Tuesday, April 12, 2011

SUY NGẪM VỀ ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA NHẬT BẢN (Vĩnh Sính)

Vĩnh Sính
Cập nhật : 09/04/2011 21:10

Trậnđộng đất kinh hồn hôm 11 tháng 3, 9 độ Richter, tiếp đó là tsunami,i thường cao ít nhất là 3 mét và có khi lên cao đến 38mét, đã tấn công vùng Tôhoku (Đông-Bắc) và Kantô ở Nhật Bản. Kantô gồm thủ đô Tokyo và vùng xung quanh, tức là 6 tỉnh Ibaraki, Tochigi, Gunma, Saitama, Chiba, và Kanagawa. Thế là trong khoảnh khắc Nhật Bản đang phải gánh chịu 3 khổ đau trong cùng một lần : động đất, tsunami, và hiểm hoạ hạt nhân do các lò phát điện hạt nhân ở tỉnh Fukushima — cách Tokyo 250 kilomet về phía Đông Bắc. Hiện nay, vấn đề các lò phát điện hạt nhân chưa giải quyết xong, một số rau ở vùng Kantô và một hồ trữ nước ở Chiba do gió, mây, và mưa bị nhiễm xạ.
Thủ tướng Kan Naoto của Nhật đã tuyên bố : “ Nhật đang phải hứng chịu thảm họa lớn nhất sau Chiến tranh Thế giới thứ II ”. Sự thật đây là trận động đất lớn nhất kể từ ngày Nhật Bản có máy đo địa chấn vào thời Minh Trị.

*

Thế giới trong những ngày này cũng đang sửng sốt khâm phục, ngưỡng mộ thái độ khắc phục tai biến của người Nhật Bản. Nhằm vượt qua muôn vàn khó khăn do thảm hoạ địa chấn gây ra, người Nhật tỏ ra luôn luôn bình tĩnh, trọng kỷ luật trong mọi tình huống, biết tôn trọng người khác, tuyệt nhiên không có chuyện lược đoạt cướp bóc, luôn luôn giữ danh dự cá nhân và tập thể. Chính vì vậy, tờThe Wall Street Journal trong phần xã luận đã viết : “ Sa utrận động đất kinh hoàng 300 năm mới có một lần, người Nhật đã giữ được bình tĩnh giữa tình trạng loạn lạc, thực hiện nhiệm vụ cứu nạn khổng lồ và nhận được sự ngưỡng mộ của cả thế giới”.ii

Thị trường tài chánh quốc tế chắc hiểu tinh thần người Nhật trong khổ đau nên đã tăng giá đồng yen. Chúng ta còn nhớ trong trận động đất Hanshin-Awaji (vùng Kobe) vào năm 1995, đồng yen không ngờ tăng giá 20 %, hoặc sau Thế chiến thứ II người Nhật Bản đã làm nên kỳ tích là khắc phục bao gian khổ và khó khăn để trên căn bản phục hồi đất nước 10 năm sau đó từ đống tro tàn.

