George
Friedman - Stratfor Global Intelligence
Lê Minh Nguyên dịch
Posted
by admin on December 24th, 2014
Trong
tuần qua, Tổng thống HK Barack Obama và Chủ tịch Cuba Raul Castro đồng ý trao đổi
tù nhân đang bị giam giữ về tội gián điệp. Ngoài ra, Washington và Havana đồng
ý tổ chức các cuộc thảo luận với mục đích thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai
nước. Không có thoả thuận nào về việc chấm dứt lệnh cấm vận của HK đối với
Cuba, cái bước đòi hỏi sự chấp thuận của Quốc Hội.
Đây
là một thỏa thuận khiêm tốn, bởi vì trong thực tế không có bất cứ một thỏa thuận
nào được ký kết. Quan hệ HK-Cuba đã giá băng trong nhiều thập kỷ, với không bên
nào sẵn sàng nhượng bộ đáng kể hoặc thậm chí có những buớc đi đầu. Nguyên nhân
một phần là do chính trị nội bộ của mỗi nước mà nó làm cho việc lạnh nhạt được
khuyến khích. Về phía HK, liên minh của người Mỹ gốc Cuba, các nhóm bảo thủ và
các nhóm bảo vệ nhân quyền chỉ trích sự vi phạm nhân quyền của Cuba và ngăn chặn
nỗ lực. Về phía Cuba, sự thù nghịch với Hoa Kỳ đóng một vai trò then chốt trong
việc duy trì chính đáng tính cho chế độ cộng sản. Không chỉ chính quyền được
sinh ra để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ, mà Havana cũng còn sử dụng lệnh cấm vận
của HK để giải thích cho những thất bại kinh tế của Cuba. Không có áp lực bên
ngoài để thúc đẩy hai bên tuơng nhuợng nhau, và có nhiều lý do nội bộ đáng kể để
duy trì tình trạng ngưng đọng như vậy.
Người
Cuba bây giờ đang bị một số áp lực để chuyển dịch chính sách của họ. Họ đã tìm
cách để tồn tại sau sự sụp đổ của Liên Xô với những khó khăn. Bây giờ họ phải đối
diện với một vấn đề cấp bách ngay trước mắt: sự bất ổn của Venezuela. Caracas
cung cấp dầu cho Cuba với sự giảm giá rất lớn. Thật khó có thể nói nền kinh tế
của Cuba gần bờ vực như thế nào, nhưng rõ ràng là dầu của Venezuela đã tạo ra một
sự khác biệt đáng kể. Chính quyền của Tổng thống Venezuela, Nicolas Maduro,
đang phải đối mặt với tình trạng bất ổn đang tăng tốc cho những thất bại về
kinh tế. Nếu chính phủ Venezuela sụp đổ, Cuba sẽ mất đi một trong những trụ cột
nền móng để chống đỡ chế độ. Số phận của Venezuela vẫn còn chưa biết được như
thế nào, nhưng Cuba phải đối mặt với khả năng của một kịch bản xấu nhất có thể
xảy ra này, và phải tạo điều kiện cho việc mở cửa. Mở cửa sang Hoa Kỳ thì hợp
lý trong việc duy trì chế độ.
Lý
do cho sự thay đổi của HK thì ít rõ ràng hơn. Nó có ý nghĩa chính trị từ thế đứng
của Obama. Thứ nhất, về ý thức hệ, bỏ cấm vận hấp dẫn ông ta. Thứ hai, ông có
ít thành công trong chính sách đối ngoại được ghi nhận. Bình thường hóa quan hệ
với Cuba là cái gì đó ông có thể đạt được, bởi vì những nhóm như Phòng Thương mại
Mỹ ủng hộ việc bình thường và sẽ cung cấp vỏ bọc chính trị bảo vệ ông bên phía
Đảng Cộng hòa. Nhưng cuối cùng và có lẽ quan trọng nhất là các nền tảng địa
chính trị đã ám ảnh HK về Cuba hầu hết đã không còn nữa, nếu không phải vĩnh viễn
thì ít ra là trong tương lai gần. Bình thường hóa quan hệ với Cuba không còn là
mối đe dọa chiến lược. Để hiểu được phản ứng của HK với Cuba trong nửa thế kỷ
qua, quan trọng là sự hiểu biết về thách thức địa chính trị của Cuba cho Hoa Kỳ.
