12/12/2014
(Bài
nói chuyện về Thanh Tâm Tuyền trong cuộc Hội Thảo Văn
Học Miền Nam 1954-1975 vào ngày 7/12/2014 do Người Việt,
Việt Báo, Tiền Vệ, Da Màu tổ chức.)
Kính thưa quý vị (KTQV), tôi rất hân hạnh trình bày đề tài “Thanh Tâm Tuyền (TTT), Nhà Thơ Tiên Phong”. TTT tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13/3/1936 tại Vinh, Nghệ An, viết văn, làm thơ, thỉnh thoảng viết về phê bình, và lý luận văn học khi còn rất trẻ. Tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc (TKCCĐ), xuất bản năm 1956 tại Sài Gòn khi TTT mới 20 tuổi. Tám năm sau, năm 1964, Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy (LĐMTTT) ra đời. Theo lệnh động viên, ông nhập ngũ năm 1962, giải ngũ năm 1966. Năm 1968 tình hình chiến sự căng thẳng, ông tái ngũ và phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho đến khi Miền Nam thất thủ năm 1975. Ông ở tù bảy năm dưới chế độ Cộng Sản. Năm 1990, theo diện HO, ông sang định cư tại Hoa Kỳ, cho in tập thơ cuối cùng, Thơ Ở Đâu Xa (TỞĐX), và qua đời ngày 22/3/2006 tại Minnesota, Hoa Kỳ.
Kính thưa quý vị (KTQV), tôi rất hân hạnh trình bày đề tài “Thanh Tâm Tuyền (TTT), Nhà Thơ Tiên Phong”. TTT tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13/3/1936 tại Vinh, Nghệ An, viết văn, làm thơ, thỉnh thoảng viết về phê bình, và lý luận văn học khi còn rất trẻ. Tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc (TKCCĐ), xuất bản năm 1956 tại Sài Gòn khi TTT mới 20 tuổi. Tám năm sau, năm 1964, Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy (LĐMTTT) ra đời. Theo lệnh động viên, ông nhập ngũ năm 1962, giải ngũ năm 1966. Năm 1968 tình hình chiến sự căng thẳng, ông tái ngũ và phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho đến khi Miền Nam thất thủ năm 1975. Ông ở tù bảy năm dưới chế độ Cộng Sản. Năm 1990, theo diện HO, ông sang định cư tại Hoa Kỳ, cho in tập thơ cuối cùng, Thơ Ở Đâu Xa (TỞĐX), và qua đời ngày 22/3/2006 tại Minnesota, Hoa Kỳ.
Hôm
nay tôi chỉ đề cập đến lãnh vực sở trường và độc
đáo nhất của ông, đó là thơ.
Có
người cho rằng Văn Học Miền Nam đột ngột chết, bị
bức tử mà chết sau tháng 4/75. Tôi không đồng ý. Một
nền Văn Học rực rỡ như thế không thể nào mai một,
nó đã được kế tục và phát triển. Bằng chứng là
trước đây và nhất là hôm nay, nền Văn Học ấy đã và
đang được vinh danh. Cũng vì thế, ngoài phần trình bày
Thơ TTT trước năm 1975 như đòi hỏi của cuộc
Hội Thảo, tôi xin trích dẫn thêm một bài thơ trong tập
TỞĐX in năm 1990 ở tại Mỹ.
Trước
hết, tôi xin giới thuyết hai chữ “tiên phong” trong bối
cảnh Văn Học Việt Nam. Nó không có nghĩa là “avant-garde”
như trong thuật ngữ tiếng Pháp, mà là “xông xáo, đi
trước” so với tính cách “dè dặt, thủ cựu.”
KTQV, từ năm
1954 đến năm 1975, chỉ 21 năm, văn học Miền Nam phát
triển rầm rộ, nhanh chóng, nhất là thơ. Ngoài những nhà
thơ đã nổi tiếng từ thời tiền chiến như Vũ Hoàng
Chương, Đinh Hùng, rất nhiều nhà thơ lỗi lạc khác chen
nhau xuất hiện như Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Cung
Trầm Tưởng, Du Tử Lê, Nhã Ca, Trần Dạ Từ v.v..., trong
đó một khuôn mặt độc đáo nhất, mạnh mẽ nhất, táo
bạo nhất, cách tân nhất, đó là TTT.
