Howard
W. French, The Atlantic, Số tháng 11, 2014
neofob
cập nhật các phần bị bỏ sót và chỉnh sửa từ bản
của vietnamnet [0]
Posted on Dec 13, 2014
Posted on Dec 13, 2014
Những
nỗ lực ngày càng mãnh liệt của Trung Quốc để vẽ lại
biên giới hàng hải khiến vừa cả láng giềng lẫn Hoa
Kỳ lo ngại nguy cơ chiến tranh. Nhưng liệu sự gây hấn
ấy là để phản ảnh một chính quyền đang lớn mạnh
hay là một chính quyền đang đối mặt với một cuộc
khủng hoảng chính danh?
***
Tại
những bến cảng thanh bình dọc bờ biển của Palawan, một
hòn đảo hình thanh kiếm ở bờ tây Philippines, những
chuyến phà đầy ắp hành khách di chuyển ngược xuôi
giữa các thị xã tĩnh lặng, và chủ buôn mang đầy rau
quả tươi. Vào những ngày Chúa Nhật, các thị trấn tràn
ngập dân chúng ăn mặc sang trọng để đi dự lễ nhà
thờ. Từ những cầu cảng kế cận, các ngư phủ ra khơi
với những chuyến hải hành nhiều ngày trên những chiếc
bancas
của họ. Những con tàu hai thân thô sơ, buồm thấp mà họ
đã quen dùng qua bao thế hệ.
Trong
đất liền, những con phố hẹp và đông đúc râm ran với
tiếng pút
pút
của những chiếc xe lam. Những bảng hiệu ở các cửa
hiệu và nhà hàng dọc khu phố hầu hết là tiếng Triều
Tiên, tiếng Việt, hoặc tiếng Hoa cũng như tiếng Tagalog
của Philippines.
Những
vùng biển bao bọc vùng đất này, từ mũi cực nam của
bán đảo Triều Tiên cho đến quần đảo Indonesia, đã
đóng vai trò như là một giao lộ rộng mở cho giao lưu
văn hóa, thương mại, và di cư không ngừng. Trong quá khứ,
các sử gia của khu vực đã từng gọi vùng biển bao gồm
Hoa Đông và biển Đông là Địa Trung Hải của Đông Á.
Thế nhưng gần đây nó đã bắt đầu được so sánh với
phần khác của Châu Âu, một vùng phân mảnh mà nó nổi
tiếng vì đã khai mào Đệ Nhất Thế Chiến: vùng Balkan.
Cách
bờ Palawan vào quãng 25 dặm là tiền đồn của một cuộc
tranh giành ngày càng nguy hiểm và khó lường. Nguồn gốc
của nó là ở chỗ những nỗ lực gia tăng của Trung Quốc
nhằm vẽ lại bản đồ hàng hải của vùng này chẳng
khác gì Nga đang vẽ lại bản đồ chính trị ở những
nơi như Crimea và Ukraine–chỉ có điều ở đây mức độ
to lớn hơn nhiều, có nhiều quốc gia can dự, và phức
tạp hơn nhiều.
Với
động thái trơ trẽn hơn bao giờ hết, Bắc Kinh đã bắt
đầu khẳng định những chủ quyền với hơn 80 phần
trăm của biển Nam Trung Hoa, vùng biển mà họ gọi là
“đường
chín đoạn”,
một kỷ tích thời kỳ dân tộc chủ nghĩa vào đầu thế
kỷ 20, khi mà nó được khởi thủy vẽ ra để phản ảnh
quan điểm của Trung Quốc về cái nhìn phiến diện truyền
thống của họ. Bản đồ này không có sự nhìn nhận của
quốc tế và chẳng ai để ý cho đến khi Trung Quốc vực
nó dậy gần đây. Bây giờ nó có mặt trong tất cả bản
đồ của Trung Quốc. Kể từ năm 2012, nó được in trong
những hộ chiếu mới cấp cho công dân Trung Quốc.
Còn
được gọi là đường lưỡi bò, theo cách nó khoanh vùng
biển phía nam của Trung Quốc, đường vạch bao phủ một
vùng gồm khoảng 40 phần trăm giao thương của thế giới
và phần lớn lộ trình của nhập khẩu dầu của Trung
Quốc, qua ngõ Eo biển Malacca, như thể thông qua lỗ kim.
Một câu nói từ thế kỷ 16 rằng là “Ai
làm chủ Malacca thì nắm lấy yết hầu của Venice”
vẫn nói lên tầm quan trọng hàng hải của khu vực này.
Cư
dân ở những tiền đồn như Palawan ở rìa phía đông của
“chín
đoạn”
đã cảm thấy bị bao vây rồi. Ngư dân ra khơi đi vào
vùng biển mà tổ tiên họ bao thế hệ trước tự do hải
hành nay bị đặt vào thế nguy hiểm nơi tranh chấp hỏa
đầu chiến tuyến. “Dân
địa phương sợ phải ra khơi về phía tây vì có nhiều
tàu Trung Quốc–tàu quân sự,”
chủ thuyền Edwin Seracarpio ở tuổi 52 cho tôi hay vào một
buổi sáng bên cầu tàu chờ đợi bạn đi biển trở về.
“Người
Trung Quốc nói nó luôn thuộc về sở hữu của họ.”
Nếu
Trung Quốc có thể áp đặt ý thích của họ ở vùng biển
Đông, ít ra là năm bên đang có tranh chấp–tất cả đều
là những quốc gia Á Châu nhỏ và yếu hơn–sẽ bị giới
hạn vào một vùng biển nhỏ hẹp duyên hải. Trung Quốc
sẽ giành được nhiều an ninh hơn cho những tuyến đường
biển của việc cung cấp dầu và các hàng hóa khác; độc
quyền tiếp cận những ngư trường phong phú và những mỏ
dầu tiềm năng dưới lòng đáy biển; một vùng đệm lớn
hơn chống lại cái mà Trung Quốc gọi là những sự xâm
nhập của Hải quân Hoa Kỳ. Và sau cùng là thanh thế và
vị thế mà họ đã mưu cầu để trở thành bá chủ vùng
Thái Bình Dương và tự xác lập cơ sở của họ để
thúc đẩy đòi hỏi hàng thập niên là Đài Loan thống
nhất với Trung Quốc. Có thể nói rằng là họ sẽ đạt
được sự bành trướng lãnh thổ lớn nhất hơn bất kỳ
cường quốc nào kể từ sự sát nhập phần lớn những
dải đất của Châu Á vào nửa đầu thế kỷ 20 của đế
quốc Nhật Bản.
Sự
bành trướng của Trung Quốc đã được dự đoán từ
lâu. Nhiều nhà quan sát đã cho rằng một cuộc chiến
tranh Lạnh mới với Trung Quốc đang trỗi dậy tìm cách
gạt bỏ ảnh hưởng quân sự của Hoa Kỳ khỏi tây Thái
Bình Dương là không thể tránh khỏi. Dĩ nhiên bất cứ
một cuộc xung đột nào như thế sẽ nguy hiểm khi nó
diễn ra bởi vì Hoa Kỳ chắc chắn sẽ chống trả tận
lực những nỗ lực này. Thế nhưng điều ngạc nhiên–và
đáng lo–là thời biểu cho cuộc xung đột này, hay ít ra
là giai đoạn đầu, đã dường như tăng tốc trong quãng
hai năm vừa qua. Một cách bất thình lình và hùng hổ,
Trung Quốc đã bắt đầu khuếch trương các lợi ích quân
sự trong khắp khu vực làm các nước láng giềng và Hoa
Kỳ bị bất ngờ.
Kể
từ giữa năm 2013, Trung Quốc dường như, thoạt tiên, gây
hấn hầu như bừa bãi với tất cả mọi bên ở phía
đông của họ. Vào tháng Bảy, một nhóm chiến hạm Trung
Quốc, khởi hành từ một cảng phía bắc, lần đầu tiên
đã làm một vòng hải trình quanh chu vi Nhật Bản. Bắc
Kinh có vẻ như đang gửi đi hai thông điệp: rằng là họ
đã sẵn sàng đương đầu với đối thủ truyền kiếp
và rằng là Trung Quốc sẽ không bị giới hạn bởi cái
mà họ gọi là Chuỗi Đảo thứ Nhất. Chuỗi dài những
quần đảo kéo dài dọc bờ biển của Trung Quốc cản
trở hải quân tiếp cận Thái Bình Dương bao la.
Ngay
trước lễ Tạ Ơn năm ngoái, Bắc Kinh đã bất ngờ ra
thông báo về một “vùng
nhận dạng phòng không,”
tuyên bố kiểm soát không lưu vùng trời bao phủ hầu hết
vùng biển nằm giữa Trung Quốc và Nhật Bản, bao gồm cả
những vùng được tuyên bố chủ quyền bởi không chỉ
Nhật Bản mà còn bởi Nam Triều Tiên. Vùng mà họ thông
thường có mối quan hệ êm thắm giữa các bên. Ngũ giác
Đài, thường hay cử máy bay giám sát xuyên vùng này
thường xuyên, ngay lập tức tuyên bố rằng họ sẽ không
đếm xỉa đến đòi hỏi của Trung Quốc; tuy nhiên Hoa Kỳ
đã khuyến cáo các hãng hàng không dân dụng tuân theo
những quy định mới của Trung Quốc.