Giá trị chiến lược của Cuba
Ngược
dòng thời gian, sự thách thức bắt đầu từ khi hoàn tất việc mua Louisiana của Tổng
thống Thomas Jefferson năm 1803. Lãnh thổ Louisiana thuộc sở hữu của Tây Ban
Nha trong hầu hết lịch sử của nó cho đến khi nó được nhượng lại cho Pháp một
vài năm trước khi Napoleon bán lại cho Hoa Kỳ để lấy tiền tài trợ cho chiến
tranh với người Anh. Jefferson thấy Louisiana là thiết yếu cho an ninh quốc gia
của HK trong hai phuơng diện: Thứ nhất, dân Mỹ vào thời điểm đó chủ yếu sống ở
phía đông của rặng núi Appalachians trong một dải dài chạy từ New England tới
biên giới Georgia-Florida. Nó rất dễ bị xâm lược và không có chổ để rút lui,
như hiển nhiên đã thấy trong cuộc chiến tranh năm 1812. Thứ hai, Jefferson có
viễn kiến về sự thịnh vượng của HK nên được xây dựng xung quanh những nông dân
sở hữu đất đai của mình, sống như các doanh nhân chứ không phải là nông nô.
Vùng đất trù phú của Louisiana, nếu ở trong tay của những người di dân đến Hoa
Kỳ, sẽ tạo ra sự giàu có để xây dựng đất nước và cung cấp chiều sâu chiến lược
để đảm bảo an ninh của HK.
Điều
làm cho Louisiana có giá trị là cấu trúc sông của nó sẽ cho phép người nông dân
miền Trung Tây vận chuyển hàng hóa trong các sà lan đến sông Mississippi và
theo dòng đi xuống New Orleans. Tại đây, nông phẩm sẽ được chuyển qua cho các
tàu đi biển và vận chuyển đến châu Âu. Các nông phẩm này sẽ làm cho cuộc Cách mạng
công nghiệp ở Anh dễ thực hiện, vì việc nhập khẩu số lượng lớn thực phẩm giúp
giải phóng nông dân Anh hầu cung cấp nhân lực làm việc trong các ngành công
nghiệp ở đô thị.
Để
cho việc thực hiện điều này được thuận tiện, HK cần kiểm soát hệ thông sông
ngòi chằn chịt Ohio-Missouri-Mississippi (trong đó có rất nhiều con sông khác),
cửa sông Mississippi, Vịnh Mexico, và các lối ra Đại Tây Dương chạy giữa Cuba
và Florida, cũng như giữa Cuba và Mexico. Nếu chuỗi dây chuyền cung cấp này bị
phá vỡ ở bất cứ nơi nào, nó sẽ gây hậu quả đáng kể cho toàn cầu – và đặc biệt
là cho HK. New Orleans vẫn là cảng lớn nhất cho các khối luợng hàng to lớn ở
HK, vẫn vận chuyển lương thực tới châu Âu và nhập khẩu thép cho nền sản xuất của
HK.
Đối
với người Tây Ban Nha, Lãnh Thổ Louisiana là lá chắn chống HK xâm nhập vào
Mexico và các mỏ bạch kim giàu có của họ, nó cung cấp một phần đáng kể cho sự
giàu thịnh của Tây Ban Nha. Với Louisiana trong tay HK, những thành trì quan trọng
này bị đe dọa. Nhìn từ quan điểm của người Mỹ, mối quan tâm của Tây Ban Nha có
thể đưa đến khả năng Tây Ban Nha can thiệp vào thương mại của HK. Với Florida,
Cuba và Yucatan (Mễ) nằm trong tay Tây Ban Nha, người Tây Ban Nha có tiềm năng
để ngăn chặn dòng sản xuất chảy xuống Mississippi.