Thử
nhớ lại lúc TKCCĐ ra đời cách đây gần 60
năm. Đó là một chấn động lớn trong sinh hoạt văn học
Miền Nam, nó tạo nên những tranh luận sôi nổi. Người
thì cho rằng TTT điên rồ viết những câu thơ vô nghĩa,
hoặc cố tình lập dị để được chú ý; kẻ thì ca
ngợi trên tờ Sáng Tạo.
Thơ
của Lê Thánh Tông (1442-1497) viết cách đây
500 năm “Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương/ Miếu
ai như miếu vợ chàng Trương”(Đề Miếu Bà
Trương) so với thơ tự do của Trần Dần
bây giờ “Dừng chân trong mưa bay/Ướt đầm mái
tóc/Em em nhìn đi đâu/Môi em đôi mắt” (Không
Nói), ta không thấy bỡ ngỡ. Xưa và nay đều
quen thuộc, đều được hiểu trọn vẹn.
Thế
Thơ TTT? Nếu lấy bài Chim làm ví
dụ, thì quả nó hoàn toàn xa lạ. Nó không phải là một
tiếp nối quá khứ, mà là một đột phá tận cùng, một
đoạn tuyệt với truyền thống. Xin trích đoạn đầu của
bài thơ ấy:
“Đêm giao thừa
thế kỷ mưa rơi sao
mái sáng đường
nằm chiêm bao biển giận dỗi
bàn tay mây mắt
trăng môi nhiệt đới
chiến tranh còn
những khoảng đất hoang
cửa sổ đập
lên cao cánh chim én mùa xuân
ôm vào lòng bãi
cỏ vườn hoa bầy sao rụng” ...
Nhưng
Thơ TTT có phải luôn luôn “xa lạ” như thế
hay không? Câu trả lời là không. Trái lại là đằng
khác. Có hai lý do chính.
Thứ
nhất, có nhiều đoạn, nhiều bài vô cùng giản dị,
không chút màu mè, không tô điểm, không tu từ, không thể
nào đơn giản hơn nữa, nằm rải rác trong cả hai tập
thơ đầu:“Nếu đã đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng
hay sang Bắc Ninh/Nếu đã đi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long
hay lên Thủ Dầu Một” (Bao Giờ)...
Hay: “Anh biết vì sao cộng sản thủ tiêu Khái Hưng/mỗi
lần hoàng hôn tôi bước cùng đám đông/lòng khẩn cầu
cách mạng”(Trưởng Thành). Một số
bài trọn vẹn cũng thế, rất đơn giản, như Bằng
Hữu, Một Lần Nữa ... “Bình dị, đơn sơ” và
“phức tạp, khó hiểu” chen lẫn nhau là một trong những
phong cách của Thơ TTT. Tuy nhiên, ngay cả với
những bài bình dị nhất, Thơ TTT vẫn khác
hẳn thơ của lớp người đi trước hoặc đồng thời.
Thứ
hai, TTT không đả phá vần điệu. Nếu Thơ Lục
Bát luôn luôn gieo vần âm bằng, thơ 7 chữ,
Thơ Mới v.v...cũng thường gieo vần âm bằng,
thì trong Thơ TTT vần và nhịp điệu hết sức
đa dạng, sáng tạo, kín đáo, bằng trắc đều có, và
nhiều khi những chữ vần được đặt cách xa nhau. Vần
âm bằng rất nhiều, âm trắc hoặc bằng trắc xen kẽ
cũng thường gặp, nhưng rất mới lạ, TTT còn cho bằng
vần với trắc như trong bài Tình Cờ chẳng
hạn:
Hai
người yêu nhau rất tình cờ
như trên cùng một
toa xe lửa
tàu chạy qua cầu
nghe tiếng sắt và tiếng nước trôi mau
nhìn về đốm
lửa yếu thành phố trên sông
thành phố trẻ
thơ tiêu điều ru dưới những bầu trời xấu
...
Lại
có loại vần của nhịp điệu, của hình ảnh, của ý
tưởng trong những bài thơ rất dài như Sầu Khúc,
Đêm, Bài Ca Ngợi Tình Yêu, Mặt Trời Tìm Thấy.
Cũng
có nhiều đoạn thơ hoàn toàn không vần:
Khi
mặt trời vừa thức
Đòi
gặp mùa xuân
Cho
làn mi lá ngủ
Cho
khoé mắt biển sâu
Cho
đồi hoa bát ngát...
