Được đăng ngày Thứ bảy, 20 Tháng 12 2014 19:55
LTS: Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả “Chuyện kể
năm 2000” đã qua đời vào ngày 18/12/2014, hưởng thọ 81 tuổi. Vào những thập
niên 60 ông là nạn nhân của chiến dịch “Xét Lại Chống Đảng”. Ông bị bỏ tù năm
(5) năm không xét xử ở ngoài Bắc. Ông có ghi lại sự kiện này trong quyển sách
nói trên và mô tả cảnh đàn áp giới trí thức thời đó và phơi bày bộ mặt thật của
chính quyền độc đoán. Sách được nhà Xuất bản Thanh Niên cho in và phát hành,
nhưng sau đó đã bị thu hồi và cấm lưu hành. Xin giới thiệu đến độc giả bài của
ông Trần Bình Nam cách đây 14 năm nói về quyển sách nổi tiếng này.
*
"Chuyện Kể Năm 2000" của Bùi Ngọc Tấn gồm
2 tập, dày khoảng 1000 trang in cỡ chữ trung bình do Nhà xuất bản Thanh Niên ở
Hà nội in và xuất bản. Sách in xong nộp lưu chiếu khoảng tháng 2/2000 chưa bán
ra thị trường đã bị nhà nước ra lệnh tịch thu. Nội dung cuốn sách đã được chuyển
qua Liên bang Nga. Sinh viên Việt scan lại và chuyển cho độc giả Việt khắp thế
giới. Ít nhất có hai nhà xuất bản, nhà xuất bản Văn Nghệ và Tự Lực ở Nam
California Hoa Kỳ đã cho in thành sách. Nhà xuất bản Tự Lực cho biết một phần
tiền bán sách sẽ dành cho tác giả, và khuyến khích độc giả giúp đỡ tác giả và
những người đang gặp khó khăn với chính quyền trong nước vì đã tạo điều kiện
cho cuốn sách ra đời.
Từ năm 1986 khi tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cởi trói
văn nghệ, nhiều sách do các nhà văn trong nước viết được gởi ra hải ngoại như
các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương ... chưa có một cuốn
nào gây dư luận sôi nổi như cuốn “Chuyện Kể Năm 2000”.
Bùi Ngọc Tấn viết chuyện ký về nhà văn Nguyễn Văn Tuấn
(chính là tác giả) bị tù gần 5 năm, từ tháng 11/1968 cho đến tháng 4/1973. Tập
1 ghi lại chuyện tù từ các trại giam trại 76 ở Hải Phòng, 75 ở Hà Nội đến các
trại tù Q.N, VQ. Tập 2 ghi lại những khó khăn nhà văn Nguyễn Văn Tuấn gặp phải
sau khi ra tù. Những khó khăn kéo dài triền miên từ năm 1973 cho đến năm 1990.
Ông bắt đầu viết khi khối Liên Xô vừa sụp đổ. Ông nghĩ đã đến lúc có thể ghi lại
những lỗi lầm của thế kỷ và chiêm nghiệm của bản thân lại cho mai sau.
Ông viết: "Thập
niên thứ tư (ông ra tù năm 39 tuổi): Dưới đáy. Cố ngoi lên để khỏi bị nhận chìm
dưới đáy. Đấu tranh đòi hưởng công bình, đòi hưởng luật pháp. Thập niên thứ
năm: chiêm nghiệm. Xác nhận thực tại mình bị tiêu diệt. Hiểu. Thập niên thứ sáu
... trò chuyện với vô cùng."
Ông trò chuyện với vô cùng qua những trang giấy trắng.
Ông miệt mài viết trong 15 tháng liền, kết thúc bản trường thiên ký sự cuối năm
1991. Không ai biết tại sao tác giả ngâm bản thảo suốt 8 năm cho đến tháng 8
năm 1998 mới tìm cách cho cuốn sách ra đời một cách công khai. Có lẽ nhà văn
Bùi Ngọc Tấn chờ chế độ đã làm cho cuộc đời ông bầm dập cáo chung, hay không
còn chờ được nữa, hay nghĩ chế độ đã đủ cởi mở để nghe những lời ông nói.