Cựu
Tổng thống Andrew Jackson đóng vai trò quan trọng trong chiến lược của
Jefferson. Là một tướng lãnh, ông tiến hành các cuộc chiến tranh chống lại người
da đỏ Seminole ở Florida và chiếm lấy lãnh thổ này từ sự cai trị của Tây Ban
Nha – và từ Seminoles. Ông bảo vệ New Orleans từ cuộc tấn công của Anh năm
1814. Khi ông trở thành tổng thống, ông thấy rằng Mexico, bây giờ đã độc lập từ
Tây Ban Nha, trở thành mối đe dọa chính cho toàn bộ sự nghiệp của vùng trung Mỹ.
Biên giới của Mexico ở Texas nằm trên sông Sabine, chỉ 193 km (120 dặm) từ
Mississippi. Jackson, thông qua cấp duới của ông là Sam Houston, khuyến khích sự
nổi dậy của Texas chống lại người Mexico để thiết lập sân khấu cho sự sáp nhập.
Nhưng
Cuba của Tây Ban Nha vẫn là cái gai đâm vô hông HK. Các eo biển Florida và
Yucatan đều hẹp. Mặc dù Tây Ban Nha, ngay cả khi ở trong trạng thái suy yếu, vẫn
có thể ngăn chặn tuyến đường thương mại của Mỹ, nhưng người Anh mới chính là điều
làm cho người Mỹ lo lắng nhất. Có căn cứ ở Bahamas, gần Cuba, người Anh, trong
tâm trí của họ có nhiều mâu thuẫn với Hoa Kỳ, có thể chiếm Cuba và áp đặt lệnh
phong tỏa gần như bất khả phá vỡ, làm tê liệt nền kinh tế HK. Anh phụ thuộc vào
nông phẩm ở Mỹ, cho nên không thể loại trừ khả năng họ sẽ tìm cách giành quyền
kiểm soát xuất khẩu từ Trung Tây để đảm bảo an ninh kinh tế của họ. Nỗi lo sợ
quyền lực của Anh đã góp phần định hình cuộc nội chiến và những thập niên sau
đó.
Cuba
là chìa khóa. Nếu nó trong tay của một thế lực thù địch nước ngoài, nó có giá
trị như nút đậy sông Mississippi, không khác gì chiếm được New Orleans. Sự suy
yếu của người Tây Ban Nha làm cho người Mỹ lo sợ. Bất kỳ quyền lực mạnh mẽ nào
của châu Âu – nguời Anh, hay sau năm 1871, người Đức – có thể dễ dàng đá văng
người Tây Ban Nha ra khỏi Cuba. Và Hoa Kỳ, thiếu một lực lượng hải quân hùng mạnh,
sẽ không thể đối phó. Chiếm Cuba đã trở thành vấn đề cấp bách trong chiến lược
của HK. Theodore Roosevelt, tổng thống trông coi sự trừng lên của HK như là một
cuờng quốc hải quân lớn – và là người đã giúp đảm bảo việc xây dựng kênh đào
Panama, vì nó tối quan trọng cho một lực lượng hải quân hai đại dương – đã trở
thành biểu tượng của việc HK chiếm Cuba trong cuộc chiến Tây ban nha-HK những
năm 1898-1900.