(Bài
Thơ Của Tháng Giêng)
hoặc
thơ văn xuôi:
“Hồn
nhiên tôi trở thành thi sĩ ca dao nhẹ những nhát cuốc
đầu xới lần áo mỏng ruộng đồng.
Những
chuyến đi xa theo mưa về ngủ mái rạ. Đem hiền lành, có
lẽ từ một cửa bể bến sông quán rượu. Những người
bạn hứng mưa vào lòng tay, gịot mưa đẹp như mắt ngủ,
rất xa không hề cách. Tôi sẽ đưa em về ngủ bên
sông, tâm hồn là cánh đồng chưa khai phá. Tôi sẽ mời
anh về nghe mưa trên vừng trán vô tư, giác quan mở từng
ngõ lạ xuống linh hồn. Chúng ta ngủ ngoài mưa như
mơ ngủ.” ...
(Mưa
Ngủ)
KTQV,
khác hẳn hầu hết những nhà thơ trước ông rất hạn
chế về đề tài, thơ TTT mở rộng ra nhiều lãnh vực
của cuộc sống. Ông đề cập đến tình yêu nam nữ;
tình bằng hữu; tình yêu quê hương, đất nước; những
khát vọng về tự do; những quan tâm đến cách mạng, đến
tình hình ở nhiều nơi trên thế giới, đến những thành
phố còn sống trong ngục tù Cộng Sản; những ưu tư về
thân phận con người, những băn khoăn siêu hình; những
truy lùng tiềm thức, vô thức.
Một
điều đáng chú ý là TTT không tả cảnh. Thiên nhiên chỉ
được nhắc đến rất vắn tắt khi cần minh họa cho
những dòng ý thức. Nói cách khác, con người với tư duy
của hắn được chú ý hơn ngoại cảnh. Mưa trong “Mưa
Ngủ” vừa được trích dẫn đã biến thành con
người rồi, nó về ngủ mái rạ, nó về rơi trên vừng
trán vô tư. Điều này làm tôi nhớ trong cuốn The Brothers
Karamazov của Dostoevksy mà TTT rất mến, gần 1000 trang mà
chỉ có mấy dòng nhắc nhở đến thiên nhiên, thời tiết.
Hơn
một lần TTT bày tỏ quan điểm của mình về thơ. Trong
Định Nghĩa Một Bài Thơ Hay, ông viết: “một
câu thơ hay tự nhiên như lời nói”, hay trong
Một Bài Thơ:“không đa đa siêu thực/thẳng
thắn/khởi từ ca dao sang tự do.” Tuy nhiên ngay khổ
đầu của bài Chim được trích dẫn bên trên
lại khiến ta nghĩ đến những hình ảnh đột ngột xuất
hiện đặt bên nhau không theo một thứ tự logic nào cả,
những khơi dậy của tiềm thức, vô thức, những giấc
mơ, vân vân, tức là những đặc trưng được André
Breton trình bày trong Tuyên Ngôn của Trường Phái
Siêu Thực (Manifestes du surréalisme) ra đời năm
1924. Đúng ra Bài Chim không xa Siêu Thực, không
gần Ca Dao như tác giả của nó mong muốn. Có thể nói
rằng Thơ TTT là phối hợp của Truyền Thống
Dân Tộc (Ca Dao) với Chủ Nghĩa Hiện Đại Phương Tây.
Thời
còn rất trẻ, dưới 20 tuổi, ông viết: “Tôi không
ca ngợi tình yêu, tôi nguyền rủa tình yêu (Nổi
buồn trong thơ hôm nay 1955). Đấy chẳng qua là
cái sôi nổi, bồng bột của tuổi trẻ. Thật ra TTT từng
viết một bài thơ tình rất dài, rất hay, một thứ tình
yêu không nước mắt, không than thở không bi lụy, nhưng
đầy thương nhớ, trăn trở. Yêu nhau như “nụ hôn
đầu” thì tiếp theo ngay đó là “ôm mái tóc lang
thang”. Xin trích dẫn hai đoạn trong bài ấy, Liên
Những Bài Thơ Tình Thời Chia Cách trong TKCCĐ:
“Sự
vắng mặt của em và bãi biển mùa đông
thành
phố đau từ mỗi cột đèn
mỗi
bực thềm cửa đóng
em
đi không nón không áo choàng
mưa
tầm tã
những
cửa sổ đêm muốn hé ra
nổi
loạn
và
mắt em mặt trời cỏ hoa với môi anh đằm thắm
và
rực rỡ nhớ thương
Nét
cong môi hồng mắt tình cờ
ngực
hoa yếu đuối
những
miền không gian được gọi qua
tình
yêu không thẹn thùng
đâu
phải một thứ mưa ô buy vào thành phố
năm
cửa ô hồi sinh trên xác năm cửa tù
mưa
nắng cùng rủ nhau xuống Sinh Từ ngõ Hội Vũ
bao
nhiêu đường tình tự ga hàng cỏ
nụ
hôn đầu ôm mái tóc lang thang” ...