Có thể chế độ đã đủ cởi mở hay có những khe hỡ tế nhị
để cuốn sách ông qua lọt các thủ tục kiểm duyệt, nhưng sau cùng những người nắm
quyền lực tối thượng vẫn còn lo sợ không cho cuốn sách ông được phổ biến. Nhưng
có gì ngăn cản được thông tin trong thời đại tin học. Càng cấm nó càng được phổ
biến, càng được tìm đọc. Nếu đảng cộng sản Việt Nam không ngăn được nhạc Phạm
Duy đi vào quần chúng như mực trên giấy thấm học trò, thì đảng cũng không ngăn
được những tư tưởng bình dị nhưng lấp lánh như ánh sao sa được chuyên chở bởi lời
văn nhẹ nhàng, súc tích đầm ấm của Bùi Ngọc Tấn đến với nhân dân.
Ký sự về tù đày, nhưng tù đày chỉ là cái khung. Tác
giả dùng cái khung đó để chi li đi vào phần thâm kín nhất của tâm hồn con người,
trình ra những viên ngọc óng ánh cho chúng ta những giây phút thở dài nhẹ nhõm
hay lo âu có khả năng làm cháy lòng ta. Cái tệ tàng, u uất, xấu xa nhất nếu được
vẽ ra nguyên hình của nó cũng là một viên ngọc quí của văn học. Ai quên được
triết lý nói dối và ăn cắp của Tuấn trong tù như một hình thức phản kháng: "Vào tù hắn đã học được hai điều: ăn cắp
và nói dối. Không ăn cắp vẫn sống được đấy. Nhưng khỗ. Và buồn nữa. Nếu không
có cái lo lắng hồi hộp của việc ăn cắp và bồng của ăn cắp được về trại thì buồn
lắm, buồn không chịu nổi. Sung sướng biết bao khi mình vẫn lấy cắp và mang về
trại được tất cả, vượt qua vòng kiểm soát nghiêm ngặt của các ông quản giáo. Ăn
cắp với hắn còn có nghĩa phản kháng, tuy sự phản kháng đó hơi nguy hiểm. Nó dẫn
tới kỷ luật, cùm xà lim, ăn cháo loãng."
Những điều phi lý của một chế độ độc tài toàn trị
văn chương thế giới đã nói nhiều. Nhưng cái phi lý nhà văn Bùi Ngọc Tấn ghi lại
làm chúng ta choáng váng, nhức nhối, khó chịu. Nhà văn Nguyễn Văn Tuấn bị bắt
vì đã viết cuốn sách "Những Tiếng Động Bị Nhốt" để ca ngợi những chiến
sĩ thợ hàn đêm ngày nằm trườn mình trong những thùng phuy bé tí để hàn thùng
xăng cho nhu cầu bộ đội Trường Sơn. Người thợ hàn nghe tiếng tí tách của ngọn hồ
quang đầu đũa hàn, mình với mình, chịu đựng cam go nóng bức, tiếng động bị nhốt
trong thùng không chia xẻ được với ai. Thế nhưng, ông Trần, ông Lan trong bộ
máy công an cho rằng Bùi Ngọc Tấn lách chữ nghĩa để xỏ xiên đảng bóp chết tiếng
nói của nhân dân.
Đầu năm 1972 sau 3 năm 8 tháng giam cầm Nguyễn Văn
Tuấn được đưa từ nhà tù QN về trại giam 75 ở Hà Nội để làm thủ tục phóng thích.