Với
việc chiếm Cuba, đường vận chuyển New Orleans-Atlantic được bảo đảm. Hoa Kỳ duy
trì quyền kiểm soát Cuba cho đến khi sự nổi lên của Fidel Castro. Nhưng Hoa Kỳ
vẫn luôn lo lắng về an ninh Cuba. Bởi vì nếu chính tự nó, hòn đảo này không thể
đe dọa các đường cung cấp hàng hải. Tuy nhiên, nếu trong tay của một thế lực
thù địch đáng kể, Cuba có thể trở thành căn cứ cho việc bóp nghẹt Hoa Kỳ. Trước
thế chiến thứ II, khi có dư luận ồn ào về ảnh hưởng của Đức ở Cuba, Hoa Kỳ đã
làm tất cả những gì có thể để đảm bảo sự vuơn lên của cựu lãnh đạo Cuba,
Fulgencio Batista, được coi như là một đồng minh hay con rối của HK, tùy thuộc
vào cách nhìn của mỗi nguời. Nhưng điều then chốt là: Bất cứ khi nào có một thế
lực lớn của nước ngoài quan tâm đến Cuba, thì Hoa Kỳ luôn phản ứng, điều này đã
có hiệu quả cho đến khi Castro nắm quyền vào năm 1959.
Ảnh hưởng của Liên Xô
Nếu
Liên Xô muốn tìm kiếm một điểm duy nhất mà từ đó họ có thể đe dọa lợi ích của
HK, họ sẽ thấy không có nơi nào hấp dẫn hơn Cuba. Vì vậy, cho nên dù Fidel
Castro có là cộng sản hay không trước khi nắm chính quyền, thì cuối cùng ông ta
cũng sẽ trở thành một đồng minh cộng sản của Liên Xô. Tôi nghi rằng ông ta đã
trở thành cộng sản những năm trước khi ông lên nắm quyền nhưng đã khôn ngoan
che giấu, vì biết rằng nếu công khai nói mình là nhà cai trị theo cộng sản ở
Cuba, thì sẽ làm sống lại những nỗi sợ hãi cũ của HK. Cũng có thể, ông không phải
là nguời cộng sản, nhưng quay sang Liên Xô vì sợ hãi sự can thiệp của HK. Hoa Kỳ,
do không thể đọc được là cuộc cách mạng đang xảy ra, đã máy móc đi theo hướng
gia tăng sự kiểm soát. Castro, dù như một người cộng sản, hay một nhà cải cách
ruộng đất, hay bất cứ ông ta là gì, đều cần một đồng minh để chống lại sự can
thiệp của HK. Cho dù sự sắp xếp đã được lên kế hoạch từ nhiều năm, như tôi nghi
ngờ, hay do một cú đẩy đột ngột, Liên Xô đã nhìn thấy nó như là một cuộc hôn
nhân được thực hiện ở thiên đàng.
Cho
dù Liên Xô không bao giờ đặt vũ khí hạt nhân ở Cuba, Hoa Kỳ vẫn sẽ phản đối một
đồng minh của Liên Xô nắm quyền kiểm soát ở Cuba trong Chiến Tranh Lạnh. Điều
này đã được in khằng trong địa chính trị của HK. Nhưng Liên Xô đã đặt tên lửa ở
đó, đây cũng là điều cần nên đề cập đến.
Lực
lượng không quân Liên Xô thiếu các máy bay chiến luợc ném bom tầm xa. Trong Thế
chiến thứ II, họ đã tập trung vào máy bay tầm ngắn, lực luợng không quân của họ
để yểm trợ các hoạt động trên mặt đất. Hoa Kỳ, vì đương đầu với cả Đức và Nhật
Bản từ trên không ở tầm xa, cho nên có rất nhiều kinh nghiệm với máy bay ném
bom tầm xa. Do đó, trong những năm 1950s, máy bay HK có căn cứ ở Châu Âu, và kế
đến, với B-52 ở lục địa Hoa Kỳ, đều có thể tấn công Liên Xô bằng vũ khí hạt
nhân. Liên Xô, thiếu một đội ngũ máy bay ném bom tầm xa, không thể trả đũa Hoa
Kỳ. Cán cân quyền lực hoàn toàn nghiêng về phía Hoa Kỳ.