Chỉ
ít ngày sau khi vùng nhận dạng phòng không được công
bố, hàng không mẫu hạm duy nhất của Trung Quốc mang tên
Liêu
Ninh,
một tàu vừa được tân trang từ tàu dùng rồi mua từ
Ukraine năm 1998, lần đầu tiên làm chuyến hải hành đi
theo với một nhóm đủ bộ chiến hạm tác chiến. Đó
gần như là một sự tái hiện ngoại giao pháo hạm kinh
điển của các quốc gia phương Tây cách đây một thế
kỷ. Với sự hộ tống của hai khu trục hạm và hai chiến
hạm săn ngầm, Liêu
Ninh
rẽ sóng trực chỉ vào vùng biển Đông đang trong tranh
chấp. Vào đầu tháng 12, ngay trước khi nó có thể đến
khu vực tranh chấp gần Philippines và Việt Nam, một trong
những tàu hộ tống chạm trán với một tàu của Hoa Kỳ
trong một cuộc thử thách nguy hiểm, tuần dương hạm
Aegis Cowpens.
Tàu
của Hoa Kỳ đang theo dõi việc triển khai của Liêu
Ninh
ở vùng biển quốc tế. Khi tàu của Trung Quốc bất ngờ
rẽ lái vào hải trình và ngừng ngay phía trước tàu
Cowpens
buộc nó phải chuyển hướng khẩn cấp để tránh một
vụ va chạm. Theo báo chí nhà nước của Trung Quốc, lý
do tàu Trung Quốc không nhường đường là vì Cowpens
đã vi phạm “lớp
phòng thủ nội tuyến”
của đoàn tàu Trung Quốc, một vùng ngăn chặn chưa từng
được nghe đến bao giờ che phủ hơn 2800 dặm vuông–tương
đương một nửa diện tích bang Connecticut. Sau vụ rắc
rối này, Hải quân Hoa Kỳ nhấn mạnh một cách khó nhọc
rằng việc cơ động tránh va chạm của Hoa Kỳ không nên
được xem là một tiền lệ. “Quân
đội Hoa Kỳ, lực lượng của tôi ở trong vùng trách
nhiệm Thái Bình Dương sẽ hoạt động tự do ở hải
phận quốc tế, “
Đô đốc Samuel J. Lockler, chỉ huy Bộ tư lệnh Thái Bình
Dương tuyên bố. “Chốt
lại là như vậy. Chúng tôi sẽ hoạt động ở đó…Và
đó là thông điệp cho tất cả quân đội đang hoạt động
trong vùng đó.”
Tháng
Giêng năm 2014, một nhóm tàu hải quân Trung Quốc khác đã
tuần tra Bãi cạn James, vùng mà cả Đài Loan lẫn Malaysia
tuyên bố chủ quyền. Trong một buổi lễ được trình
chiếu công khai trên boong tàu, các thủy thủ đã cùng
xướng “tuyên
thệ quyết tâm”
để bảo vệ những lợi ích hàng hải của Trung Quốc.
Vào
tháng Hai, ba tàu chiến Trung Quốc tuần tra Ấn Độ Dương,
lần đầu tiên đi qua ngõ hẹp Eo biển Sunda giữa quần
đảo Java và Sumatra và sau cùng cơ động không báo trước
đến ngay sát lãnh thổ của Úc ở Đảo Giáng Sinh. Trung
Quốc, đối tác thương mại lớn nhất của Úc, không hài
lòng với thỏa thuận của đồng minh truyền thống của
Hoa Kỳ này đã đồng ý vào năm 2011 cho phép Hoa Kỳ bắt
đầu luân chuyển lên đến 2500 thủy quân lục chiến ở
một căn cứ huấn luyện tại phía bắc nước Úc. Đó là
một phần xoay
trục
trong tuyên bố của chính quyền Obama, một sự dịch
chuyển các lực lượng quân đội Hoa Kỳ sang Thái Bình
Dương, và là một sự phản ánh tầm quan trọng ngày càng
tăng của khu vực đối với nền kinh tế thế giới.
Thẩm
Đinh Lực, một nhà phân tích an ninh nổi tiếng Trung Quốc
giải thích việc tuần tra này cho một phóng viên của
Sydney
Morning Herald:
“Hoa
Kỳ đã can thiệp việc thống nhất Đài Loan với đại
lục Trung Quốc, và những đồng minh khu vực đã phục vụ
ý đồ can thiệp quân sự của họ. Úc nằm trên bàn cờ
chiến lược cho ý đồ đó của Hoa Kỳ…Úc không nên
mong đợi có quyền theo đuôi Hoa Kỳ để đe dọa Trung
Quốc mà không tự làm hại mình.”
Những
tháng sau đó đều có nhịp độ tương tự, những khiêu
khích của Trung Quốc chỉ có gia tăng mạnh hơn. Vào đầu
tháng Năm, gần 80 tàu của Trung Quốc, có tin là có cả
bảy chiến hạm, hộ tống một giàn khoan nước sâu trị
giá 1 tỷ đô Mỹ được kéo ra chỉ cách 120 hải lý bờ
biển Việt Nam và sẵn sàng hoạt động. Trung Quốc tuyên
bố rằng là giàn khoan được triển khai trong vùng lãnh
hải của họ cho dù là bờ biển của Việt Nam gần
hơn–và cho dù là vị trí này nằm trong vòng 200 hải lý
của Việt Nam, một phạm vi thuộc vùng đặc quyền kinh
tế của các quốc gia có bờ biển. Cuộc giằng co kéo
dài, bao gồm các tàu của Trung Quốc dùng vòi rồng để
đuổi đối phương và húc các tàu từ cả hai phía. Rút
cục, đối diện với lực lượng áp đảo, Việt Nam chỉ
còn cách điên tiết phản đối ngoại giao. (Vào giữa
tháng Bảy, Trung Quốc tuyên bố rằng là giàn khoan đã
hoàn thành nhiệm vụ của nó và sẽ di chuyển đến Đải
Hải Nam của Trung Quốc.)
Qua
năm tháng, Trung Quốc đã sử dụng những chiến thuật ít
gây hấn nhưng không kém phần trâng tráo để khẳng định
kiểm soát ở Thái Bình Dương–nổi bật nhất là việc
xây dựng những đảo nhân tạo ở vùng biển đang trong
tranh chấp ở quần đảo Trường Sa. Ở những đảo mới
này và các thực thể địa lý xa xôi khác, Trung Quốc đã
xây dựng những căn cứ và nhà ở cho binh sĩ Trung Quốc.
Họ có vẻ hy vọng là sẽ dùng sự hiện diện của họ
trên những hòn đảo để yểm trợ và khẳng định những
tuyên bố chủ quyền ở vùng biển chung quanh.
Cho
dù những hành động khiêu khích này có vẻ ra sao đi nữa,
sự giành giật mà Trung Quốc đã khởi động để làm bá
chủ phía tây Thái Bình Dương không phải là không có dự
tính. Thay vì thế cách hay nhất nó nên được hiểu là
một sự phối hợp nhuần nhuyễn từ hậu trường. Chừng
nào Trung Quốc còn làm theo ý mình, những nước đi đầu
tiên sẽ diễn ra ở biển Đông. Nơi này là nơi mà Trung
Quốc hưởng lợi từ sự chênh lệch và ngày càng gia
tăng về lực lượng so với những quốc gia nhỏ hơn như
Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Malaysia, Brunei, Indonesia. Nếu
việc tính toán sai lầm ấy mà sẽ không làm cuộc xung
đột bùng nổ sớm hơn thì cuộc tranh chấp rốt cuộc sẽ
lôi cuốn luôn cả Nhật Bản và cả vành đai của họ.
Trong năm vừa rồi, tôi đã chu du khắp khu vực, nói
chuyện với những nhà ngoại giao quan trọng và chiến
lược gia quân sự của các quốc gia láng giềng của
Trung Quốc–những quốc gia mà bây giờ đang hối hả để
đối phó những vụ xâm nhập của Trung Quốc–để biết
tình hình sẽ ra sao và Hoa Kỳ sẽ can dự ra sao, dù có
chủ ý hay không đi nữa. Những gì sau đây là cái nhìn
của họ về bàn cờ chiến lược và nước đi có thể
được chơi ở Thái Bình Dương–và khi nào mà mọi thứ
sẽ đi vào những nước cờ nguy hiểm.
Giết
gà dọa khỉ
Đối
thủ chính của Trung Quốc ở biển Đông là Việt Nam và
Philippines. Các nhà phân tích ở cả hai quốc gia lo ngại
rằng Bắc Kinh sẽ lấy một trong số họ ra làm gương
theo câu châm ngôn của Trung Quốc là giết gà dọa khỉ.
Câu hỏi đặt ra là nước nào sẽ là gà; nước nào sẽ
bị Trung Quốc hiếp đáp và làm nhục để dạy một bài
học cho những láng giềng khác rằng chống cự là vô ích
và sẽ chẳng có yểm trợ quyết liệt từ Hoa Kỳ.