Vào hôm 12 tháng 3, Tân Hoa Xã, hãng thông tấn đại diện cho lập trường chính thức của Trung Quốc, cho biết : “ Một người Nhật đã liều bỏ mình để cứu 20 công nhân đang thực tập đến từ Đại Liên, Trung Quốc ”. Người Nhật đó là Satô Mitsuru, giám đốc công ty thủy sản SatôSuisan. Khi động đất xảy ra 11 tháng 3, đoàn công nhân thực tập 20 người đang ở thành phố Onagawa, thuộc tỉnh Aomori ở phía Đông Bắc đảo Honshu. Vì hoàn toàn không có kinh nghiệm về động đất, đoàn thực tập kéo nhau đã về cư xá của họ để lánh nạn. Ông SatôMitsuru mới dẫn họ lên một đền Thần đạo trên chỗ cao ráo hơn. Sắp đặt cho những người này có chỗ tị nạn an toàn xong, ông Satô trở lui về cư xá để lo chuyện khác. Vừa lúc ấy, tsunami đánh vào vùng đó ; ông Satôđ ã bị sóng cuốn đi mất. Một công nhân thực tập khóc tức tưởi, kể lại cho phóng viên Tân Hoa Xã : “ Từ trên đồi chính mắt tôi nhìn xuống thấy rõ sóng nước cuốn lôi ông đi ”. Anh kể tiếp với điều kiện giấu tên :“ Nếu không có sự giúp đỡ của người dân trong vùng, chắc chắn chúng tôi đã bị sóng nước cuốn đi hết rồi ”.
Câu chuyện cảm động này được đăng lên ở Tân Kinh Báo (Bắc Kinh) với đầu đề là “ Cảm động ”. Báo Asahi Shimbun  Nhật Bản đã bình luận : “ Tình thương quả thật là vô bờ bến !iii
Sau đây chúng ta thử tìm hiểu vì sao nước Nhật lại có thểlàm những chuyện kỳ vĩ như thế.

*

Trước khi làn sóng Tây xâm ồ ạt đánh vào bờ các nước ven Thái Bình Dương khoảng giữa thế kỷ XIX, Trung Hoa là trung tâm của Đông Á. Với tư cách là nước ở giữa, thể hiện cho tinh hoa của một nền văn hoá rực rỡ lâu đời. Trung Hoa xem các nước nằm trên ngoại vi của mình là “ man di mọi rợ ”. Vì văn minh Trung Hoa là khuôn thước và mẫu mực của các nước Đông Á, không mấy khi Trun gHoa bận tâm để ý đến những nét đặc thù của các nước láng giềng.
Bàn về mối giao lưu văn hoá một chiều, có đi không lại, của Trung Quốc và  Nhật Bả̉n trước thập niên 1960 — tức là trước khi Nhật Bản bước đầu trở thành một cường quốc kinh tế — nhà Trung Quốc học nổi tiếng Yoshikawa Kôjirô đã đưa ra nhận xét : “ Trung Quốc và Nhật Bản là hai nước có vị trí địa lý nằm gần nhau. ...Nhật Bản luôn luôn ý thức Trung Quốc là người hàng xóm và kính nể nền văn hoá của Trung Quốc... Ngược lại, năm thì mười hoạ Trung Quốc mới ý thức rằng Nhật Bản là nước láng giềng. Ngay sự tồn tại của nước Nhật cũng không được nhắc đến một cách liên tục trong tư liệu lịch sử của Trung Quốc, huống hồ là văn hoá Nhật Bản thì Trung Quốc chẳng mảy may quan tâm đến. Nói một cách khác, đối với người Nhật, trong quá  khứTrung Quốc luôn luôn là nước láng  giềng; còn Trung Quốc thì không nhất thiết nhìn Nhật Bản như vậy ”.iv Nói rộng ra, không chỉ riêng gì với văn hoá  Nhật Bản, mà đối với văn hoá của tất cả các nước xung quanh, thái độ của Trung Quốc nói chung là lúc nào cũng thờ ơ, hờ hững. Đối với Trung Quốc, văn hoá Trung Hoa —với trọng điểm là Nho giáo và chữ Hán — là tiêu chuẩn duy nhất để đo lường trình độ văn minh của các nước lân bang.

Điểm khác biệt quan trọng giữa Nhật Bản và Việt Nam trong quan hệ đối với Trung Hoa là vị trí địa lý : Nhật Bản nằm cách rời đại lục Trung Hoa bởi một eo biển khá rộng (khoảng 700 cây số) và có nhiều sóng lớn. Khoảng từ Kyushu đến bán đảo Triều Tiên, ở gần Nhật nhất, cũng gần 180 cây số, tức gấp ba lần eo biển Dover giữa Anh và Pháp. Thứ nữa, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Nhật Bản không trực tiếp và có tầm mức sâu rộng như ở Việt Nam hoặc bán đảo Triều Tiên — liền sông liền núi với Trung Quốc.

