Thế Chiến: vùng
Balkan.
Cách bờ Palawan vào quãng 25 dặm là tiền
đồn của một cuộc tranh giành ngày càng nguy hiểm và khó lường. Nguồn
gốc của nó là ở chỗ những nỗ lực gia tăng của Trung Quốc nhằm vẽ lại bản
đồ hàng hải của vùng này chẳng khác gì Nga đang vẽ lại bản đồ chính trị
ở những nơi như Crimea và Ukraine–chỉ có điều ở đây mức độ to lớn hơn
nhiều, có nhiều quốc gia can dự, và phức tạp hơn nhiều.
Với động thái trơ trẽn hơn bao giờ hết,
Bắc Kinh đã bắt đầu khẳng định những chủ quyền với hơn 80 phần trăm của
biển Nam Trung Hoa, vùng biển mà họ gọi là “đường chín đoạn”,
một kỷ tích thời kỳ dân tộc chủ nghĩa vào đầu thế kỷ 20, khi mà nó được
khởi thủy vẽ ra để phản ảnh quan điểm của Trung Quốc về cái nhìn phiến
diện truyền thống của họ. Bản đồ này không có sự nhìn nhận của quốc tế
và chẳng ai để ý cho đến khi Trung Quốc vực nó dậy gần đây. Bây giờ nó
có mặt trong tất cả bản đồ của Trung Quốc. Kể từ năm 2012, nó được in
trong những hộ chiếu mới cấp cho công dân Trung Quốc.
Còn được gọi là đường lưỡi bò, theo cách
nó khoanh vùng biển phía nam của Trung Quốc, đường vạch bao phủ một
vùng gồm khoảng 40 phần trăm giao thương của thế giới và phần lớn lộ
trình của nhập khẩu dầu của Trung Quốc, qua ngõ Eo biển Malacca, như thể
thông qua lỗ kim. Một câu nói từ thế kỷ 16 rằng là “Ai làm chủ Malacca thì nắm lấy yết hầu của Venice” vẫn nói lên tầm quan trọng hàng hải của khu vực này.
Cư dân ở những tiền đồn như Palawan ở rìa phía đông của “chín đoạn”
đã cảm thấy bị bao vây rồi. Ngư dân ra khơi đi vào vùng biển mà tổ tiên
họ bao thế hệ trước tự do hải hành nay bị đặt vào thế nguy hiểm nơi
tranh chấp hỏa đầu chiến tuyến. “Dân địa phương sợ phải ra khơi về phía tây vì có nhiều tàu Trung Quốc–tàu quân sự,” chủ thuyền Edwin Seracarpio ở tuổi 52 cho tôi hay vào một buổi sáng bên cầu tàu chờ đợi bạn đi biển trở về. “Người Trung Quốc nói nó luôn thuộc về sở hữu của họ.”
Nếu Trung Quốc có thể áp đặt ý thích của
họ ở vùng biển Đông, ít ra là năm bên đang có tranh chấp–tất cả đều là
những quốc gia Á Châu nhỏ và yếu hơn–sẽ bị giới hạn vào một vùng biển
nhỏ hẹp duyên hải. Trung Quốc sẽ giành được nhiều an ninh hơn cho những
tuyến đường biển của việc cung cấp dầu và các hàng hóa khác; độc quyền
tiếp cận những ngư trường phong phú và những mỏ dầu tiềm năng dưới lòng
đáy biển; một vùng đệm lớn hơn chống lại cái mà Trung Quốc gọi là những
sự xâm nhập của Hải quân Hoa Kỳ. Và sau cùng là thanh thế và vị thế mà
họ đã mưu cầu để trở thành bá chủ vùng Thái Bình Dương và tự xác lập cơ
sở của họ để thúc đẩy đòi hỏi hàng thập niên là Đài Loan thống nhất với
Trung Quốc. Có thể nói rằng là họ sẽ đạt được sự bành trướng lãnh thổ
lớn nhất hơn bất kỳ cường quốc nào kể từ sự sát nhập phần lớn những dải
đất của Châu Á vào nửa đầu thế kỷ 20 của đế quốc Nhật Bản.