Hiện
nay chỉ có Việt Nam là quốc gia duy nhất trong vùng cố
gắng đặt ra giới hạn đáng kể lên tham vọng hàng hải
của Trung Quốc nhưng lại không có một thỏa thuận quốc
phòng với Hoa Kỳ. Điều này đưa đến việc họ là một
mục tiêu hấp dẫn. Mặt khác, ngay cả khi họ dường như
chỉ nhỉnh hơn một phần ba mươi của Trung Quốc, Việt
Nam có một truyền thống đấu tranh đáng gờm như Hoa Kỳ
đã từng nếm trải vào thập niên 60. Trung Quốc cũng
vậy, họ chắc phải quen với khuynh hướng chống ngoại
xâm: Việt Nam đã đẩy lui cuộc xâm lăng của Trung Quốc
vào biên giới phía Bắc vào năm 1979 làm Trung Quốc thiệt
hại hơn 20000 binh sĩ. Dẫu vậy sự kiện này đã bị
kiểm duyệt khỏi ý thức của quốc gia từ lâu. Và cũng
như họ đã làm vào lúc bắt đầu cuộc chiến bị lãng
quên đó, truyền thông của Trung Quốc gần đây đã nói
đến nhu cầu cần “dạy
cho Việt Nam một bài học”
hoặc bắt nó phải “trả
một giá đắt.”
Cho
dù cả hai quốc gia là đồng minh về ý thức hệ, mối
quan hệ của họ qua nhiều thế kỷ vượt qua những đợt
sóng xâm lăng và đô hộ làm ảnh hưởng sâu đậm thái
độ họ nghĩ về nhau. “Xâm
lược nằm trong máu của họ, và chống ngoại xâm nằm
trong máu của chúng tôi”
là cách một nhà phân tích chính trị Việt Nam đúc kết
lịch sử đau thương hai ngàn năm giữa hai nước trong một
bài báo trên The
New York Times
vào tháng Năm.
Không
một ai trong hàng tá các nhà ngoại giao và quan chức mà
tôi gặp ở Việt Nam có bất cứ ảo tưởng nào về một
chiến thắng trong một cuộc đối đầu trực diện với
Trung Quốc trên biển hay trên mặt trận khác. Thế nhưng
Việt Nam đã nhiều lần tìm ra những phương cách độc
đáo để đương đầu với kẻ thù được vũ trang tốt
hơn và lớn hơn. Lịch sử của việc vượt qua những
thời khắc ngặt nghèo này đã đem lại cho Hà Nội một
thái độ tự tin mà đôi khi phảng phất vẻ ngạo mạn.
“Chúng
tôi là một nước nhỏ nhưng mỗi khi Trung Quốc muốn
dùng vũ lực nhằm vào Việt Nam, chúng tôi đã chặn đứng
họ,”
một nhà phân tích quân sự nổi tiếng của Việt Nam cho
tôi hay ở Kuala Lumpur vào đầu năm nay. Chúng tôi gặp gỡ
tại một phòng tiếp tân ở tòa đại sứ của nước
ông. Phòng được trang hoàng với ghế nệm, máy điều
hòa không khí ồn ào, và tranh cổ động phai màu. Cao trên
tường, một nơi trang nghiêm, treo một chân dung của Hồ
Chí Minh đang cười. “Trong
cuộc xung đột Malvinas, Argentina bắn chỉ có ba hỏa tiễn
Exocet; một trong số đó đánh chìm một tàu của Anh,”
ông nói. “Nếu
người Trung Quốc đến với Liêu Ninh, chúng tôi sẽ đánh
bại họ.”
Hà
Nội vừa mới tiếp nhận hai tàu ngầm do Nga chế tạo,
lớp Kilo–bốn chiếc nữa sẽ được giao trong nay mai–và
nhà phân tích quân sự giải thích rõ ràng việc tậu hàng
đắt đỏ đối với một đất nước với thu nhập bình
quân đầu người chỉ khoảng 1900 USD: nước của ông cần
có thể đánh chìm tàu của Trung Quốc nhằm đẩy cái giá
phải trả cho sự gây hấn của Trung Quốc đến mức
không chấp nhận được cho Trung Quốc. “Từng
tý một, chúng tôi đang gỡ bỏ dây thòng lọng”
mà Trung Quốc đã tròng vào cổ của nước của ông, ông
nói với tôi.
Việt
Nam phải cân nhắc việc họ đáp trả khiêu khích của
Trung Quốc vì hai nước có sự mối quan hệ kinh tế ngày
càng gắn bó. Vào năm 2012, vào lúc thời điểm căng thẳng
với Manila, Trung Quốc đã dừng việc nhập khẩu chuối
từ Philippines làm hàng đống hàng bị thối rữa ở cảng.
Vào lúc những căng thẳng dâng cao khi dàn khoan dầu được
kéo vào vùng biển của Việt Nam, giao dịch thương mại
giữa hai nước giảm rõ rệt với truyền thông Trung Quốc
cảnh cáo khả năng về những hậu quả kinh tế lâu dài.
Đối
với Việt Nam, sự kiện dàn khoan dầu đã không đến nỗi
xảy ra chiến tranh. Nhiều quan chức Việt Nam đã nói với
tôi rằng một nỗ lực chiếm lấy những đảo đang trong
tranh chấp của Việt Nam (như họ làm vào năm 1974 và
1988) sẽ dẫn đến chiến tranh. Việc triển khai dàn khoan
dầu đã dấy lên những cuộc biểu tình dữ dội ở Việt
Nam nơi mà những cuộc biểu tình là hiếm có. Vào ngày
đầu tiên, 11 tháng Năm, hàng trăm người có mặt một
cách ôn hòa ở Hà Nội, mang theo biểu ngữ với khẩu
hiệu “Bảo
vệ chủ quyền đất nước.”
Vào những ngày tiếp theo, những đám đông đổ đến
những khu công nghiệp, tấn công doanh nghiệp Trung Quốc.
Các nhà phân tích Việt Nam nói rằng sự kiện bất ổn,
mà nhiều ngưòi biểu tình thiệt mạng, đã cho thấy một
cảnh báo rõ rệt là tính chính danh của chính quyền sẽ
sụp đổ nếu nó không đáp trả bất cứ một cuộc
chiếm đảo mới nào của Trung Quốc.
Nhiều
nhà phân tích phương Tây xem cách tiếp cận của Trung
Quốc ở Thái Bình Dương là một kiểu leo thang được
cân nhắc từng nấc một, nhắm vào việc thiết lập từng
bước sự có mặt của Trung Quốc cũng như thực quyền
của họ qua hàng loạt hành vi khiêu khích, mỗi cái chỉ
nho nhỏ để tránh dẫn đến tình trạng kháng cự chính
trị mãnh liệt, nhưng gộp chung lại chúng sẽ thiết lập
ra các tiền lệ, và rồi thì trở thành chuyện được
chấp nhận. Người Trung Quốc tất nhiên là có tên cho
phương pháp này: chiến lược bắp cải. Một vùng bị
bao vây từ từ bởi những “lá
cải”
riêng rẽ–một chiếc tàu đánh cá chỗ này, một chiếc
tàu hải giám chỗ kia–cho đến khi nó bị bao phủ bởi
nhiều lớp như một cây bắp cải.(“Salami
slicing”–cắt
lát salami–là tên gọi khác cho chiến lược này.)
Dĩ
nhiên là Trung Quốc sẽ thỏa mãn nếu Việt Nam đơn giản
chấp nhận những mở rộng từ từ về đòi hỏi lãnh
hải và lãnh thổ của họ. Thế nhưng qua nhịp độ và
cường độ mà Trung Quốc đã hành động gần đây, ta
thấy là Bắc Kinh sẽ vui thú mà đọ sức với Hà Nội,
đặc biệt nếu Việt Nam được xem là nước ra tay trước.
Nắm được điểm này là nòng cốt để giúp ta hiểu
được việc Trung Quốc triển khai dàn khoan dầu, được
hậu thuẫn bởi một đội tàu: nó sẽ hỗ trợ cho việc
hợp pháp hóa những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc
nếu Việt Nam chẳng làm gì, và nó sẽ cho một cơ hội
đập ruồi với một trận chiến giới hạn–và có lẽ
sẽ ban hành những cấm vận làm tê liệt kinh tế–nếu
Hà Nội quật lại.
Tất
nhiên, đương đầu với lực lượng áp đảo của Bắc
Kinh, một số quan chức Việt Nam gần đây đã cảnh báo
rằng cho dù hành động quân sự từ phía họ là cám dỗ
về cảm xúc, và có lẽ không tránh khỏi, nó có thể
không làm gì hơn là sụp bẫy của Trung Quốc. Nếu câu
hỏi của việc đương đầu với Trung Quốc trở nên gắn
chặt với sự tồn tại của chế độ thì tất cả những
gì đạt được từ chiến tranh là làm dư luận thất
vọng, mỉa mai thay, và việc thay đổi chế độ ở Việt
Nam.
Nếu
Trung Quốc đang tìm kiếm một đối thủ nhỏ hơn để
làm gương ở biển Đông–để cho thấy là kẻ bắt nạt
sẽ chắc chắn muốn gì được đó, rằng nhân nhượng
thì tốt hơn là chống cự–Philippines là một mục tiêu
khả dĩ khác. Cho đến gần đây, Philippines nổi bật vì
sự yếu kém của nó. Lấy ví dụ phi đội vận tải
C-130 đã có thời là hùng mạnh của quốc gia nay chỉ còn
hai hay ba chiếc còn hoạt động. Trong vòng 20 năm,
Philippines đã bỏ lơ quân đội của họ mà vốn dĩ nó
chẳng mạnh từ đầu.