Ở
tập thơ thứ hai LĐMTTT tình yêu vẫn còn, khá
tươi sáng, trong Bài Ca Ngợi Tình Yêu:
Em là lá biếc là
mây cao là tiếng hát
sớm mai khua thức
nhiều nhớ thương
em là cánh hoa là
khói sóng
đêm màu hồng
Tuy
nhiên thường xuyên hơn, kể cả trong tình yêu, là những
ám ảnh, trăn trở, những độc thoại nội tâm ảo não,
những tiếng nói trong cơn mê:
“Anh xé tóc em
cùng những cành lá chết
Mùa thu
Ghi thương tích
nơi cườm tay
Khóa
chặt
Anh
xô ngã em từ chóp đỉnh hạnh phúc
Khuôn
mặt vỡ tan
Như
cẩm thạch
Như
nước mắt
Như
muôn đời
Không
hối hận
Con
đường anh phải đi một mình
Trần
truồng dã thú
Đón
anh ở cuối đường
Hố
sâu vĩnh viễn
Không
có em
...
“Những
bài thơ tình không viết được
Những
hồn ma hoang đầu ngọn cây
Xác
chết rữa nát
Trong
kẹt rừng khô
Đêm
thức dậy mở mắt mắt đã mù
Hai
con sâu nằm trên chân mày đang khoét lỗ
Con
quạ hôi hám mở lồng ngực bay lên
Mỏ
ngậm quả tim đựng hình ảnh đời người
Đời
người thản nhiên như tên gọi” ...
(Đêm)
hoặc
những khắc khoải về thân phận con người tha hóa, chỉ
mong còn chút tự do:
“Trong đầu là
hư vô
Trong
mắt là hoang đảo
Trên
môi là thần chú
Trên
tay là trống không
Cả
đời là sa mạc
Cả
tôi là tự do”...
(Đêm)
Nhưng
có tự do hay không, hay là đi đâu nhà tù cũng đi theo vây
hãm:
“Phiêu
lưu mãi là một nhà tù
Dãy tường câm
chuyển động
Trên
một triền vực sâu”
(Sầu Khúc)
Nói
chung, Thơ TTT không dễ đọc. Trước hết, nếu thơ của
ta từ xưa cho đến thời Thơ Mới và cả giai
đoạn 1945 – 1954 là tiếng nói của tình cảm,
của biểu đạt, nhằm gây xúc động – Xuân Diệu
xôn xao trước thời gian: “Mau với chứ, vội vàng lên
với chứ!” (Giục Giã), Huy Cận
bâng khuâng trước không gian: “Sông dài, trời rộng,
bến cô liêu” (Tràng Giang) – thì thơ
trong giai đoạn 1954-1975, đặc biệt Thơ
TTT , là những dòng ý thức, nhận thức, nhằm đặt
vấn đề. Cũng không còn cả cái “Nao nao dòng nước
uốn quanh” như trong Kiều mà là
những thao thức, trăn trở “dù tôi đang đứng bên bờ
sông, nước đen sâu thao thức”.