Sự bành trướng của Trung Quốc đã được dự
đoán từ lâu. Nhiều nhà quan sát đã cho rằng một cuộc chiến tranh Lạnh
mới với Trung Quốc đang trỗi dậy tìm cách gạt bỏ ảnh hưởng quân sự của
Hoa Kỳ khỏi tây Thái Bình Dương là không thể tránh khỏi. Dĩ nhiên bất cứ
một cuộc xung đột nào như thế sẽ nguy hiểm khi nó diễn ra bởi vì Hoa Kỳ
chắc chắn sẽ chống trả tận lực những nỗ lực này. Thế nhưng điều ngạc
nhiên–và đáng lo–là thời biểu cho cuộc xung đột này, hay ít ra là giai
đoạn đầu, đã dường như tăng tốc trong quãng hai năm vừa qua. Một cách
bất thình lình và hùng hổ, Trung Quốc đã bắt đầu khuếch trương các lợi
ích quân sự trong khắp khu vực làm các nước láng giềng và Hoa Kỳ bị bất
ngờ.
Kể từ giữa năm 2013, Trung Quốc dường
như, thoạt tiên, gây hấn hầu như bừa bãi với tất cả mọi bên ở phía đông
của họ. Vào tháng Bảy, một nhóm chiến hạm Trung Quốc, khởi hành từ một
cảng phía bắc, lần đầu tiên đã làm một vòng hải trình quanh chu vi Nhật
Bản. Bắc Kinh có vẻ như đang gửi đi hai thông điệp: rằng là họ đã sẵn
sàng đương đầu với đối thủ truyền kiếp và rằng là Trung Quốc sẽ không bị
giới hạn bởi cái mà họ gọi là Chuỗi Đảo thứ Nhất. Chuỗi dài những quần
đảo kéo dài dọc bờ biển của Trung Quốc cản trở hải quân tiếp cận Thái
Bình Dương bao la.
Ngay trước lễ Tạ Ơn năm ngoái, Bắc Kinh đã bất ngờ ra thông báo về một “vùng nhận dạng phòng không,”
tuyên bố kiểm soát không lưu vùng trời bao phủ hầu hết vùng biển nằm
giữa Trung Quốc và Nhật Bản, bao gồm cả những vùng được tuyên bố chủ
quyền bởi không chỉ Nhật Bản mà còn bởi Nam Triều Tiên. Vùng mà họ thông
thường có mối quan hệ êm thắm giữa các bên. Ngũ giác Đài, thường hay cử
máy bay giám sát xuyên vùng này thường xuyên, ngay lập tức tuyên bố
rằng họ sẽ không đếm xỉa đến đòi hỏi của Trung Quốc; tuy nhiên Hoa Kỳ đã
khuyến cáo các hãng hàng không dân dụng tuân theo những quy định mới
của Trung Quốc.
Chỉ ít ngày sau khi vùng nhận dạng phòng không được công bố, hàng không mẫu hạm duy nhất của Trung Quốc mang tên Liêu Ninh,
một tàu vừa được tân trang từ tàu dùng rồi mua từ Ukraine năm 1998, lần
đầu tiên làm chuyến hải hành đi theo với một nhóm đủ bộ chiến hạm tác
chiến. Đó gần như là một sự tái hiện ngoại giao pháo hạm kinh điển của
các quốc gia phương Tây cách đây một thế kỷ. Với sự hộ tống của hai khu
trục hạm và hai chiến hạm săn ngầm, Liêu Ninh rẽ sóng trực chỉ
vào vùng biển Đông đang trong tranh chấp. Vào đầu tháng 12, ngay trước
khi nó có thể đến khu vực tranh chấp gần Philippines và Việt Nam, một
trong những tàu hộ tống chạm trán với một tàu của Hoa Kỳ trong một cuộc
thử thách nguy hiểm, tuần dương hạm Aegis Cowpens.
Tàu của Hoa Kỳ đang theo dõi việc triển khai của Liêu Ninh ở vùng biển quốc tế. Khi tàu của Trung Quốc bất ngờ rẽ lái vào hải trình và ngừng ngay phía trước tàu Cowpens
buộc nó phải chuyển hướng khẩn cấp để tránh một vụ va chạm. Theo báo
chí nhà nước của Trung Quốc, lý do tàu Trung Quốc không nhường đường là
vì Cowpens đã vi phạm “lớp phòng thủ nội tuyến” của
đoàn tàu Trung Quốc, một vùng ngăn chặn chưa từng được nghe đến bao giờ
che phủ hơn 2800 dặm vuông–tương đương một nửa diện tích bang
Connecticut. Sau vụ rắc rối này, Hải quân Hoa Kỳ nhấn mạnh một cách khó
nhọc rằng việc cơ động tránh va chạm của Hoa Kỳ không nên được xem là
một tiền lệ. “Quân đội Hoa Kỳ, lực lượng của tôi ở trong vùng trách nhiệm Thái Bình Dương sẽ hoạt động tự do ở hải phận quốc tế, “ Đô đốc Samuel J. Lockler, chỉ huy Bộ tư lệnh Thái Bình Dương tuyên bố. “Chốt lại là như vậy. Chúng tôi sẽ hoạt động ở đó…Và đó là thông điệp cho tất cả quân đội đang hoạt động trong vùng đó.”