Bắc
Kinh đã bắt đầu bận rộn thay đổi nguyên trạng ở
vùng biển tranh chấp ở biển Đông. Ở những hòn đảo
trong tranh chấp, họ đang xây dựng các cầu tàu hải
quân, đường băng, và thậm chí trường học cho trẻ em
của binh sĩ Trung Quốc đồn trú. Song song, họ đã dùng
các tàu hải giám hay những tàu cá về hình thức để
chiếm lĩnh những bãi cạn hay bãi ngầm đang trong tranh
chấp. Các tàu cá được trang bị GPS và điện đài,và
các thuyền trưởng nhận trợ cấp vì họ đóng vai trò
của một hệ thống cảnh báo sớm cho Bắc Kinh về động
thái của những tàu nước khác. Trung Quốc phản ứng với
hầu hết những vụ xâm nhập vào vùng biển tranh chấp
bằng việc sử dụng ngày càng tinh vi và mạnh mẽ lực
lượng cảnh sát biển để tránh vẻ quân sự hóa về bề
ngoài. Philippines, cũng như hầu hết các quốc gia trong khu
vực, không thể đọ sức với những tàu như vậy ngoài
việc dùng tàu hải quân, điều mà trông có vẻ như làm
xung đột leo thang đối với người ngoài cuộc. Để chắc
ăn, những tàu hải quân Trung Quốc thường lãng vãng ở
phía sau để khuyếch trương thanh thế và sẵn sàng trong
trường hợp khẩn cấp.
Những
nỗ lực đối phó của Manila để khẳng định chủ quyền
của họ ở những đảo nhỏ và bãi cạn ngoài khơi của
họ cũng tài tình không kém thế nhưng rốt cuộc lại
phản ánh sự tuyệt vọng. Nổi tiếng nhất là vụ năm
1999, quốc gia này ủi bãi một con tàu rỉ sét thừa hưởng
từ Hoa Kỳ, còn được biết đến với tên Sierra
Madre,
ngay ở Second Thomas Shoal (Bãi Cỏ Mây–ND) ở Trường Sa,
105 hải lý về phía Tây của Palawan. Các thủy thủ vẫn
đồn trú trên tàu đang tan vỡ là hiện thân rõ rệt
quyết tâm của Manila về chủ quyền ở bãi cạn. Dẫu
vậy sự tồn tại của họ ngày càng phụ thuộc vào trò
mèo vờn chuột với Hải quân Trung Quốc vì nó tìm cách
cắt đứt tiếp tế của các thủy thủ này.
Vào
tháng Giêng, Gilberto G.B. Asuque, lúc đó là trợ lý thư ký
về các vấn đề hải dương, gặp tôi ở một phòng hội
nghị với đầy bản đồ hàng hải ở bộ ngoại giao của
Philippines. “Người
Trung Quốc liên tục bảo chúng tôi kéo bỏ tàu đi,”
ông nói, ngụ ý con tàu Sierra
Madre.
Khi tôi hỏi ông ta là liệu nước ông không được trang
bị tốt cho một cuộc so găng có thể có, ông ta trả
lời, “Chẳng
phải điều đó hơi quá rõ ràng?”
Asuque nói thêm rằng vì tình thế mà Philippines đã phải
chọn việc đưa xung đột với Bắc Kinh ra trước thế
giới bất cứ khi nào có thể. Nếu Trung Quốc chọn dùng
vũ lực, ông giải thích, cộng đồng quốc tế sẽ ủng
hộ kẻ yếu thế.
Nước
này đã dùng phương pháp tương tự trong việc theo đuổi
một vụ kiện chống lại Trung Quốc theo Công ước LHQ về
Luật Biển. LHQ không có quyền lực buộc Trung Quốc thi
hành bất cứ phán quyết nào. Thế nhưng ở vị trí nước
yếu hơn, Philippines đang dựa vào việc làm Trung Quốc xấu
hổ trên trường quốc tế để buộc Trung Quốc tuân thủ
hiệp ước mà họ đã thông qua vào năm 1996. “Chúng
tôi được lợi mọi đằng và chẳng có gì để mất,”
Harry Roque, giáo sư luật của Đại Học Philippines nói với
tôi. Ông là ngưòi góp phần thuyết phục chính quyền
theo đuổi vụ kiện chống Trung Quốc.
Tại
Vịnh Oyster ở bờ biển trung tây của Palawan, chính quyền
Philippines mới đây đã động thổ xây dựng một căn cứ
hải quân mới với những hy vọng muộn màng nhằm đẩy
lui anh chàng hàng xóm khổng lồ và quả quyết. Chỉ trong
năm ngoái đây thôi, Manila đã nhanh chóng tậu hai tàu khu
trục qua sử dụng từ Ý, hàng loạt máy bay trực thăng
tiêm kích và các loại khác,và một hạm đội tàu tuần
duyên. Tổng thống Benigno Aquino đệ Tam thường xuyên nhắc
đến việc mua sắm này là một nỗ lực nhằm bảo đảm
cho nước ông ít ra là có khả năng ngăn chặn vừa đủ.
Chẳng có gì nghi ngờ là ông ta nhắm đến Trung Quốc.
Quan
trọng nhất, hồi tháng Tư, Philippines đã ký một thỏa
thuận phòng thủ chung với Hoa Kỳ. Một tháng sau khi thỏa
thuận,trong một bài diễn văn ở West Point, Tổng thống
Hoa Kỳ Obama nhấn mạnh thông điệp của thỏa thuận.
“Hãy
để tôi nhắc lại một nguyên tắc mà tôi đưa ra từ
đầu nhiệm kỳ của tôi: Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân lực,
đơn phương nếu cần, khi những lợi ích cốt lõi cần
đến–khi công dân chúng ta bị đe dọa, khi đời sống
chúng ta bị lâm nguy, khi an ninh của các đồng minh của
chúng ta bị nguy hiểm.”
Sẽ
có ý cho rằng thỏa thuận và những lời bình luận của
Obama sẽ làm nản lòng Trung Quốc, và đó là nhận định
chung không thắc mắc ở Hoa Kỳ–thế nhưng ở Thái Bình
Dương, giá trị ngăn chặn của thỏa thuận có vẻ ít
chắc chắn hơn. Tất nhiên, một cựu cố vấn an ninh quốc
gia người Philippine nói với tôi vì kế sách mưu mô–mục
tiêu là hất cẳng Hoa Kỳ vì Trung Quốc coi biển Đông là
ao nhà của họ–là một động lực chính đằng sau cái
thế công khai ra mặt mới đây của Trung Quốc. Bây giờ
họ có thể coi Philippines là một mục tiêu hấp dẫn hơn.
Một khi mà Manila có sự hậu thuẫn công khai của Hoa Kỳ,
tìm một cách nào đó để hạ nhục Philippines sẽ cho
phép Bắc Kinh chứng tỏ điều quan trọng hơn. Suy nghĩ
này được tỏ tường sinh động trong những lời bình
luận gần đây của Thiếu Tướng Chu Thành Hổ, giáo sư
của Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Nói chuyện với
đài truyền hình ở Hương Cảng vào tháng Sáu, ông ta
cảnh báo các đồng minh của Hoa Kỳ ở Châu Á là Hoa Kỳ
đã trở thành một con hổ giấy. Ông ta liên hệ phản
ứng của Washington đến khủng hoảng Ukraine với “rối
loạn cường dương.”
Từ
quan điểm của Trung Quốc, kịch bản hoàn hảo có thể
là lực lượng vũ trang còn thiếu kinh nghiệm của
Philippines liều lĩnh sử dụng các vũ khí mới có, dẫn
tới một cuộc chạm trán quân sự giới hạn. Điều đó
sẽ giúp Trung Quốc phô trương ưu thế và có thể đưa
ra yêu sách chủ quyền mới và mạnh hơn với các rạn
san hô trong vùng–có lẽ trong vùng biển giàu dầu mỏ.
Hoa Kỳ có thể khó mà đáp trả trong trường hợp nguy
cấp như vậy. Đối với một số người trong giới hoạch
định chính sách ở Trung Quốc, cơ hội lột trần Hoa Kỳ
chỉ là một đồng minh không đáng tin cậy ở Thái Bình
Dương quả thật có sức cám dỗ.
Nếu
những nguy cơ về việc hạ nhục Hoa Kỳ trong việc hậu
thuẫn (hay thất bại hậu thuẫn) một nước yếu hơn như
Philippines là cao thì nguy cơ đối với Trung Quốc cũng là
đáng kể. Lịch sử hải quân của Trung Quốc kể từ thế
kỷ 19 có đầy những thất bại, thoạt tiên là chống
lại những cường quốc Châu Âu và kế tiếp là chống
lại một Nhật Bản đang lên. Nhật Bản đánh bại anh
hàng xóm của họ trong một trận quyết định vào năm
1895. Bất cứ sự thất bại nào trong việc thắng thế
với Philippines sẽ là một sự bẽ mặt có tiềm năng gây
mất ổn định Đảng Cộng sản. Và Washington có thể lật
tẩy Bắc Kinh, bảo vệ Philippines, nếu giả sử Trung Quốc
cố đuổi binh lính Philippines ra khỏi tiền đồn rỉ sét
Sierra
Madre.