Bài Phục Sinh,
bài thơ đầu tiên trong TKCCĐ là một
ví dụ của những dòng ý thức, của những tra vấn, trăn
trở về thân phận con người. Ta thử xem khổ thứ nhất:
Tôi
buồn khóc như buồn nôn
ngoài
phố
nắng
thủy tinh
tôi
gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh
tâm tuyền
buổi
chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi
xin một chỗ quỳ thầm kín
cho
đứa trẻ linh hồn
sợ
chó dữ
con
chó đói không màu
tôi
buồn chết như buồn ngủ
dù
tôi đang đứng bên bờ sông
nước
đen sâu thao thức
Ba
chữ đầu của bài thơ đầu trong
tập thơ đầu của TTT xuất hiện mới lạ:
“Tôi buồn khóc”. Xưa nay ta chỉ nói buồn cười,
buồn ngủ, buồn mửa, vân vân. Và ta sẽ gặp trong
hầu hết Thơ TTT rất nhiều sáng tạo chữ
nghĩa như thế: hy vọng thổn thức, lòng tin phủ tro,
quá khứ đăm đăm, buổi chiều vội vã đêm, mây đục
đậu lên bờ cửa sổ, bước ai thánh thót, ngực gọi
đêm về, mắt kín mưa đêm, trên chúm môi lá biếc/ những
chòm hôn vội vàng, v.v. Nhiều vô số kể. Chữ nghĩa
mới lạ là một trong những đặc điểm nổi bật của
thơ ông.
Xin
trở lại với bài Phục Sinh. Câu đầu tiên
đầy ray rức được nối tiếp bằng hai câu thật ngắn,
thật đột ngột, ngoài phố/nắng thủy tinh, tạo
nên sự đối nghịch lớn - tôi trong căn gác cô đơn khắc
khoải, muốn tự hủy, tên tôi cũng sẽ chỉ còn là một
nỗi nhớ, trong khi ngoài kia cuộc đời vẫn còn đó trong
veo nắng.
Câu
thứ sáu lại là chuyển biến mới mang nhiều hình ảnh,
ẩn dụ, đa tầng, đa nghĩa:
buổi chiều sao
vỡ vào chuông giáo đường
Sao
trên trời là tướng tinh của con người, và một ngôi
sao tắt có nghĩa là một người sắp qua đời chăng?
Vâng, chiều nay có một ngôi sao vỡ, giáo đường gióng
lên tiếng chuông cầu hồn. Mà câu thơ ấy cũng gợi lên
hình ảnh chiếc linh hồn nhỏ chạm vào chuông giáo đường
làm tóe ra những hình sao vỡ. Cho nên “đứa trẻ linh
hồn” vội tìm chỗ ẩn nấp trốn tránh con chó dữ
trong tôi đóng vai bà già đánh lừa em bé quàng khăn đỏ
mà nhà thơ sẽ nhắc lại trong đoạn kế tiếp.
Trong
suốt hai tập thơ TKCCĐ, LĐMTTT, và khá nhiều
bài thơ khác đăng trên các báo, ta thường gặp những
cách phô diễn đầy ẩn dụ và tra vấn như trên. Xin
trích thêm vài câu trong bài thơ văn xuôi Khúc Tháng
Chạp viết vào cuối năm 1969:
“Nội
không quạnh quẽ như ngàn cõi chiêm bao vượt. Đập vỗ,
đập vỗ hoài con mắt buốt, con mắt vi ty rụng trụi lớp
mi che, không động thức. Con mắt khờ câm căng chống.
Tưởng dáng mùa hè chín ối. Tưởng nét mùa thu lung linh.
Đã bay qua, bay qua nghìn mệt mỏi. Như điệu ngân hụt
hẫng”...
Thơ
TTT, do đó, đòi hỏi sự tham gia của người đọc.
Sự tham gia ấy sẽ phát hiện ý nghĩa và giá trị của
văn bản. Người đọc đến từ những nguồn gốc khác
nhau, trình độ khác nhau, cảm thụ khác nhau, nhận thức
khác nhau, do đó phát hiện cũng khác nhau.
Chẳng
hạn trong bài Dạ Khúc khá đơn sơ, người
thì cho rằng hai câu đầu, Anh sợ những cột đèn đổ
xuống/Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta, là vớ vẩn,
kẻ thì thích lối ẩn dụ ấy đã nói lên được một
nhân sinh quan không bình yên trong một thế giới đổ vỡ.
Franz Kafka cũng đã từng “vớ vẩn” hơn để nhân vật
Gregor Samsa hóa thân thành con sâu gớm ghiếc (Metamorphosis)
sau một đêm nằm ngủ đầy mộng mị. Hoặc với bốn
câu thơ dưới đây, có người bảo thiếu trau chuốt, kẻ
khác lại cho rằng viết như thế mới gây ấn tượng
mạnh:
Sao tuổi trẻ quá
buồn
như con mắt
giận dữ
Sao tuổi trẻ quá
buồn
như bàn ghế
không bày
Nhưng
có lẽ ai cũng phải thừa nhận rằng “Dạ Khúc”
là tiếng nói của tuổi trẻ cô đơn, bơ vơ, buồn
chán, nổi loạn, tuổi trẻ của ai mà chả thế, trong một
quê hương tương tàn, một đất nước tan tác!