Tháng Giêng năm 2014, một nhóm tàu hải
quân Trung Quốc khác đã tuần tra Bãi cạn James, vùng mà cả Đài Loan lẫn
Malaysia tuyên bố chủ quyền. Trong một buổi lễ được trình chiếu công
khai trên boong tàu, các thủy thủ đã cùng xướng “tuyên thệ quyết tâm” để bảo vệ những lợi ích hàng hải của Trung Quốc.
Vào tháng Hai, ba tàu chiến Trung Quốc
tuần tra Ấn Độ Dương, lần đầu tiên đi qua ngõ hẹp Eo biển Sunda giữa
quần đảo Java và Sumatra và sau cùng cơ động không báo trước đến ngay
sát lãnh thổ của Úc ở Đảo Giáng Sinh. Trung Quốc, đối tác thương mại lớn
nhất của Úc, không hài lòng với thỏa thuận của đồng minh truyền thống
của Hoa Kỳ này đã đồng ý vào năm 2011 cho phép Hoa Kỳ bắt đầu luân
chuyển lên đến 2500 thủy quân lục chiến ở một căn cứ huấn luyện tại phía
bắc nước Úc. Đó là một phần xoay trục trong tuyên bố của chính
quyền Obama, một sự dịch chuyển các lực lượng quân đội Hoa Kỳ sang Thái
Bình Dương, và là một sự phản ánh tầm quan trọng ngày càng tăng của khu
vực đối với nền kinh tế thế giới.
Thẩm Đinh Lực, một nhà phân tích an ninh nổi tiếng Trung Quốc giải thích việc tuần tra này cho một phóng viên của Sydney Morning Herald: “Hoa
Kỳ đã can thiệp việc thống nhất Đài Loan với đại lục Trung Quốc, và
những đồng minh khu vực đã phục vụ ý đồ can thiệp quân sự của họ. Úc nằm
trên bàn cờ chiến lược cho ý đồ đó của Hoa Kỳ…Úc không nên mong đợi có
quyền theo đuôi Hoa Kỳ để đe dọa Trung Quốc mà không tự làm hại mình.”
Những tháng sau đó đều có nhịp độ tương
tự, những khiêu khích của Trung Quốc chỉ có gia tăng mạnh hơn. Vào đầu
tháng Năm, gần 80 tàu của Trung Quốc, có tin là có cả bảy chiến hạm, hộ
tống một giàn khoan nước sâu trị giá 1 tỷ đô Mỹ được kéo ra chỉ cách 120
hải lý bờ biển Việt Nam và sẵn sàng hoạt động. Trung Quốc tuyên bố rằng
là giàn khoan được triển khai trong vùng lãnh hải của họ cho dù là bờ
biển của Việt Nam gần hơn–và cho dù là vị trí này nằm trong vòng 200 hải
lý của Việt Nam, một phạm vi thuộc vùng đặc quyền kinh tế của các quốc
gia có bờ biển. Cuộc giằng co kéo dài, bao gồm các tàu của Trung Quốc
dùng vòi rồng để đuổi đối phương và húc các tàu từ cả hai phía. Rút cục,
đối diện với lực lượng áp đảo, Việt Nam chỉ còn cách điên tiết phản đối
ngoại giao. (Vào giữa tháng Bảy, Trung Quốc tuyên bố rằng là giàn khoan
đã hoàn thành nhiệm vụ của nó và sẽ di chuyển đến Đải Hải Nam của Trung
Quốc.)
Qua năm tháng, Trung Quốc đã sử dụng
những chiến thuật ít gây hấn nhưng không kém phần trâng tráo để khẳng
định kiểm soát ở Thái Bình Dương–nổi bật nhất là việc xây dựng những đảo
nhân tạo ở vùng biển đang trong tranh chấp ở quần đảo Trường Sa. Ở
những đảo mới này và các thực thể địa lý xa xôi khác, Trung Quốc đã xây
dựng những căn cứ và nhà ở cho binh sĩ Trung Quốc. Họ có vẻ hy vọng là
sẽ dùng sự hiện diện của họ trên những hòn đảo để yểm trợ và khẳng định
những tuyên bố chủ quyền ở vùng biển chung quanh.