Điều này có thể cho thấy Trung Quốc hóa ra là một con
hổ giấy.
Còn
tiếp…
-------------
Cước
chú:
[0]
:
Bài viết trên vietnamnet.vn của Minh Tâm, Đình Ngân viết
“Theo The Atlantic” http://bit.ly/1vVJnXr
[1]
:
Thông thường tàu chiến chỉ dùng radar với tín hiệu
radio không mã hóa để theo dõi, xác định khoảng cách và
hướng đi của các tàu chung quanh. Khi radar điều khiển
bắn chốt (lock) mục tiêu, nó chuyển sang dùng tín hiệu
radio mã hóa và chuyển băng tần liên tục–FHSS, Frequency
Hopping Spread Spectrum.
*
*
*
Howard
W. French, The Atlantic, Số tháng 11, 2014
neofob
cập nhật các phần bị bỏ sót và chỉnh sửa từ bản
của vietnamnet [0]
Posted on Dec 16, 2014
Posted on Dec 16, 2014
Những
nỗ lực ngày càng mãnh liệt của Trung Quốc để vẽ lại
biên giới hàng hải khiến vừa cả láng giềng lẫn Hoa
Kỳ lo ngại nguy cơ chiến tranh. Nhưng liệu sự gây hấn
ấy là để phản ảnh một chính quyền đang lớn mạnh
hay là một chính quyền đang đối mặt với một cuộc
khủng hoảng chính danh?
***
Ván
cờ Sống Còn
Cách
Philippines vài trăm dặm anh về phía bắc, Trung Quốc đang
so găng với Nhật về một nhóm đảo nhỏ, cằn cỗi và
ít người biết đến cho đến gần đây, được biết
đến trong tiếng Nhật là Senkaku. Nó nằm dưới quyền
kiểm soát không tranh chấp của Nhật kể từ khi họ sát
nhập vào năm 1895 cho đến khi Nhật bị đánh bại vào Đệ
Nhị Thế Chiến. Cho dù có vẻ như là một lãnh thổ cỏn
con–chẳng ai sống ở đó–vụ tranh chấp này chứa đựng
nguy hiểm còn hơn cả những vụ chạm trán lẻ tẻ ở
phía nam. Đây là nơi mà tương lai của Đông Á có thể
được định đoạt. Khu vực chưa bao giờ có sự chung
sống hòa bình giữa hai cường quốc Á Châu, và khi mà
Trung Quốc theo đuổi vị thế cường quốc toàn cầu còn
Nhật Bản đã cho thấy rõ ý định là sẽ kiềm chế
Trung Quốc. Quần đảo Nhật Bản dài khiến Trung Quốc bị
hạn chế hoạt động ở vùng biển duyên hải. Việc kiểm
soát quần đảo Senkaku (và có thể kể cả quần đảo
Ryukyu ở phía đông nam của Senkaku) được Bắc Kinh xem là
chìa khóa cho việc tiếp cận trực tiếp không hạn chế
ra đại dương–và quan trọng là một bước ngoặt để
tiến đến chiếm lấy Đài Loan, một mục tiêu chủ yếu
của Trung Quốc trong hàng chục năm.
Trung
Quốc đã không tranh cãi chủ quyền của Nhật Bản trên
quần đảo Senkaku, mà họ gọi là quần đảo Điếu Ngư,
cho đến tận năm 1971 khi Hoa Kỳ từ bỏ vết tích cuối
cùng của việc chiếm đóng quần đảo Nhật Bản bằng
việc giao lại quyền tài phán cho Tokyo. Trông có vẻ tình
cờ nhưng không ngẫu nhiên chút nào, chỉ hai năm trước
khi Trung Quốc bắt đầu tuyên bố chủ quyền vùng này,
LHQ công bố kết quả của một cuộc khảo sát địa chất
khu vực kết luận rằng “thềm lục địa giữa Đài
Loan và Nhật Bản có thể là một trong những mỏ dầu có
trữ lượng phong phú nhất thế giới.”
Vào
năm 1978, sau nhiều năm lác đác lời qua tiếng lại, lãnh
đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nói với lãnh đạo Nhật
Bản là hai nước nên hoãn lại vấn đề chủ quyền của
quần đảo cho “thế hệ sau”. Căng thẳng lại nổi lên
rõ rệt vào năm 2010, 13 năm sau khi Đặng mất, khi một
tàu đánh cá của Trung Quốc húc một tàu tuần duyên của
Nhật Bản ở vùng biển gần đó. Nhật Bản bắt giữ
thuyền trưởng đã làm dấy động làn sóng dân tộc chủ
nghĩa ở Trung Quốc.
Kể
từ đó, Trung Quốc thường xuyên đưa tàu cảnh sát biển
vào vùng biển 12 hải lý quanh quần đảo Senkaku để
thẳng thừng thách thức nhà cầm quyền Nhật Bản. Hết
lúc này đến lúc khác, quân đội hai nước trực tiếp
đối đầu. Vào tháng 12 năm 2012, ba tháng sau khi chính
quyền Nhật Bản quốc hữu hóa một số đảo Senkaku
(lãnh thổ được sở hữu bởi một công dân Nhật), một
máy bay trinh sát của Trung Quốc xâm nhập không phận phía
trên quần đảo buộc Nhật Bản cất cánh chiến đấu cơ
từ Okinawa gần đó. Một tháng sau đó, trong một động
thái mà các chuyên gia hải quân nói rằng có thể dễ
dàng dẫn đến nổ súng, một tàu khu trục của Trung Quốc
đã chốt radar điều khiển bắn lên diệt lôi hạm
Yudachi của Nhật Bản[1]. Vào tháng Sáu này, máy bay quân
sự của hai quốc gia được tường thuật là đã bay sát
nhau đến 30 mét trên vùng trời của vùng biển tranh chấp
với những pha bay nguy hiểm mà cả hai bên buộc tội lẫn
nhau. Khi được hỏi trong một cuộc thăm dò được tiến
hành mùa hè năm nay, rằng tranh chấp lãnh thổ nên được
giải quyết ra sao, 64 phần trăm người Trung Quốc trả
lời rằng Trung Quốc nên “củng cố kiểm soát có hiệu
quả” lãnh thổ. Quá nửa nói rằng họ dự đoán một
cuộc xung đột quân sự với Nhật Bản sẽ xảy ra trong
tương lai, dẫu vậy chỉ có 11 phần trăm dự đoán nó sẽ
xảy ra trong vài năm tới.
Vào
tháng 12 năm 2012, Nhật Bản đã trao quyền cho một thủ
tướng dân tộc chủ nghĩa nhất trong thế hệ vừa qua.
Shinzo Abe đã gia tăng chi tiêu quốc phòng lần đầu tiên
trong nhiều năm và hứa hẹn sửa đổi hiến pháp, mà nó
nghiêm cấm sử dụng vũ lực trong tranh chấp, để thành
lập một quân đội quốc gia một cách hợp pháp. Abe và
những người đồng sự đã cho thấy một thiên hướng
thổi bùng những bức xúc của Trung Quốc bằng cách tỏ
vẻ ra coi nhẹ những tội ác của Nhật Bản trong Đệ
Nhị Thế Chiến như vụ cưỡng bức nô lệ tình dục phụ
nữ người Hoa bởi quân đội Nhật Bản. Abe có một mối
liên hệ cá nhân mạnh mẽ đến lịch sử đen tối này,
điều mà ông ta chưa từng bao giờ giữ thái độ xa cách
với nó: ông ngoại Nobusuke Kishi của ông là quan chức cao
cấp của vùng Mãn Châu Lý dưới sự chiếm đóng của
Nhật. Tháng 12 vừa qua, ông ta là thủ tướng Nhật Bản
đầu tiên viếng thăm Đền Yasukuni ở Tokyo nơi mà những
tội đồ chiến tranh được thờ. Mối liên hệ không ăn
năn của Abe với thời kỳ này làm cho ngoại giao ở mức
cao nhất với Trung Quốc là bất khả.
Abe
đã công khai nói đến đương đầu với Trung Quốc. Trong
một những biện pháp quốc phòng quan trọng đầu tiên
của ông là phê chuẩn việc thành lập một lực lượng
mô phỏng theo Thủy quân Lục chiến của Hoa Kỳ. Tokyo
cũng đã tham dự vào cuộc chạy đua đóng hàng không mẫu
hạm bằng việc đóng và vừa mới cho vào biên chế hàng
không mẫu hạm hạng nhẹ, chiếc Izumo, mà chỉ mang máy
bay trực thăng vào lúc này. Nhật Bản cũng đã tuyên bố
các kế hoạch để tăng cường hạm đội tàu ngầm cực
kỳ cao cấp từ 16 chiếc lên 22 chiếc. Năm ngoái
Washington tỏ vẻ không bằng lòng khi Nhật Bản tuyên bố
rằng họ sẽ bắn hạ bất cứ máy bay không người lái
nào vi phạm không phận Nhật Bản.