Ngày phóng thích, Ngọc vợ Tuấn được mời đến sở công an. Ông Lan, người công an
chấp pháp từng lấy cung Nguyễn Văn Tuấn muốn nhân dịp này cho Tuấn có cơ hội nhận
lỗi "với nhân dân" trước mặt những người đại diện đảng, nhất là trước
mặt vợ để chứng tỏ uy quyền của đảng và thỏa mãn tự ái của ông. Trong hơn 3 năm
giam cứu ông Lan không khui ra được một lỗi lầm gì của người tù Nguyễn Văn Tuấn.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn kể lại: "Hướng
về Tuấn như hướng về một thính giả vô hình, ông Lan nói, trước hết anh phải xác
định được những sai lầm của mình. Phải nhận thức được thiếu sót của bản thân.
Chúng tôi giam giữ anh không ngoài mục đích ấy".
Cảm thấy không có gì trắng trợn hơn, gian dối hơn, đạo
đức giả hơn, đểu hơn, Tuấn buột miệng đáp:
"Thưa ông, cho đến giờ này tôi chưa được biết tội lỗi của tôi. Chưa ai nói
cho tôi biết tôi có tội gì".
Người sĩ quan công an chấp pháp cười nhạt nói với vợ
Tuấn, "Đấy, anh ấy cứ như thế đấy".
Sau đó Tuấn được chở trở lại về nhà tù Q.N trên chiếc xe đít vuông có 4 buồng
giam của Rumani viện trợ, rồi chuyển lên trại VQ xa hơn, hắc ám hơn.
Đừng đọc Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn
như một cuốn sách tố cáo chế độ tù đày của chế độ cộng sản Việt Nam. Nhà văn
Bùi Ngọc Tấn không có mục đích tố cáo chế độ tù đày, ông cũng không dùng cuốn
sách để tố cáo chế độ cộng sản. Cộng sản như thế nào ai cũng biết rồi. Stalin,
Mao, Pol Pot, cuộc đấu tố tại miền Bắc Việt Nam của thập niên 50 ... . Và tù
đày : "Nhất nhật tại tu thiên thu tại ngoại" đâu cũng vậy. Những khó
khăn của người tù để lập lại cuộc đời ở quốc gia nào cũng có.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn dùng cái khung tù đày và những
năm phấn đấu sau khi ra khỏi nhà tù để ngoi lên mà sống cho ra một con người để
minh họa một bức tranh lớn của xã hội Việt nam dưới một chế độ không có tự do. Khi
quyền lực thu vào tay của một số người, vừa làm công an, quan tòa và cai tù thì
xã hội và con ngườiụ phải sa đọa đến tầng thấp nhất của địa ngục. Địa ngục
không chỉ ở trong nhà tù, địa ngục ở mọi nơi, trong cơ quan làm việc, trong
công xưởng, nơi hàng mậu dịch, trường học, trong tâm tư của người chưa bị tù
hay vừa ở tù ra, nơi chỗ kín đáo vợ chồng chăn gối với nhau. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn
viết: Khi con người "không còn một
nơi nào đi đến thì khủng khiếp thật. Đó là địa ngục của trần gian. Ông không đặt
câu hỏi cái gì cho phép cái địa ngục đó tồn tại. Nhưng ai cũng biết: vì tự do
là trái cấm. Chỉ có đảng độc quyền tự do, độc quyền tuyệt đối, độc quyền hiến định.
Nhưng Tuấn không mất tin tưởng vào con người, và đó là cái làm anh sống, không
chọn cái chết như người tù Ngụy Như Cần. Có lần Tuấn thổ lộ với Bình, một người
bạn chí thân: "Bình ơi! Lòng chúng ta có bao giờ không trong sáng. Có bao
giờ chúng ta không yêu mến con người. Có bao giờ chúng ta căm ghét cuộc đời
này..."