Cho dù những hành động khiêu khích này
có vẻ ra sao đi nữa, sự giành giật mà Trung Quốc đã khởi động để làm bá
chủ phía tây Thái Bình Dương không phải là không có dự tính. Thay vì thế
cách hay nhất nó nên được hiểu là một sự phối hợp nhuần nhuyễn từ hậu
trường. Chừng nào Trung Quốc còn làm theo ý mình, những nước đi đầu tiên
sẽ diễn ra ở biển Đông. Nơi này là nơi mà Trung Quốc hưởng lợi từ sự
chênh lệch và ngày càng gia tăng về lực lượng so với những quốc gia nhỏ
hơn như Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei, Indonesia.
Nếu việc tính toán sai lầm ấy mà sẽ không làm cuộc xung đột bùng nổ sớm
hơn thì cuộc tranh chấp rốt cuộc sẽ lôi cuốn luôn cả Nhật Bản và cả vành
đai của họ. Trong năm vừa rồi, tôi đã chu du khắp khu vực, nói chuyện
với những nhà ngoại giao quan trọng và chiến lược gia quân sự của các
quốc gia láng giềng của Trung Quốc–những quốc gia mà bây giờ đang hối hả
để đối phó những vụ xâm nhập của Trung Quốc–để biết tình hình sẽ ra sao
và Hoa Kỳ sẽ can dự ra sao, dù có chủ ý hay không đi nữa. Những gì sau
đây là cái nhìn của họ về bàn cờ chiến lược và nước đi có thể được chơi ở
Thái Bình Dương–và khi nào mà mọi thứ sẽ đi vào những nước cờ nguy
hiểm.
Giết gà dọa khỉ
Đối thủ chính của Trung Quốc ở biển Đông
là Việt Nam và Philippines. Các nhà phân tích ở cả hai quốc gia lo ngại
rằng Bắc Kinh sẽ lấy một trong số họ ra làm gương theo câu châm ngôn
của Trung Quốc là giết gà dọa khỉ. Câu hỏi đặt ra là nước nào sẽ là gà;
nước nào sẽ bị Trung Quốc hiếp đáp và làm nhục để dạy một bài học cho
những láng giềng khác rằng chống cự là vô ích và sẽ chẳng có yểm trợ
quyết liệt từ Hoa Kỳ.
Hiện nay chỉ có Việt Nam là quốc gia duy
nhất trong vùng cố gắng đặt ra giới hạn đáng kể lên tham vọng hàng hải
của Trung Quốc nhưng lại không có một thỏa thuận quốc phòng với Hoa Kỳ.
Điều này đưa đến việc họ là một mục tiêu hấp dẫn. Mặt khác, ngay cả khi
họ dường như chỉ nhỉnh hơn một phần ba mươi của Trung Quốc, Việt Nam có
một truyền thống đấu tranh đáng gờm như Hoa Kỳ đã từng nếm trải vào thập
niên 60. Trung Quốc cũng vậy, họ chắc phải quen với khuynh hướng chống
ngoại xâm: Việt Nam đã đẩy lui cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào biên
giới phía Bắc vào năm 1979 làm Trung Quốc thiệt hại hơn 20000 binh sĩ.
Dẫu vậy sự kiện này đã bị kiểm duyệt khỏi ý thức của quốc gia từ lâu. Và
cũng như họ đã làm vào lúc bắt đầu cuộc chiến bị lãng quên đó, truyền
thông của Trung Quốc gần đây đã nói đến nhu cầu cần “dạy cho Việt Nam một bài học” hoặc bắt nó phải “trả một giá đắt.”
Cho dù cả hai quốc gia là đồng minh về ý
thức hệ, mối quan hệ của họ qua nhiều thế kỷ vượt qua những đợt sóng
xâm lăng và đô hộ làm ảnh hưởng sâu đậm thái độ họ nghĩ về nhau. “Xâm lược nằm trong máu của họ, và chống ngoại xâm nằm trong máu của chúng tôi” là cách một nhà phân tích chính trị Việt Nam đúc kết lịch sử đau thương hai ngàn năm giữa hai nước trong một bài báo trên The New York Times vào tháng Năm.