Trong
một chuyến thăm Nhật Bản gần đây, tôi đã đến một
trong những nơi mà quốc gia này đang mở rộng hiện diện
quân đội của họ, Yonaguni. Đó là hòn ngọc bình yên
của một hòn đảo chỉ có hai con đường chính nằm ở
phía cực nam của chuỗi quần đảo Ryukyu. Nơi đó là một
trong những điểm ngoài vùng quần đảo Senkaku, trên cao
điểm, dưới một hải đăng cũ kỹ mà giống ngựa lùn
địa phương gặm cỏ. “Hầu hết người dân ở đây
không muốn có một căn cứ trên đảo,” một cư dân cho
tôi hay. “Thế nhưng để triển khai nhanh chóng, chẳng có
chỗ nào tốt hơn.”
Lý
do căn bản của Nhật Bản trong việc thiết lập tiền
đồn, cũng như những nỗ lực củng cố lực lượng gần
đây, là sớm muộn Trung Quốc sẽ chiếm lấy Senkaku bằng
vũ lực. Những lợi ích khác là việc kiểm soát những
hòn đảo sẽ đem lại cho Trung Quốc một căn cứ hậu
phương để tấn công những tàu chiến của Hoa Kỳ ra
khơi từ những căn cứ ở Okinawa ngăn chúng không đến
được Trung Quốc hoặc can thiệp vào xung đột về quyền
kiểm soát Đài Loan gần đó.
Đầu
năm nay, phát biểu tại một hội nghị ở San Diego, chỉ
huy trưởng của ban tình báo và hành quân của Hạm đội
Thái Bình Dương Hoa Kỳ, hạm trưởng James Fanell, cho rằng
Bắc Kinh đã chuẩn bị lực lượng của họ “để có
thể tiến hành một cuộc chiến nhanh gọn nhằm tiêu diệt
các lực lượng Nhật Bản tại biển Hoa Đông, tiếp theo
là chiếm quần đảo Senkaku hoặc thậm chí quần đảo
Ryukyu ở phía nam.” Ngũ giác Đài sau đó không thừa nhận
những bình luận của Fanell mà một số chuyên gia cho là
chỉ gieo hoang mang. Cho dù ý định thật của Trung Quốc
là gì đi nữa, những lời bình luận của Fanell chuyển
tải một linh tính báo trước của Hoa Kỳ về những căng
thẳng dâng cao giữa Nhật Bản và Trung Quốc.
Nếu
chiến tranh nổ ra vào lúc này, nhiều nhà phân tích tin
rằng Nhật Bản sẽ thắng thế. Bên cạnh hệ thống vũ
khí hàng đỉnh của của Hoa Kỳ, các lực lượng Nhật
Bản còn hưởng lợi từ nhiều năm huấn luyện hỗn hợp
cùng với các đối tác Hoa Kỳ, và có lẽ thiện chiến
hơn so với Hải quân Quân Giải phóng quân Trung Quốc.
Vì
thế, cũng như các chuyên gia khác, các chuyên gia phân tích
nổi tiếng của Nhật Bản nhận thấy ít có khả năng
Trung Quốc sẽ muốn có một cuộc chạm súng trực diện
lớn trong nay mai. “Họ biết rằng chúng tôi sẽ đánh
bại họ,” một chuyên gia hàng đầu về an ninh nói với
tôi một cách thẳng thừng. Thế nhưng ông ta và những
chuyên gia khác nói chung tin là Trung Quốc sẽ tiếp tục
khiêu khích những vụ nằm trong gang tấc và có lẽ kể
cả những vụ chạm trán nhỏ với quân đội Nhật Bản–ví
dụ như quấy rối máy bay của Nhật, húc tàu tuần duyên
của Nhật. Mục đích, theo họ nói, là khó thấy và chủ
yếu là mục tiêu lâu dài. Nó bao gồm dư luận quần
chúng ở Nhật Bản và ở Hoa Kỳ.
Một
khi Nhật Bản và Trung Quốc tiến hành những phi vụ và
cơ động nguy hiểm trên và trong vùng biển động giữa
họ, xác xuất nổ súng tăng lên và đi kèm là nguy cơ
thương vong. Bất cứ bên nào trông có vẻ chịu trách
nhiệm gây ra đụng độ sẽ chịu hình ảnh quốc tế của
mình bị hoen ố thảm hại và sẽ đối diện với áp lực
to lớn để nhượng bộ. Nếu Tokyo bị xem là kẻ gây
hấn, hoặc chỉ là bất cẩn, các chuyên gia Nhật Bản sợ
rằng sẽ có một phản ứng dữ dội từ cả trong lẫn
ngoài nước. Dư luận ở Nhật Bản, với chủ nghĩa yêu
chuộng hòa bình phổ biến sâu đậm, có thể quay ra chống
lại Abe hoặc chính phủ tương lai một khi dân chúng hoảng
loạn khi cho rằng những nhà lãnh đạo của họ đang đưa
họ đến chiến tranh với gã láng giềng khổng lồ.
Thậm
chí nguy hại hơn cả, trong con mắt của các chuyên gia
phân tích Nhật Bản, sẽ là phản ứng của công chúng
Hoa Kỳ. Kể từ năm 1996, Bộ ngoại giao của Nhật Bản
đã thăm dò trực tiếp về sự ủng hộ của người Hoa
Kỳ về ủng hộ của họ dành cho những cam kết phòng
thủ của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản. Năm ngoái, hai phần
ba người được hỏi ủng hộ thế nhưng đó là mức độ
ủng hộ thấp nhất kể từ khi cuộc thăm dò khởi đầu.
Khi được hỏi quốc gia nào ở Châu Á là “đối tác
quan trọng nhất của Hoa Kỳ,” nhiều người Hoa Kỳ nói
rằng Trung Quốc hơn là Nhật Bản. Đặc biệt khi mà vào
thời điểm Hoa Kỳ mệt mỏi với chiến tranh, một cuộc
chạm trán bất ngờ giữa Nhật Bản và Trung Quốc vì cái
mà nó trông từ xa như một đống những mỏm đá vô
nghĩa sẽ gợi một câu hỏi đáng lo: Liệu Hoa Kỳ có sẵn
sàng để đánh Trung Quốc, bảo vệ Nhật Bản vì một
vấn đề lãnh thổ mập mờ.
“Tai
nạn sẽ xảy ra,” Narushige Michishita, giám đốc của
chương trình an ninh và nghiên cứu quốc tế tại Viện
Bồi dưỡng Quốc gia về Nghiên cứu Chính sách của Nhật
Bản thẳng thừng nói với tôi ở Tokyo. “Chúng tôi phải
hoạch định chính sách của chúng tôi dựa trên giả
định” rằng là có những lúc trò đánh bài tháu cáy
rút cục sẽ cho kết quả xấu, dẫn đến binh sĩ thiệt
mạng. “Trọng tâm phải là chuyện giảm thiểu thiệt
hại.” Nhiều phân tích viên tin rằng Trung Quốc đang cố
gắng trêu tức Nhật Bản– bằng những khiêu khích bền
bỉ và có cân nhắc cẩn thận–để nó phản ứng quá
đà và sẽ tiếp tục làm như vậy.
Nếu
Hoa Kỳ dao động trong cam kết của họ đối với Tokyo,
hoặc lẫn tránh hoàn toàn, Bắc Kinh chắc hẳn đã tìm
được một phương pháp đáng kể để đạt được mục
tiêu lớn nhất từ lâu: làm suy yếu liên minh Mỹ-Nhật.
Washington sẽ mất uy tín khắp vùng, và hết nước này
sang nước khác, có lẽ kể cả Nhật Bản, sẽ bắt đầu
có những toan tính mới nhằm để dàn xếp với Trung
Quốc.
Một
lần nữa, phải công nhận là có đầy những cơ hội cho
tính toán sai lầm, và có thể tăng nhanh trong những năm
sắp đến. Giả như Trung Quốc thành công trong việc băt
nạt một trong đối thủ ở Biển Đông, lấy ví
dụ–Philippines chẳng hạn–thì giới lãnh đạo quân sự
và chính trị có thể cảm thấy bạo gan. Và cho dù cùng
là một kịch bản ấy, trách nhiệm của Washington phải
ủng hộ Nhật Bản sẽ là dữ dội khác thường, nếu
không thì toàn bộ cấu trúc đồng minh ở Á Châu đổ
vỡ. Washington sẽ có nhiều lựa chọn trong bất cứ sự
chạm trán nào giữa Trung Quốc và Nhật Bản, kể từ
giao chiến trực tiếp cho đến yểm trợ hết mình bằng
thông tin tình báo trực tiếp vệ tinh và radar, yểm trợ
hậu cần, và kể cả đánh chặn tên lửa của Trung Quốc.
Một danh sách đa dạng như vậy có thể cho phép Hoa Kỳ
xác định phản ứng quân sự của họ đối với bất kỳ
chiến sự nào, phối hợp với ngoại giao nhần nhuyễn,
và để làm êm thấm xung đột trong khi vẫn giữ vững vị
thế của mình. Lịch sử cho thấy nghiêm túc mà nói thì
những động thái đòi hỏi khắt khe cũng có thể đi theo
chiều hướng xấu.