Những chiêm nghiệm của tác giả được vẽ lại bằng một
lối văn nhẹ nhàng đầy ắp hình ảnh, không hờn oán. Trong suốt 1000 trang giấy,
trang nào cũng là một bức tranh nhỏ mang tính sự thật phảng phất tâm hồn bao
dung của tác giả, ngay cả những cảnh hung bạo nhất. Con người còn tất cả những
nét đẹp trong tác phẩm của ông. Xấu chăng chỉ là cái hệ thống, cái chế độ chính
trị hư hỏng làm con người đi xuống, đi xuống mà không biết mình đi xuống như
ông Trần, ông Lan ông Quảng của sở công an, của một số bạn văn của tác giả trốn
tránh anh vì sợ liên hệ dù anh đã được tự do không có án, của những người lối
xóm vốn có thể là những người tốt bụng trong khu chung cư nơi ông ở trở thành
những người điểm chỉ báo cáo.
Bên cạnh đó, dù khó khăn, nghịch cảnh và đe dọa bởi
tù đày vẫn còn những người bạn tốt như Giang, như Dự, già Đô, Bình, như chị
Linh vợ một ông đại úy đang chiến đấu trong B. Nếu có những người không may như
Lượng, đi tù vợ ở nhà không giữ trọn tình chung thủy vẫn còn những người như Ngọc,
vợ Tuấn, biết sống, biết yêu. "Nàng
đau khổ hiểu rằng: Cả hắn (Tuấn), cả nàng không có cách gì thoát khỏi cái mà cuộc
đời đã dành cho hai người. Nàng thương chồng, nàng thương nàng. Nàng cam chịu."
Cũng như vợ, tác giả cam chịu trước bóng đen đè ngập
xuống cuộc đời anh, xuống cuộc đời của những người tù đã được trả tự do. Từ nhà
tù nhỏ trở về nhà tù lớn họ chỉ có thể trở thành kẻ cắp, móc túi, hay chết bờ
chết bụi không thân nhân giỏ giọt nước mắt cuối cùng.
Già Đô đăng lính Pháp đánh Đức trong thế chiến II, lập
gia đình với một phụ nữ Pháp, có một cô con gái lai xinh đẹp, vì hào quang của
Hồ Chí Minh, vì tình yêu đất nước bỏ vợ con ở lại về nước tiếp tay xây dựng quê
hương, phục vụ "cách mạng", thấy cảnh chướng tai gai mắt nói lời bất
mãn bị tù. Ra tù không nơi nương tựa, già Đô làm đơn xin trở lại nhà tù không
được chấp nhận. Lang thang ngủ bờ ngủ bụi, chịu đựng đói khát nắng mưa, phút
sau cùng biết không qua khỏi, già đã chọn một ngôi đình để ... chết. "Ngôi đình hoàn toàn hoang phế. Không một
dấu vết thờ phượng .... Thật là một chỗ nằm yên tĩnh lý tưởng để phiêu diêu. Chẳng
ai quấy rầy già. Phiêu diêu là một cảm giác sung sướng lạ thường. Chẳng nhớ một
điều gì, chỉ nhớ mình đang tan đi và đang bay ... "
Ngụy Như Cần, người tù lâu năm nhất của trại giam
Q.N được sự kính nễ của bạn tù vì tư cách và sự chịu đựng của anh đã treo cổ tự
tử sau khi trại tù hoàn tất thủ tục phóng thích. Anh nghĩ anh đã trả đủ nợ đời,
không muốn nhà tù lớn ngoài kia làm khổ anh và thân nhân anh. Anh chết đi còn
nuối tiếc chăng là thương con cá chép trong hồ anh nuôi và huấn luyện bao nhiêu
năm mỗi ngày chờ nghe tiếng anh gõ nổi lên để được anh cho ăn và ve vuốt.
Hai năm sau khi ra tù trong một chuyến đi buôn miền
mạn ngược, Tuấn ghé lại trại giam phụ QN thăm bạn tù Ngụy Như Cần. Cần đã chết.