Không một ai trong hàng tá các nhà ngoại
giao và quan chức mà tôi gặp ở Việt Nam có bất cứ ảo tưởng nào về một
chiến thắng trong một cuộc đối đầu trực diện với Trung Quốc trên biển
hay trên mặt trận khác. Thế nhưng Việt Nam đã nhiều lần tìm ra những
phương cách độc đáo để đương đầu với kẻ thù được vũ trang tốt hơn và lớn
hơn. Lịch sử của việc vượt qua những thời khắc ngặt nghèo này đã đem
lại cho Hà Nội một thái độ tự tin mà đôi khi phảng phất vẻ ngạo mạn.
“Chúng tôi là một nước nhỏ nhưng mỗi khi Trung Quốc muốn dùng vũ lực nhằm vào Việt Nam, chúng tôi đã chặn đứng họ,”
một nhà phân tích quân sự nổi tiếng của Việt Nam cho tôi hay ở Kuala
Lumpur vào đầu năm nay. Chúng tôi gặp gỡ tại một phòng tiếp tân ở tòa
đại sứ của nước ông. Phòng được trang hoàng với ghế nệm, máy điều hòa
không khí ồn ào, và tranh cổ động phai màu. Cao trên tường, một nơi
trang nghiêm, treo một chân dung của Hồ Chí Minh đang cười. “Trong cuộc xung đột Malvinas, Argentina bắn chỉ có ba hỏa tiễn Exocet; một trong số đó đánh chìm một tàu của Anh,” ông nói. “Nếu người Trung Quốc đến với Liêu Ninh, chúng tôi sẽ đánh bại họ.”
Hà Nội vừa mới tiếp nhận hai tàu ngầm do
Nga chế tạo, lớp Kilo–bốn chiếc nữa sẽ được giao trong nay mai–và nhà
phân tích quân sự giải thích rõ ràng việc tậu hàng đắt đỏ đối với một
đất nước với thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 1900 USD: nước của
ông cần có thể đánh chìm tàu của Trung Quốc nhằm đẩy cái giá phải trả
cho sự gây hấn của Trung Quốc đến mức không chấp nhận được cho Trung
Quốc. “Từng tý một, chúng tôi đang gỡ bỏ dây thòng lọng” mà Trung Quốc đã tròng vào cổ của nước của ông, ông nói với tôi.
Việt Nam phải cân nhắc việc họ đáp trả
khiêu khích của Trung Quốc vì hai nước có sự mối quan hệ kinh tế ngày
càng gắn bó. Vào năm 2012, vào lúc thời điểm căng thẳng với Manila,
Trung Quốc đã dừng việc nhập khẩu chuối từ Philippines làm hàng đống
hàng bị thối rữa ở cảng. Vào lúc những căng thẳng dâng cao khi dàn khoan
dầu được kéo vào vùng biển của Việt Nam, giao dịch thương mại giữa hai
nước giảm rõ rệt với truyền thông Trung Quốc cảnh cáo khả năng về những
hậu quả kinh tế lâu dài.
Đối với Việt Nam, sự kiện dàn khoan dầu
đã không đến nỗi xảy ra chiến tranh. Nhiều quan chức Việt Nam đã nói với
tôi rằng một nỗ lực chiếm lấy những đảo đang trong tranh chấp của Việt
Nam (như họ làm vào năm 1974 và 1988) sẽ dẫn đến chiến tranh. Việc triển
khai dàn khoan dầu đã dấy lên những cuộc biểu tình dữ dội ở Việt Nam
nơi mà những cuộc biểu tình là hiếm có. Vào ngày đầu tiên, 11 tháng Năm,
hàng trăm người có mặt một cách ôn hòa ở Hà Nội, mang theo biểu ngữ với
khẩu hiệu “Bảo vệ chủ quyền đất nước.” Vào những ngày tiếp
theo, những đám đông đổ đến những khu công nghiệp, tấn công doanh nghiệp
Trung Quốc. Các nhà phân tích Việt Nam nói rằng sự kiện bất ổn, mà
nhiều ngưòi biểu tình thiệt mạng, đã cho thấy một cảnh báo rõ rệt là
tính chính danh của chính quyền sẽ sụp đổ nếu nó không đáp trả bất cứ
một cuộc chiếm đảo mới nào của Trung Quốc.