Trói
buộc người khổng lồ
Tính
huênh hoang của Trung Quốc khiến tất cả các quốc gia
xung quanh đều phải để ý. Nhiều nước đã bắt đầu
thiết lập những mối quan hệ đối tác ít ai nghĩ đến
với một mục đích chung: kiềm chế Bắc Kinh.
Đề
cập đến một trong những mối quan hệ mới này, một
nhà ngoại giao Việt Nam ở Đông Nam Á nói với tôi một
cách khôi hài là Ấn Độ “sẵn sàng đánh Trung Quốc
đến người Việt Nam cuối cùng,” nghĩa là Ấn Độ sẽ
dùng Việt Nam để chiến đấu thay họ trong bất cứ cuộc
xung đột nào với Trung Quốc. Dehli đã đồng ý sẽ huấn
luyện thủy thủ Việt Nam về chiến tranh tàu ngầm và đã
hứa hẹn một khoản tín dụng trị giá 100 triệu USD cho
Hà Nội để mua thiết bị quân sự bao gồm các tàu tuần
tra hàng hải. Đó chẳng là gì so với tiêu chuẩn về chi
tiêu của khu vực nhưng nó có lẽ chỉ là bước đầu.
Đây
có lẽ là mục tiêu nổi bật nhất của sự xoay trục
của Hoa Kỳ: làm dày đặc mạng lưới giữa các láng
giềng lo âu của Trung Quốc. Họ có một lợi ích chung
nhằm giữ Trung Quốc khỏi việc dùng vũ lực để lật
úp trật tự hiện thời. Cho lúc này Nhật Bản thừa nhận
là không có nước nào có triển vọng thắng thế trong
chuyện đối đầu giữa Trung Quốc và một số là người
tí hon Lilliputian thẳng thắn mà nói. Phối hợp nhịp
nhàng, dẫu vậy, ngay cả không phải là đồng minh công
khai, họ có thể trói buộc người khổng lồ và chế ngự
hắn vào các quy tắc quốc tế mà đôi bên chấp nhận.
Dầu
thế nào đi nữa, như ví dụ Ấn-Việt cho thấy một cách
sống động, các láng giềng của Trung Quốc không hẳn
đợi Hoa Kỳ vẽ đường chỉ lối. Nhật Bản đang đóng
góp nhiệt tình cho việc tăng cường phòng thủ hàng hải
ở cả Việt Nam lẫn Philippines. Ngay cả Nam Triều Tiên,
thường là một trong những quốc gia say mê Trung Quốc
nhất, giờ đây đang bán quân cụ cho Philippines.
Cuối
cùng, hoạt động cân bằng trong khu vực như thế này có
thể mang đến một triển vọng tốt nhất để tránh một
cuộc đối đầu trực tiếp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ở
tây Thái Bình Dương–và có lẽ là một triển vọng tốt
nhất hơn cả. Trong quyển sách vào năm 2012, Sự Trỗi Dậy
của Trung Quốc đối với Chiến Lược Luận, Edward N.
Luttwak viết về cách tiếp cận giống như mạng lưới
này để quân bình là một trong những chuyện phản ánh
căn bản nhất trong lĩnh vực chiến lược. Sử dụng sự
tương đồng của thời Đệ Nhất Thế Chiến để mô tả
những gì đang diễn ra ở Thái Bình Dương, ông ta nói
rằng “Hành động của Đức về việc đóng tàu chiến
đại dương đã đem lại, không chỉ là việc chạy đua
vũ trang của những cường quốc đại dương của một
thế giới nếu không thì y nguyên, mà còn là một sự
chuyển biến chiến lược toàn cầu để bảo đảm cuối
cùng thì sức mạnh hải quân của Đức vô hiệu và sau
đó là thua trận.”
Trung
Quốc càng nhận thấy một phản ứng phối hợp của
nhiều nước đối với sự tăng cường lực lượng và
đột nhập hải quân thì càng có khả năng Bắc Kinh sẽ
chuyển hướng sang ngoại giao, và ngừng tìm kiếm ưu thế
áp đảo trong khu vực. Và dẫu vậy, tất nhiên, đó chẳng
phải là điều có thể duy nhất theo cách suy diễn giải
thích rõ ràng của Luttwak. Câu hỏi lớn đặt ra ngày nay
là liệu giới lập chính sách của Trung Quốc dưới
trướng của Tập Cận Bình, một lãnh đạo quyết đoán
hiếm thấy, đã vượt giới hạn tương tự như giới lập
chính sách Đức đã làm cách đây một thế kỷ, hoặc có
thể làm điều đó trong một ngày sắp đến.
Nguồn
gốc những sự hung hăng của Trung Quốc
Trong
suốt nhiều thập niên, bắt đầu với Đặng Tiểu Bình,
khẩu hiệu địa chiến lược của Trung Quốc là ẩn mình
chờ thời. Tôn chỉ của Đặng Tiểu Bình đã không bao
giờ bị từ bỏ trắng trợn, thế nhưng hành động của
Trung Quốc kể từ giữa năm 2013 cho thấy rõ ràng rằng
cách tiếp cận của ông đã bị bỏ qua một bên. Giới
diều hâu trong quân đội Trung Quốc không ngừng kêu gọi
phải quyết đoán hơn nữa, thậm chí đến mức hiếu
chiến. Một trong những ví dụ gần đây, Lưu Á Châu, một
chính trị viên của Đại Học Quốc Phòng Giải Phóng
Quân, nghe như thể một chiến lược gia Trung Quốc thời
cổ đại khi ông phát biểu trong một cuộc phỏng vấn
với tạp chí: “Một quân đội mà không đạt được
chiến thắng quân sự thì chẳng có nghĩa lý gì. Những
biên ải mà quân đội chúng ta giành được chiến thắng
thì hòa bình và ổn định hơn, thế nhưng những nơi mà
chúng ta quá nhút nhát thì có nhiều tranh chấp hơn.”
Dẫu
cho Lưu đã bị nhiều người cho là không đại diện cho
tiếng nói chung, bản thân Tập Cận Bình đã công khai cổ
vũ phát triển vũ khí và khuyến khích quân đội sẵn
sàng. Trong một chuyến đi đầu tiên của ông ngoài Bắc
Kinh sau khi nhậm chức vào tháng 11 năm 2012, ông ghé thăm
binh sĩ ở Quân Khu Quảng Châu, được tường thuật là
đã phát biểu, “Tất chiến tất thắng là linh hồn của
một quân đội mạnh.” Vào tháng Tám năm 2013, ông kinh
lý hàng không mẫu hạm Liêu Ninh trước khi nó bắt đầu
hành quân và đã cổ vũ hạm trưởng để nâng cao sẵn
sàng chiến đấu. Trong một bài diễn văn vào mùa thu năm
ngoái ở Moscow, Thời Ân Hoằng, một sử gia về ngoại
giao nổi tiếng của Trung Quốc, tóm tắt sự thay đổi về
chính sách dưới thời của Tập, lưu ý việc sử dụng
thường xuyên khẩu hiệu của nhà lãnh đạo mới “sự
hồi sinh vĩ đại của quốc gia Trung Quốc”; một sự
giảm sút đáng kể của câu nói một thời phát triển
hòa bình; và hoàn toàn bỏ đi ý của Đặng về chuyện
ẩn mình.
Mục
tiêu bá chủ khu vực của Trung Quốc không khó hiểu một
khi những khả năng kinh tế và quân sự bắt kịp với
tham vọng của họ, chúng ta có thể chỉ bước vào những
giai đoạn đầu của một thời kỳ dài và nguy hiểm mà
Trung Quốc tìm cách tự khẳng định chính họ ngày càng
mạnh mẽ hơn. John J. Mearsheimer, một người duy thực và
là nhà khoa học về chính trị, đã từng tiên đoán rằng
Trung Quốc sẽ không trỗi dậy hòa bình ít ra từ quyển
sách của ông kể từ năm 2001, Bi Kịch của Chính trị
giữa các Cường quốc. Trong một cuộc tranh luận vào mùa
thu năm ngoái với Diêm Học Thông, một học giả về quan
hệ quốc tế, Mearsheimer đã nói: “Liệu chúng ta có nên
hy vọng Trung Quốc sẽ có Học thuyết Monroe của chính
họ? Dĩ nhiên rồi.” Thế nhưng điều đó không có nghĩa
là Hoa Kỳ sẽ thích nghi với nó. Mearsheimer chỉ ra rằng
Trung Quốc đang phạm phải sai lầm lớn trong việc chọn
thời điểm của những cú huých gần đây, đụng vào Hoa
Kỳ một cách hấp tấp thay vì đợi một hay hai thế kỷ
nữa khi mà sức mạnh tương đối của họ có thể mạnh
hơn nhiều và khả năng của một chuyện đã rồi cao hơn.