Đối
với bài Chim mà ta đã trích dẫn trên chẳng
hạn, việc tham gia của người đọc lại không dễ. Chữ
nghĩa tinh khôi, hình ảnh dồn dập, lung linh, đa dạng,
nhạc điệu phong phú, nhưng bài thơ muốn nói gì? Kiếp
người ví như kiếp chim chăng, con người trong cuộc lữ
có khác gì cánh én cô đơn bay mải miết trong thời gian
và không gian, thời gian là đêm giao thừa của thế kỷ,
không gian là vô vàn hình ảnh, sự kiện, xuất hiện ngổn
ngang, là bão tố, là “mưa rơi sao”. Và kết cục,
như được mô tả trong dòng cuối cùng của bài thơ,
“chim bay vào trận mưa sao”.
Về
sau, khi cuộc chiến khốc liệt vượt lên trên mọi nỗi
băn khoăn, khắc khoải của thời đại, Thơ TTT
lại chuyển biến:
Ta nhớ sau lưng
núi thanh thản
Biếc
mây như lệ của đêm điên
Ta
nhớ rằng ta không nhớ nữa
Như
cây trơ trụi mùa hưu miên
Như
phiến gỗ nặng thả theo nước
Bập bềnh trôi
nổi ta về xuôi
Như lau lách mọc
chen bờ bãi
Phất phơ tóc bạc
lả theo trời
(Đỉnh Non Xa,
Giai PhẩmVăn 9/1974)
Phải
chăng TTT đang “về xuôi”, về với các thể thơ dễ
dãi đã có, về với những sôi nổi của tuổi trẻ đang
lắng dần, những giấc mơ đang tan vỡ, về với đám
đông lau lách dưới kia, khi mái tóc không còn xanh, khi
“tóc bạc lả theo trời”. Nhưng dù với thể thơ
nào, TTT vẫn tỏ ra có biệt tài. Xin dẫn một đoạn ngắn
của bài Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng thật dài
làm ví dụ, trong đó những chấm câu bất ngờ, những
ngôn từ quấy động, vần thì âm trắc, hình ảnh đa
dạng, dữ dội, ý tứ cuồng nộ, khiến lời thơ trở
nên dồn dập, khúc khuỷu, gắt gỏng:
Ngôi nhà đỏ
trên đồi trăng hồng khỏa.
Trời sương lam.
Núi ngây rừng gió lạ.
Cây ngà say. Đêm
heo hút lặng khơi.
Mùa trở gió.
Rười rượi buồn cỏ lá.
Mùa
ngã độc. Nhà nín hơi lẩn lút
Đồi
sượng sần. Cây lìa cành, lá trút.
Đừng
ngoái nhìn. Phơ phất khói sương thu.
Đừng
ngoái nhìn. Trăng khỏa thân xanh mướt
Sau
Tháng tư 1975, trong nhà tù Cộng Sản, TTT vẫn làm thơ.
Khi định cư tại Mỹ, ông gom góp những bài thơ làm
trong tù in thành tập thơ cuối cùng, Thơ Ở Đâu Xa
rất giá trị.
Xin
trích trong tập thơ cuối cùng ấy bài chiều cuối
năm qua xóm nghèo viết vào năm 1978 mà bất cứ một
ai từng ở tù cải tạo của Cộng Sản đều tìm thấy
mình trong đó. Bài thơ hắt hiu, chữ nghĩa buồn tênh từ
đầu đến cuối như một bức tranh sử dụng toàn gam màu
lạnh mà dưới lớp băng giá đó âm ỉ vài tia lửa ấm,
vài giao thoa của đời sống tối tăm. Đây một chút nhớ,
đâu lũ trẻ co ro đứng trông tù qua thôn; kia một chút
thương, nhà ai lạnh lẽo khiến lòng ta ảm đạm. Vâng,
lũ trẻ không theo lời xúi giục của người lớn ném đá
vào đoàn tù đi qua như đã xẩy ra, mà đứng co ro nhìn;
đoàn tù thì nhớ lũ trẻ cũng là nhớ lũ con của mình
không biết hiện ở phương trời nào. Và nhà ai năm hết
Tết đến tuy ở bên ngoài nhà tù cũng thê lương tăm tối
không đèn lửa chẳng khác gì bên trong trại tù. Đây
không phải so sánh để tự an ủi, mà là thương cảm.