Tuấn hỏi một ngườ tù : "Còn con cá
chép?" Anh tù kêu lên: "Con
cá chép đem về bếp cán bộ rồi.", và giải thích: "Anh Cần chết.Tôi ra thay (ở trại phụ). Mấy hôm liền nó cứ nổi
lên dọc bờ ao, rồi há mồm ngộp ngộp ở chỗ cầu rửa này. Trông như một thằng bé
con. Ông quản giáo thấy nó. Ông rút súng bắn. Máu đỏ ao..."
Giữa bóng đêm tăm tối, đôi khi tiếng chữi đổng văng
vẳng đâu đó trong khu cư xá giữa những người có quyền thế với nhau làm Tuấn thấy
nhẹ nhõm trong lòng. Bà Bường vợ một ông công an, ganh tị vì không có cơ hội
làm ra tiền bằng ông Tăng, đảng viên, cán bộ thủ công nghiệp khu phố đã chữi
ông Tăng: "nhân dân lao động còn khổ
vì chúng mày. Bao nhiêu chiến sĩ hy sinh ở Trường Sơn để chúng mày như thế à?
Ăn ngập mồm ngập miệng. Bòn rút của nhân dân. Dân chủ mà lại khốn nạn."
Sao mà thấm thía! Tuấn nghe mà thấy "vui lên một chút trong những năm
tháng cùng cực"
Nhà
văn Bùi Ngọc Tấn tuyên dương tự do. Qua Sáng một
thanh niên tuổi mới đôi mươi, năm lần vượt ngục. Những người cai tù coi cuộc vượt
ngục của anh lần thứ nhất và lần thứ hai như là một hành động lãng mạn nhớ nhau
của con nít ăn chưa no lo chưa tới. Lần vượt ngục thứ hai công an bắt anh lại
khi anh đang ngồi ăn cơm với bố mẹ. Lần thứ ba anh bị cùm xà lim một tháng, lần
thứ tư công an cho chó cắn bươm người anh trước khi nhốt anh 2 tháng xà lim. Đến
lần thứ năm họ mới nhận ra rằng đối với Sáng "tự do hay là chết"
không phải là một cụm từ cường điệu nói cho vui. Có lẽ lần này họ cho anh được
mãn nguyện và anh sẽ mĩm cười lấy cái chết đổi tự do. Tuấn gặp Sáng giữa bầy
chó hung hãn và công an khi Sáng bị bắt lại sau cuộc vượt ngục thứ năm.
Tự do đối với Bùi Ngọc Tấn còn là tốc độ, dù là tốc
độ 10 cây số một giờ của chiếc xe đạp cọc cạch của một người bạn tù vừa được tự
do chở anh trên khoảng đường mòn giữa rừng rậm đến cơ quan lãnh giấy tờ xuất trại.
Tuấn lẩm bẩm nói thầm với vợ, "Em, anh đang được tự do. Anh sẽ về với
em." Gần 5 năm Tuấn mới lại được ngồi trên xe đạp và bây giờ Tuấn mới biết
thực sự thế nào là tự do, là phút háo hức được nhìn con và âu yếm vợ. Hẳn là Tuấn
đang mĩm cười nhớ lại những phút ái ân với Ngọc.
Hơn một năm trước đây (*), tờ Văn Học, một tạp chí
văn học ở hải ngoại do nhà văn Nguyễn Mộng Giác chủ trương có đặt vấn đề, vì
sao sau Truyện Kiều của Nguyễn Du Việt Nam chưa có đại tác phẩm nào có giá trị
văn chương ở tầm vóc thế giới, và vấn đề đã tạo nên một cuộc tranh luận thú vị.
"Chuyện Kể Năm 2000" của Bùi Ngọc Tấn có
phải là tác phẩm văn chương chờ đợi chăng?
Trần
Bình Nam
April , 2000
April , 2000
Nguồn: tranbinhnam.com
No comments:
Post a Comment