Nhiều
nhà phân tích ráp nối thay đổi gần đây về quan điểm
của nước này với dâng trào về sự tự tin, thậm chí
là hân hoan chiến thắng, trong bối cảnh khủng hoảng
kinh tế toàn cầu vào năm 2008. Điều mà đã giáng cho
những nền kinh tế tây phương một cú chí tử nhưng
Trung Quốc thì tương đối không sút mẻ gì. Những chuyện
tiếp theo sau, ví như giới hạn giả tạo mà Tòa Bạch Ốc
vạch ra về việc dùng vũ khí hóa học ở Syria và sự
bất lực của Washington nhằm ngăn cản Nga khỏi sát nhập
Crimea, có thể đã góp phần khiến Bắc Kinh cảm nhận
rằng sinh lực của Hoa Kỳ ở hải ngoại đang giảm sút.
Và
dẫu vậy, thật nghịch lý thay, hành xử mới đây của
Trung Quốc trông như là một phản ảnh của không chỉ là
sự trỗi dậy về năng lực hay tự tin mà còn là sự
trỗi dậy của bất an trong giới lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản. Sự chính danh của họ ở quốc gia thời hậu
lý tưởng đã luôn dựa trên trụ cột song sinh của phát
triển kinh tế và chủ nghĩa dân tộc. Sự bùng nổ của
truyền thông xã hội ở Trung Quốc đã khuếch đại tiếng
nói của những người dân túy cực đoan mà luôn yêu cầu
quốc gia của họ thẳng thắn đương đầu và không ngại
sử dụng bạo lực. Điều này dường như đã gieo rắng
nỗi sợ hãi trông nhu nhược vào giới lãnh đạo. Khi
được hỏi rằng liệu một nhà lãnh đạo Trung Quốc có
thể tuyên bố công khai thỏa hiệp với những láng giềng
của họ, Ngô Kiến Dân, một cựu phát ngôn viên ngoại
giao và là cựu hiệu trưởng của Đại học Ngoại giao
Trung Quốc, nói với Asahi Shimbun, một nhật báo Nhật Bản,
“Anh sẽ là một ‘kẻ phản bội.'”
Trong
khi đó, lãnh vực sản xuất của Trung Quốc, đã từ lâu
là đầu tàu của phát triển, đã sa thải nhân công trong
nhiều năm qua khi mà tiền lương dần tăng và công nghệ
rút ngắn công việc có mặt khắp nơi. Nền kinh tế và
công việc làm tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng nhưng sự
phát triển đó là do bởi chi tiêu chưa từng thấy của
các tập đoàn và nợ công. Theo một số phép đo gần
đây, năng suất phát triển đang giảm. Có thể nói rằng
các láng giềng của Trung Quốc có nhiều lý do để lo
ngại về khả năng của một sụt giảm kinh tế đột
ngột ở Trung Quốc, điều mà nhiều chuyên gia đã dự
báo từ lâu, cũng như họ tiếp tục chú trọng về tăng
trưởng nhanh: nếu một trụ cột của chính danh mà yếu
đi thì cái còn lại phải chịu gánh nặng nhiều hơn.
Giới
lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc tiếp tục, cho một mức
độ nào đó, là một bí ẩn, và chẳng ai có thể quả
quyết rằng tại sao quốc gia đột nhiên khẳng định
quyền lợi của họ quyết liệt ở Đông Á. Tuy vậy có
thể bào chữa cho việc này, rằng đây là khoảnh khắc
của Hoa Kỳ cho cơ hội chín muồi đối diện với Trung
Quốc, một cơ hội để lèo lái nó vào lề lối cùng tồn
tại ít gây hấn hơn mà trong đó những quy tắc quốc tế
sẽ được chấp thuận, thay vì được tái tạo dưới
trướng của Bắc Kinh.
Dẫu
cho Trung Quốc sẽ chắc là nền kinh tế lớn nhất thế
giới, một số chỉ dấu cho thấy là quốc gia có thể đã
bước vào thời kỳ của tiềm lực tối đa tương đối
so với phần còn lại của thế giới–rằng là những
báo động đỏ đã xuất hiện có thể báo trước một
sự thay đổi về quỹ đạo kinh tế hơn chỉ là một cú
mắc nghẹn. Bức tranh dân số Trung Quốc cho thấy một sự
thiếu hứa hẹn về một lực lượng lao động bắt đầu
suy giảm rõ rệt, và một xã hội mà nó có thể già
trước khi nó giàu thật sự, tính theo đầu người mà
nói. Ngay cả ở Trung Quốc, chỉ có vài kinh tế gia tin
rằng quốc gia có thể duy trì mọi thứ với tỷ lệ phát
triển như trong vài thập niên vừa qua, và một số tin
rằng nó đã bước vào bẫy thu nhập trung bình. Những
quốc gia đang phát triển từng có kinh tế vượt bậc khó
mà tiếp tục phát triển để đi vào hàng ngũ các quốc
gia công nghiệp với sáng kiến và dịch vụ cao cấp thay
thế sản xuất đơn giản. Như nhà khoa học chính trị
David Shambaugh đã chỉ ra gần đây “Không có lấy một
công ty Trung Quốc đứng trong 100 thương hiệu hàng đầu
thế giới theo xếp hạng của tạp chí BusinessWeek.”
Nếu
Washington có thể tiếp tục tìm ra những phương cách để
yểm trợ đồng minh của mình, đặc biệt là những nền
dân chủ ở Đông Á, và nếu Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể
tránh những tính toán sai lầm trọng đại trong những năm
sắp đến thì sự quả quyết của Trung Quốc vào lúc này
có thể dọn đường cho một sự tự tin sáng sủa và
thực tế hơn ở Bắc Kinh. Nếu Trung Quốc có thể dần
xoay chuyển một cách thành công, và nếu chính phủ có
thể từ từ tìm ra những nguồn lực cho chính danh–giả
dụ bằng một sự minh bạch hơn, những phương pháp chống
tham nhũng nghiêm ngặt hơn, kiểm soát ô nhiễm, và những
cải thiện mức sống bền vững cho dân chúng–giới
hoạch định chính sách có thể nhận ra rằng chẳng có
lợi gì trong việc đối đầu các láng giềng của họ.
Một
chiều tháng Giêng, tôi ghé thăm căn cứ hải quân của
Philippines ở ngoại ô của Manila để được thuyết trình
bởi một cựu đô đốc và là cố vấn an ninh quốc gia.
Ông ta cho tôi hay rằng chi tiêu quân sự của nước ông
có lẽ sẽ tăng gấp đôi trong nay mai với một phần lớn
của sự gia tăng cho hải quân và không quân. Một vài
phút sau, ông đặt một câu hỏi cho tôi với vẻ kinh
ngạc: “Anh có nghĩ rằng đó là điều tự nhiên cho một
siêu cường hành xử như Trung Quốc?”
Khi
cuộc họp dài hơi đến hồi tan, một số sĩ quan tham mưu
được khuyến khích phát biểu lần đầu tiên, và một
hạm trưởng quay sang tôi và hỏi tôi nghĩ gì về một
lịch trình có thể cho một cuộc xung đột trong tương
lai với Trung Quốc. Một chốc sau, anh ta ngắt lời tôi
trong lúc tôi tuôn tràng một câu trả lời đầy rào đón
và nói “Tôi hy vọng là nó không xảy ra trong đời tôi.”
**Căng
thẳng dâng cao: Nhật Bản và Trung Quốc **
Một
danh sách không đầy đủ của những khiêu khích gần đây
(1)
Tháng 12 năm 2012: Một máy bay trinh sát Trung Quốc xâm nhập
vào không phận trên quần đảo Senkaku; Nhật Bản xuất
kích máy bay phản lực chiến đấu để nghênh cản.
(2)
Tháng Giêng năm 2013: Một khu trục hạm Trung Quốc chốt
radar điều khiển bắn lên diệt lôi hạm Yudachi.
(3)
Tháng Hai năm 2013: Ba tàu hải giám Trung Quốc xâm nhập
vùng biển quanh Senkaku.
(4)
Tháng Hai năm 2013: máy bay Trung Quốc bị nghênh cản bởi
máy bay phản lực của Nhật Bản trong không phận của
vùng tranh chấp.
(5)
Tháng Bảy năm 2013: chiến hạm Trung Quốc hải hành vòng
quanh Nhật Bản.
(6)
Tháng Bảy năm 2013: Trung Quốc và Nga tiến hành một cuộc
tập trận hải quân hỗn hợp ở Biển Nhật Bản.
(7)
Tháng 11 năm 2013: Bắc Kinh tuyên bố một “vùng nhận
dạng phòng không” trên hầu hết khắp vùng biển giữa
Trung Quốc và Nhật Bản.
(8)
Tháng Sáu năm 2014: máy bay quân sự Trung Quốc bay trong
vòng 30 mét của máy bay quân sự Nhật Bản trong không
phận vùng tranh chấp.
--------
Cước
chú:
[0]: Bài viết trên vietnamnet.vn của Minh Tâm, Đình Ngân viết “Theo The Atlantic”
[0]: Bài viết trên vietnamnet.vn của Minh Tâm, Đình Ngân viết “Theo The Atlantic”
[1]:
Thông thường tàu chiến chỉ dùng radar với tín hiệu
radio không mã hóa để theo dõi, xác định khoảng cách và
hướng đi của các tàu chung quanh. Khi radar điều khiển
bắn chốt (lock) mục tiêu, nó chuyển sang dùng tín hiệu
radio mã hóa và chuyển băng tần liên tục–FHSS, Frequency
Hopping Spread Spectrum.
No comments:
Post a Comment