Bài thơ làm theo lối 7 chữ 8 câu, cách tân, chia thành hai
đoạn:
“Mưa bay lất
phất gió căm căm
Đường lầy trơn
nhà cửa tối tăm
Trốn đâu lũ trẻ
mặt lem luốc
Co ro đứng xem tù
qua thôn
Vác
bó cuốc nặng bước loạng choạng
Về trong xây xẩm
buổi tàn đông
Lạnh lẽo nhà ai
không đèn lửa
Ảm đạm lòng ta
chiều cuối năm”
KTQV,
những đóng góp của TTT cho văn học Việt Nam thật lớn
lao. Ông là nhà thơ tiên phong mở ra những chân trời
mới lạ cho thơ Việt Nam, mang lại nhiều khám phá độc
đáo, và đạt được những thành quả ít ai sánh kịp.
Cho đến nay, nói như Báo Mạng Tiền Vệ khi
ông vừa mới qua đời (22-3-2006), Thơ TTT “vẫn
còn là một nguồn cảm hứng lớn đối với nhiều nhà
thơ có khát vọng đổi mới”. Trong thời kỳ cực
thịnh của văn học Việt Nam, TTT vượt lên như một
trong những đỉnh cao nhất. Có thể nói rằng TTT là một
trong một số ít nhà thơ lớn nhất không phải chỉ riêng
đối với Miền Nam mà cho cả nước./
[1]
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi
dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp
chết mọi hy vọng
Nên
anh dìu em đi xa
Đi
đi chúng ta đến công viên
Nơi
anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi
môi em như mật đắng
Như
móng sắt thương đau
Đi
đi anh đưa em vào quán rượu
Có
một chút Paris
Để
anh được làm thi sĩ
Hay
nửa đêm Hà Nội
Anh
là thằng điên khùng
Ôm
em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Tiếng
kèn đồng cứ mãi than van
Điệu
nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao
tuổi trẻ quá buồn
như
con mắt giận dữ
Sao
tuổi trẻ quá buồn
như
bàn ghế không bày
Thôi
em hãy đứng dậy
người
bán hàng đã ngủ sau quầy
anh
đưa em đi trốn
những
dày vò ngày mai
-----------------------
HỘI
THẢO VỀ VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975
.
.
.
Trịnh
Thanh Thủy Tuesday,
December 09. 2014 11:30:49AM
.
Đặng
Phú Phong Cập nhật: 11/12/2014 10:52
.
Trangđài
Glassey-Trầnguyễn 9.12.2014
.
Đặng
Phú Phong Cập nhật: 08/12/2014 12:19
.
Du
Tử Lê
07/17/2012 06:07 PM
.
Nguyễn
Hưng Quốc 07.12.2014
.
Phạm
Quốc Bảo Wednesday, December 03, 2014 6:20:29PM
.
Nguyễn
Hưng Quốc 07.12.2014
.
Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhì)
Kalynh
Ngô/Người Việt
Monday,
December 08, 2014 6:51:41PM
.
Hội
Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam (ngày thứ nhất)
Kalynh
Ngô/Người Việt
Saturday,
December 6, 2014 8:19:21PM
VIDEO
: Hội Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam, 1954 – 1975 (ngày
thứ nhất)
.
.
Việt
Báo 03/12/201400:05:00
.
Nguyễn
Hưng Quốc 03.12.2014
.
Ðinh
Quang Anh Thái/Người Việt Tuesday, December 02, 2014 7:25:10PM
.
Người
Việt Books tái bản, 2014
Thứ Năm, ngày 27 tháng 11 năm 2014
.
Nguyễn
Hưng Quốc Thứ Bảy, ngày 29 tháng 11
năm 2014
.
Đinh
Quang Anh Thái/Người Việt (thực hiện) Wednesday, November
26, 2014 3:00:42 PM
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=198831&zoneid=1#.VHaKPcm8OKE
.
.
Tiểu
Muội (thực hiện) Thứ Sáu, ngày 21 tháng 11 năm
2014
.
Phỏng
vấn nhà văn Trịnh
Thanh Thủy về Văn Học Miền Nam 1954 – 1975
Kalynh
Ngô/Người Việt (thực hiện) 22.11.2014
.
No comments:
Post a Comment