Nhiều nhà phân tích phương Tây xem cách
tiếp cận của Trung Quốc ở Thái Bình Dương là một kiểu leo thang được cân
nhắc từng nấc một, nhắm vào việc thiết lập từng bước sự có mặt của
Trung Quốc cũng như thực quyền của họ qua hàng loạt hành vi khiêu khích,
mỗi cái chỉ nho nhỏ để tránh dẫn đến tình trạng kháng cự chính trị mãnh
liệt, nhưng gộp chung lại chúng sẽ thiết lập ra các tiền lệ, và rồi thì
trở thành chuyện được chấp nhận. Người Trung Quốc tất nhiên là có tên
cho phương pháp này: chiến lược bắp cải. Một vùng bị bao vây từ từ bởi
những “lá cải” riêng rẽ–một chiếc tàu đánh cá chỗ này, một
chiếc tàu hải giám chỗ kia–cho đến khi nó bị bao phủ bởi nhiều lớp như
một cây bắp cải.(“Salami slicing”–cắt lát salami–là tên gọi khác cho chiến lược này.)
Dĩ nhiên là Trung Quốc sẽ thỏa mãn nếu
Việt Nam đơn giản chấp nhận những mở rộng từ từ về đòi hỏi lãnh hải và
lãnh thổ của họ. Thế nhưng qua nhịp độ và cường độ mà Trung Quốc đã hành
động gần đây, ta thấy là Bắc Kinh sẽ vui thú mà đọ sức với Hà Nội, đặc
biệt nếu Việt Nam được xem là nước ra tay trước. Nắm được điểm này là
nòng cốt để giúp ta hiểu được việc Trung Quốc triển khai dàn khoan dầu,
được hậu thuẫn bởi một đội tàu: nó sẽ hỗ trợ cho việc hợp pháp hóa những
tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc nếu Việt Nam chẳng làm gì, và nó sẽ
cho một cơ hội đập ruồi với một trận chiến giới hạn–và có lẽ sẽ ban hành
những cấm vận làm tê liệt kinh tế–nếu Hà Nội quật lại.
Tất nhiên, đương đầu với lực lượng áp
đảo của Bắc Kinh, một số quan chức Việt Nam gần đây đã cảnh báo rằng cho
dù hành động quân sự từ phía họ là cám dỗ về cảm xúc, và có lẽ không
tránh khỏi, nó có thể không làm gì hơn là sụp bẫy của Trung Quốc. Nếu
câu hỏi của việc đương đầu với Trung Quốc trở nên gắn chặt với sự tồn
tại của chế độ thì tất cả những gì đạt được từ chiến tranh là làm dư
luận thất vọng, mỉa mai thay, và việc thay đổi chế độ ở Việt Nam.
Nếu Trung Quốc đang tìm kiếm một đối thủ
nhỏ hơn để làm gương ở biển Đông–để cho thấy là kẻ bắt nạt sẽ chắc chắn
muốn gì được đó, rằng nhân nhượng thì tốt hơn là chống cự–Philippines
là một mục tiêu khả dĩ khác. Cho đến gần đây, Philippines nổi bật vì sự
yếu kém của nó. Lấy ví dụ phi đội vận tải C-130 đã có thời là hùng mạnh
của quốc gia nay chỉ còn hai hay ba chiếc còn hoạt động. Trong vòng 20
năm, Philippines đã bỏ lơ quân đội của họ mà vốn dĩ nó chẳng mạnh từ
đầu.
Bắc Kinh đã bắt đầu bận rộn thay đổi
nguyên trạng ở vùng biển tranh chấp ở biển Đông. Ở những hòn đảo trong
tranh chấp, họ đang xây dựng các cầu tàu hải quân, đường băng, và thậm
chí trường học cho trẻ em của binh sĩ Trung Quốc đồn trú. Song song, họ
đã dùng các tàu hải giám hay những tàu cá về hình thức để chiếm lĩnh
những bãi cạn hay bãi ngầm đang trong tranh chấp. Các tàu cá được trang
bị GPS và điện đài,và các thuyền trưởng nhận trợ cấp vì họ đóng vai trò
của một hệ thống cảnh báo sớm cho Bắc Kinh về động thái của những tàu
nước khác. Trung Quốc phản ứng với hầu hết những vụ xâm nhập vào vùng
biển tranh chấp bằng việc sử dụng ngày càng tinh vi và mạnh mẽ lực lượng
cảnh sát biển để tránh vẻ quân sự hóa về bề ngoài. Philippines, cũng
như hầu hết các quốc gia trong khu vực, không thể đọ sức với những tàu
như vậy ngoài việc dùng tàu hải quân, điều mà trông có vẻ như làm xung
đột leo thang đối với người ngoài cuộc. Để chắc ăn, những tàu hải quân
Trung Quốc thường lãng vãng ở phía sau để khuyếch trương thanh thế và
sẵn sàng trong trường hợp khẩn cấp.