Liên
Xô lập kế hoạch nhảy vọt vuợt qua sự khó khăn trong việc xây dựng đội máy bay
ném bom có người
lái, bằng cách di chuyển các tên lửa đạn đạo liên lục địa. Đầu những năm 1960s,
các thiết kế tên lửa đã tiến nhanh, nhưng triển khai sử dụng thì chưa. Liên Xô
không thể ngăn chặn hiệu quả một cuộc tấn công hạt nhân của HK, ngoại trừ hạm đội
tàu ngầm vẫn còn kém phát triển của họ. Bầu không khí giữa Hoa Kỳ và Liên Xô chứa
nhiều nọc độc, và Moscow không thể giả định rằng Washington sẽ không sử dụng cửa
sổ cơ hội đang bị thu hẹp để tấn công một cách an toàn chống Liên Xô.
Liên
Xô có tên lửa đạn đạo tầm trung hiệu quả. Mặc dù nó không thể bắn tới Hoa Kỳ từ
Liên Xô, nhưng nó có thể bắn tới hầu như tất cả các nơi nào của Hoa Kỳ từ Cuba.
Người Nga chỉ cần mua thêm chút thời gian cần thiết để triển khai lực lượng tên
lửa đạn đạo liên lục địa khổng lồ và lực luợng tàu ngầm. Cuba là một nơi hoàn hảo
để triển khai từ đó. Nếu thành công, Liên Xô có thể đóng lại cửa sổ cơ hội của
HK bằng cách đặt một lực lượng răn đe ở Cuba. Họ đã bị khám phá trước khi họ có
thể sẵn sàng. Hoa Kỳ đe dọa chiếm đóng, và Liên Xô nghĩ rằng người Mỹ cũng đang
đe dọa một cuộc tấn công hạt nhân áp đảo vào Liên Xô. Họ đã phải lùi bước. Như
đã được biết, Hoa Kỳ không dự định cho một cuộc tấn công như vậy, nhưng Liên Xô
không thể biết được điều đó.
Cuba
đã khằng lên tâm lý chiến lược của Mỹ qua hai lớp. Tự nó, nó không bao giờ là một
mối đe dọa. Dưới sự điều khiển của một lực lượng hải quân nước ngoài, nó có thể
bóp nghẹt Hoa Kỳ. Sau khi Liên Xô cố gắng triển khai tên lửa đạn đạo tầm trung,
nó tạo ra thêm một lớp mới, đó là Cuba trở thành mối đe dọa tiềm năng cho lục địa
HK, tương tự như các tuyến đường thương mại. Các thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Liên
Xô bao gồm việc đảm bảo là HK không xâm chiếm Cuba, và Liên Xô không lập căn cứ
vũ khí hạt nhân ở đó. Nhưng Cuba vẫn là một vấn nạn đối với Hoa Kỳ. Nếu có một
cuộc chiến tranh ở châu Âu, Cuba sẽ là một căn cứ để đe doạ sự kiểm soát của HK
ở Caribbean, và cùng với nó, là khả năng của HK để vận chuyển tàu từ hạm đội
Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương. Áp lực của Hoa Kỳ không bao giờ thuyên giảm
cho Cuba, Liên Xô sử dụng nó như là một căn cứ cho nhiều thứ, trừ vũ khí hạt
nhân (ta cho là như vậy), và chế độ Castro bám vào Liên Xô để có được an ninh,
trong khi hỗ trợ các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, như thuờng được gọi, ở
châu Mỹ Latin và châu Phi, nhằm phục vụ lợi ích chiến lược của Liên Xô.
Cuba hậu Liên Xô
Với
sự sụp đổ của Liên Xô, Castro bị mất nơi nương tựa và bảo đảm chiến lược. Mặt
khác, Cuba không còn là mối đe dọa cho Hoa Kỳ. Có một sự thỏa hiệp ngầm. Vì
Cuba đã không còn là một mối đe dọa đối với Hoa Kỳ, nhưng trên lý thuyết vẫn là
có thể, cho nên Washington sẽ không chấm dứt sự thù địch đối với Havana nhưng sẽ
không tích cực cố gắng lật đổ. Về phần mình, chính quyền Cuba hứa sẽ không làm
những gì, mà thực ra nó cũng không thể có khả năng làm: trở thành một mối đe dọa
chiến lược cho Hoa Kỳ. Cuba vẫn là mối phiền toái giống như Venezuela, nhưng mối
phiền toái không phải là đe dọa chiến lược. Do vậy, mối quan hệ vẫn lạnh.