Cũng nhờ sự cách ly địa lý nói trên mà vừa ‘đủ gần’ để Nhật có thể tiếp thu văn hoá Trung Hoa trước  thời cận đại, nhưng cũng vừa ‘đủ xa’ để khỏi bị xâm lấn. Bởi vậy, mối quan hệ từ những tiếp xúc ban đầu cho đến thế kỷ XIX chỉ giới hạn trên lãnh vực văn hóa. Khi nhìn lịch sử tiếp thu văn hóa Trung Hoa của  Nhật Bản, ta có cảm tưởng gần như Nhật Bản có thể điều chỉnh mức độ tiếp thu văn hóa Trung Hoa tùy theo nhu cầu và hoàn cảnh của mình.
Nó ichung thì văn hoá của dân tộc nào cũng có những nét độc đáo ; nhưng trong trường hợp Nhật Bản, nét đặc trưng văn hoá rõ rệt và đồng nhất có thể kiểm chứng qua lịch sử hay quan sát qua những sinh hoạt hiện tại.

Những nét đặc trưng đó là:

* Nhấn mạnh sự hoà hợp (harmony) : Trong ‘Hiến pháp mười bảy điều’ (Jûshichijô no kenpô; chữ ‘hiến pháp’ phải hiểu theo nghĩa xưa, tức là ‘điều lệ’) của Thái tử Shôtoku ( 574 sau CN-622), điều trước tiên là ‘hoà’. Thái tử viết : ‘Dĩ hoà vi quý’ (Lấy sự hoà thuận làm trọng). Chữ ‘hoà’ vì đối với người Nhật quá quan trọng, đã trở thành một tiếng mang cùng nghĩa với Nhật Bản. Ví dụ, khi người ta nói ‘Ei-WaJiten’ , tức ‘Anh-Hoà Từ điển’ thì có nghĩa là ‘Anh-Nhật Từ điển’, hay theo tiếng Việt là ‘Từ điển Anh Nhật’.
Trong một hãng hay một công ty, văn phòng quan trọng nhất không phải là tài chánh, kinh doanh hay kế toán, mà chính là Jinji-ka (Nhân sự - Khoa), tức là ‘Phòng Nhân sự’, hay Personnel Department —tức phòng lo việc bổ nhiệm, thuyên chuyển, giữ hồ sơ,lý lịch của nhân viên đồng thời lo việc liên lạc hay giao tế. Lý do là vì người Nhật xem ‘hoà’ là tối thiết yếu.

* Tínhhiếu kỳ và nhạy cảm đối với văn hoá nước ngoài :v Mặc dầu rất nhạy cảm đối với văn hoá nước ngoài, người Nhật Bản rất ý thứcvề tài sản văn hoá của họ — một nền văn hoá đã được trang trọng tích luỹ và bồi dưỡng qua các triều đại. Người Nhật không ngừng theo dõi những diễn tiến trên thế giới bên ngoài, cân nhắc và đánh giá ảnh hưởng của các trào lưu và xu hướng chính đối với Nhật Bản. Một điều đáng chú ý là khi họ biết trào lưu nào đang thắng thế thì họ có khuynh hướng chấp nhận, nghiên cứu, học hỏi, không để mất thời cơ. Ví dụ, vào hậu bán thế kỷ IX, nhận thấy Tây phương là trung tâm của khoa học tiên tiến, Nhật Bản vừa gởi sinh viên sang Âu Mỹ du học, vừa mời các chuyên gia nước ngoài đến Nhật để giúp họ canh tân. Tinh thần thực dụng, óc hiếu kỳ và nhạy cảm, và luôn luôn cầu tiến là những động lực thúc đẩy họ bắt kịp các nước tiên tiến.