Những nỗ lực đối phó của Manila để khẳng
định chủ quyền của họ ở những đảo nhỏ và bãi cạn ngoài khơi của họ cũng
tài tình không kém thế nhưng rốt cuộc lại phản ánh sự tuyệt vọng. Nổi
tiếng nhất là vụ năm 1999, quốc gia này ủi bãi một con tàu rỉ sét thừa
hưởng từ Hoa Kỳ, còn được biết đến với tên Sierra Madre, ngay ở
Second Thomas Shoal (Bãi Cỏ Mây–ND) ở Trường Sa, 105 hải lý về phía Tây
của Palawan. Các thủy thủ vẫn đồn trú trên tàu đang tan vỡ là hiện thân
rõ rệt quyết tâm của Manila về chủ quyền ở bãi cạn. Dẫu vậy sự tồn tại
của họ ngày càng phụ thuộc vào trò mèo vờn chuột với Hải quân Trung Quốc
vì nó tìm cách cắt đứt tiếp tế của các thủy thủ này.
Vào tháng Giêng, Gilberto G.B. Asuque,
lúc đó là trợ lý thư ký về các vấn đề hải dương, gặp tôi ở một phòng hội
nghị với đầy bản đồ hàng hải ở bộ ngoại giao của Philippines. “Người Trung Quốc liên tục bảo chúng tôi kéo bỏ tàu đi,” ông nói, ngụ ý con tàu Sierra Madre. Khi tôi hỏi ông ta là liệu nước ông không được trang bị tốt cho một cuộc so găng có thể có, ông ta trả lời, “Chẳng phải điều đó hơi quá rõ ràng?”
Asuque nói thêm rằng vì tình thế mà Philippines đã phải chọn việc đưa
xung đột với Bắc Kinh ra trước thế giới bất cứ khi nào có thể. Nếu Trung
Quốc chọn dùng vũ lực, ông giải thích, cộng đồng quốc tế sẽ ủng hộ kẻ
yếu thế.
Nước này đã dùng phương pháp tương tự
trong việc theo đuổi một vụ kiện chống lại Trung Quốc theo Công ước LHQ
về Luật Biển. LHQ không có quyền lực buộc Trung Quốc thi hành bất cứ
phán quyết nào. Thế nhưng ở vị trí nước yếu hơn, Philippines đang dựa
vào việc làm Trung Quốc xấu hổ trên trường quốc tế để buộc Trung Quốc
tuân thủ hiệp ước mà họ đã thông qua vào năm 1996. “Chúng tôi được lợi mọi đằng và chẳng có gì để mất,”
Harry Roque, giáo sư luật của Đại Học Philippines nói với tôi. Ông là
ngưòi góp phần thuyết phục chính quyền theo đuổi vụ kiện chống Trung
Quốc.
Tại Vịnh Oyster ở bờ biển trung tây của
Palawan, chính quyền Philippines mới đây đã động thổ xây dựng một căn cứ
hải quân mới với những hy vọng muộn màng nhằm đẩy lui anh chàng hàng
xóm khổng lồ và quả quyết. Chỉ trong năm ngoái đây thôi, Manila đã nhanh
chóng tậu hai tàu khu trục qua sử dụng từ Ý, hàng loạt máy bay trực
thăng tiêm kích và các loại khác,và một hạm đội tàu tuần duyên. Tổng
thống Benigno Aquino đệ Tam thường xuyên nhắc đến việc mua sắm này là
một nỗ lực nhằm bảo đảm cho nước ông ít ra là có khả năng ngăn chặn vừa
đủ. Chẳng có gì nghi ngờ là ông ta nhắm đến Trung Quốc.
Quan trọng nhất, hồi tháng Tư,
Philippines đã ký một thỏa thuận phòng thủ chung với Hoa Kỳ. Một tháng
sau khi thỏa thuận,trong một bài diễn văn ở West Point, Tổng thống Hoa
Kỳ Obama nhấn mạnh thông điệp của thỏa thuận. “Hãy để tôi nhắc lại
một nguyên tắc mà tôi đưa ra từ đầu nhiệm kỳ của tôi: Hoa Kỳ sẽ sử dụng
quân lực, đơn phương nếu cần, khi những lợi ích cốt lõi cần đến–khi công
dân chúng ta bị đe dọa, khi đời sống chúng ta bị lâm nguy, khi an ninh
của các đồng minh của chúng ta bị nguy hiểm.”