Kể
từ khi mua Louisiana, Cuba là mối đe dọa tiềm năng cho Hoa Kỳ khi nó bị kiểm
soát hay nó liên kết với một cường quốc châu Âu. Vì vậy, Hoa Kỳ không ngừng cố
gắng định hình các chính sách của Cuba, và do đó, lên chính trị nội bộ của
Cuba. Mục tiêu của Fidel Castro là chấm dứt sự ảnh hưởng của HK, nhưng ông chỉ
có thể đạt được điều đó bằng cách nối kết với một cường quốc: Liên Xô. Cuba độc
lập từ Hoa Kỳ đòi hỏi nó phải lệ thuộc vào Liên Xô. Và rằng, giống như tất cả
các mối quan hệ, nó phải trả bằng một cái giá.
Việc
trao đổi tù nhân là thú vị. Việc mở đại sứ quán là quan trọng. Nhưng câu hỏi lớn
vẫn chưa được trả lời. Ở thời điểm này, không có quyền lực lớn khai thác vị trí
địa lý của Cuba (bao gồm cả Trung Quốc, cho hiện tại). Vì vậy, không có các vấn
đề quan trọng. Nhưng không ai biết được tương lai. Cuba muốn duy trì chế độ và
tìm cách giải tỏa áp lực từ Hoa Kỳ. Tại thời điểm này, Cuba thực sự không quan
trọng. Nhưng khi thời gian đi qua, không ai có thể đảm bảo rằng nó sẽ không trở
nên quan trọng. Cho nên, chính sách của HK nhấn mạnh vào sự thay đổi chế độ trước
khi giải tỏa áp lực. Với việc Cuba quyết định duy trì chế độ, thì Cuba có gì để
cho? Họ có thể hứa trung lập vĩnh viễn, nhưng cam kết như vậy không có giá trị
nhiều.
Cuba
cần quan hệ tốt hơn với Hoa Kỳ, đặc biệt là nếu chính quyền Venezuela sụp đổ. Với
nền kinh tế nghèo nàn của Venezuela thì có thể, về mặt lý thuyết, Cuba buộc phải
thay đổi chế độ do từ áp lực nội bộ. Hơn nữa, Raul Cátro đã già và Fidel Cátro
đã rất già. Nếu chính quyền Cuba cần phải duy trì, nó phải được bảo đảm ngay từ
bây giờ, bởi vì hiện giờ không được rõ là những gì sẽ nối tiếp khi hậu Castros.
Nhưng Hoa Kỳ có yếu tố thời gian, và mối quan tâm về Cuba là một phần trong DNA
của HK. Không có sự lo lắng trong hiện tại, thì duy trì áp lực là điều không có
ý nghĩa. Nhưng Washington cũng không có sự khẩn cấp để chấm dứt nó cho Havana.
Obama có thể muốn có một di sản, nhưng logic của tình hình là Cuba cần điều này
hơn HK, và cái giá của HK cho việc bình thường sẽ cao hơn khi nó xuất hiện ở thời
điểm này, cho dù được thiết lập bởi Obama hay người kế nhiệm ông.
Chúng
ta đang vẫn còn xa để giải quyết một tranh chấp chiến lược bắt nguồn từ vị trí
của Cuba, và sự kiện là vị trí của nó có thể đe dọa lợi ích của HK. Cho nên, động
thái cởi mở chỉ là động thái cởi mở. Con đường vẫn còn rất dài trong vấn đề
này.
********
Nguồn
bản tiếng Anh:
No comments:
Post a Comment