* Suy nghĩ và làm việc tập thể (group-orientation) :vi Tập thể đóng vai trò quan trọng trong đời sống người Nhật. Tập thể có thể là công ty, trường học, hay hội đoàn, v.v. Một biểu tượng rõ ràng nhất của khuynh hướng này là cách xưng hô watashitachi hoặc wareware (chúng tôi), thay vì watashi (tôi) khi họ tiếp xúc với người lạ. Trước khi bắt đầu câu chuyện với người lạ, người Nhật thường trình danh thiếp để giới thiệu tên họ của mình và cơ quan mình trực thuộc. Khi giao thiệp với người Nhật việc trao đổi danh thiếp mang một ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ không trình danh thiếp có thể hiểu là buổi gặp gỡ không chính thức cho lắm. Vì tập thể mang một ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người Nhật nên một trong những việc cấm kỵ nhất là làm mất danh dự của tập thể.
Trong công việc người Nhật thường gác cái ‘tôi’ lại để đề cao cái chung, tìm sự hoà mình với những thành viên khác trong một tập thể. Trong các buổi họp hành, người Nhật thường ít cãi cọ hay dùng những ngôn từ có thể làm mất lòng người khác. Các tập thể (công ty, trường học, hội đoàn kinh tế hay chính trị, v.v.) có thể cạnh tranh với nhau gay gắt, nhưng tùy theo hoàn cảnh và trường hợp có thể liên kết với nhau để đạt mục đích chung. Thí dụ điển hình là hai công ty Nhật Bản có thể cạnh tranh với nhau trong nước Nhật, nhưng khi ra nước ngoài hai công ty đó có thể bắt tay nhau để cạnh tranh lại với một công ty thứ ba ngoại quốc.

* Suy nghĩ và làm việc có mục tiêu nhất định (goal-orientation) :Một đặc điểm trong lịch sử Trung Quốc (và Việt Nam) là khi triều đại này thay thế triều đại khác  thườngcó hai quá trình ‘phá’ và ‘lập’, tức là trước khi thiết lập hay xây dựng một chế độ mới, phải phá huỷ chế độ cũ trước đã. Ở Nhật thì khác. Ví dụ vào cuối thế kỷ XII, khi giai cấp vũ sĩ (bushihay samurai) nắm được quyền bính thì họ cũng không triệt bỏ chế độ thiên hoàng. Trong gần 700 năm giai cấp vũ sĩ nắm quyền kể từ 1185, tức là từ lúc giai cấp này bắt đầu xây dựng chính quyền bakufu (mạc-phủ, tức chính quyền quân sự mà người cầm đầu là shôgun, tức tướng quân) đầu tiên ở Kamakura, cho đến lúc Tokugawa bakufu bị lật đổ năm 1868, triều đình thiên hoàng vẫn không bị phế bỏ. Đồng thời, khi quyền bính được phục hồi cho chính phủ thiên hoàng, những người trong dòng họ tướng quân Tokugawa cũng không bị giết chóc, trừng phạt, hay đày ải; ngược lại được cấp bổng lộc và có thể đóng góp phần mình trong công cuộc xây dựng thời Minh Trị.

*n trọng thứ bậc (hierarchy): Ý thức tôn trọng thứ bậc chắc hẳn đã có từ xưa trong đời sống của người Nhật Bản. Bằng chứng là sử liệu Trung Quốc sớm nhất vào cuối thế kỷ thứ III sau CN, dựa trên sự quan sát của các sứ thần đã đến thăm viếng nước Nhật, cũng có nói rằng ở đất nước này khi cấp trên đi qua thì dân chúng quỳ xuống ở hai bên vệ đường.
Ngày nay, ý thức tôn trọng thứ bậc vẫn được biểu hiện trong đời sống hàng ngày. Ví dụ, trong phòng họp người có chức vụ thấp nhất sẽ ngồi gần cửa ra vào, người có chức vụ càng cao càng ngồi gần phía bên trong. Thản hoặc trong các buổi tiệc tùng, ăn uống đột xuất ở nhà hàng, v.v. không ai bảo ai, tất cả đều biết chỗ mình có thể ngồi mà không đi ngược lại trật tự thứ bậc. Trong cách ăn nói cũng vậy, đối với người có chức vụ cao thì dùng ngôn ngữ kính trọng (keigo), khi nói về mình hay những người trong gia đình mình thì dùng ngôn ngữ khiêm tốn (kensongo).