Sẽ có ý cho rằng thỏa thuận và những lời
bình luận của Obama sẽ làm nản lòng Trung Quốc, và đó là nhận định
chung không thắc mắc ở Hoa Kỳ–thế nhưng ở Thái Bình Dương, giá trị ngăn
chặn của thỏa thuận có vẻ ít chắc chắn hơn. Tất nhiên, một cựu cố vấn an
ninh quốc gia người Philippine nói với tôi vì kế sách mưu mô–mục tiêu
là hất cẳng Hoa Kỳ vì Trung Quốc coi biển Đông là ao nhà của họ–là một
động lực chính đằng sau cái thế công khai ra mặt mới đây của Trung Quốc.
Bây giờ họ có thể coi Philippines là một mục tiêu hấp dẫn hơn. Một khi
mà Manila có sự hậu thuẫn công khai của Hoa Kỳ, tìm một cách nào đó để
hạ nhục Philippines sẽ cho phép Bắc Kinh chứng tỏ điều quan trọng hơn.
Suy nghĩ này được tỏ tường sinh động trong những lời bình luận gần đây
của Thiếu Tướng Chu Thành Hổ, giáo sư của Đại học Quốc phòng Trung Quốc.
Nói chuyện với đài truyền hình ở Hương Cảng vào tháng Sáu, ông ta cảnh
báo các đồng minh của Hoa Kỳ ở Châu Á là Hoa Kỳ đã trở thành một con hổ
giấy. Ông ta liên hệ phản ứng của Washington đến khủng hoảng Ukraine với
“rối loạn cường dương.”
Từ quan điểm của Trung Quốc, kịch bản
hoàn hảo có thể là lực lượng vũ trang còn thiếu kinh nghiệm của
Philippines liều lĩnh sử dụng các vũ khí mới có, dẫn tới một cuộc chạm
trán quân sự giới hạn. Điều đó sẽ giúp Trung Quốc phô trương ưu thế và
có thể đưa ra yêu sách chủ quyền mới và mạnh hơn với các rạn san hô
trong vùng–có lẽ trong vùng biển giàu dầu mỏ. Hoa Kỳ có thể khó mà đáp
trả trong trường hợp nguy cấp như vậy. Đối với một số người trong giới
hoạch định chính sách ở Trung Quốc, cơ hội lột trần Hoa Kỳ chỉ là một
đồng minh không đáng tin cậy ở Thái Bình Dương quả thật có sức cám dỗ.
Nếu những nguy cơ về việc hạ nhục Hoa Kỳ
trong việc hậu thuẫn (hay thất bại hậu thuẫn) một nước yếu hơn như
Philippines là cao thì nguy cơ đối với Trung Quốc cũng là đáng kể. Lịch
sử hải quân của Trung Quốc kể từ thế kỷ 19 có đầy những thất bại, thoạt
tiên là chống lại những cường quốc Châu Âu và kế tiếp là chống lại một
Nhật Bản đang lên. Nhật Bản đánh bại anh hàng xóm của họ trong một trận
quyết định vào năm 1895. Bất cứ sự thất bại nào trong việc thắng thế với
Philippines sẽ là một sự bẽ mặt có tiềm năng gây mất ổn định Đảng Cộng
sản. Và Washington có thể lật tẩy Bắc Kinh, bảo vệ Philippines, nếu giả
sử Trung Quốc cố đuổi binh lính Philippines ra khỏi tiền đồn rỉ sét Sierra Madre. Điều này có thể cho thấy Trung Quốc hóa ra là một con hổ giấy.
.
Còn tiếp…
.
________
.
Cước chú:[0]
: Bài viết trên vietnamnet.vn của Minh Tâm, Đình Ngân viết “Theo The Atlantic” http://bit.ly/1vVJnXr
[1]
: Thông thường tàu chiến chỉ dùng radar với tín
hiệu radio không mã hóa để theo dõi, xác định khoảng cách và hướng đi
của các tàu chung quanh. Khi radar điều khiển bắn chốt (lock) mục tiêu,
nó chuyển sang dùng tín hiệu radio mã hóa và chuyển băng tần liên
tục–FHSS, Frequency Hopping Spread Spectrum.
No comments:
Post a Comment