*
Ngày 26 tháng 3, trên tivi đài NHK của Nhật, có buổi tốt nghiệp tại một trường trung học ở tỉnh Miyagi, một vùng bị địa chấn và tsunami. Một em 15 tuổi đứng lên đọc diễn từ ; em nói : Chúng tôi không oán Trời (Watashitachi wa Ten ouramazu). Chúng tôi tự nguyện cùng chung sức với bè bạn để vượt qua những khó khăn. Đól à cách chúng  ta mang lại ý nghĩa cho những người đã bỏ mình trong trận địa chấn và tsunami này”.

Nghe đến đó tôi giật mình. Em học sinh 15 tuổi mà ăn nói đàng hoàng và chững chạc quá ! Đã biết giáo dục Nhật Bản rất tiến, nhưng tôi nào ngờ trong giờ phút khó khăn này em nói đến những ý tưởng đẹp tuyệt trần :“ Chúng tôi không oán Trời ” và“ đó là cách chúng ta mang lại ý nghĩa cho những người đã bỏ mình trong trận địa chấn và tsunami này ”.Tự dưng tôi cảm thấy ấm lòng, bất giác nước mắt trào ra lúc nào tôi chẳng hay.

Nghĩ lại từ đầu, ông Satô Mitsuru đã bị tsunami cuốn đi mất bởi mãi lo cứu đoàn công nhân thực tập Trung Quốc. Chắc hẳn tinh thần trách nhiệm và danh dự tập thể đã thúc giục ông. Thật là cao cả !

Viết xong ngày 30 tháng 3 năm 2011

VĨNHSÍNH
Giáo sư Danh dự (Professor Emeritus),
Phân khoa Lịch sử và Cổ
điển học
(Department of History and Classics),
Đại học
Alberta, Canada.


NGUỒN : bản đầy đủ do tác giả gửi


i Thay vì ‘sóng thần’ nên gọi là ‘tsunami’ mới hợp lý và đúng. Danh từ tsunami từ thập niên 1960 đã được quốc-tế-hoá (vì Nhật Bản có quá nhiều tsunami nên đã được quốc-tế-hoá) chứ không còn là một tiếng Nhật đơn thuần. Vậy mà ta vẫn dùng sóng thần, chuyện lạ đời không thể tưởng. Nghe phảng phất như kamikaze (Thần phong, tức ‘gió thần’) khiến chúng ta, một cách vô ý thức, đi thụt lùi trên đường hội nhập. Tsunami mặc dầu có chữ Hán, nhưng là từ do người Nhật tự đặt ra. Tự điển Kôjien (Quảng từ uyển) của Nhật Bản định nghĩa tsunami như sau: “Do địa chấn, đáy biển bị hổng, cát đất cũng bị lún xuống, thêm vào đó núi lửa dưới đáy biển phun, sinh ra những làn sóng cao trên mặt nước. Gần bờ biển sóng dâng cao lên, gây lắm thiệt hại trong vịnh” (Tokyo: Shinchôsha, 1993, trang 1724). TiếngAnh và tiếng Pháp dĩ nhiên đều gọi là tsunami.
ii Ngày 23 tháng 3 năm 2011.
iii Câu chuyện này được Mochizuki Minoru kể lại trên mạng NBR Japan Discussion Forum (Diễn đàn NBR Thảo luận về Nhật Bản), ngày 18 tháng 3 năm 2011.
iv Yoshikawa Kôjirô,“Chûgoku no rinjin toshite no Nihon” (Nhật Bản, người láng giềng của Trung Quốc), trong Zuihitsu shû (Tập tùy bút) (Tokyo: Chikuma Shobô, 1957), trang 62.
v Chúng tô icám ơn cố học giả Tsurumi Kazuko đã đối đãi hết lòng đối với chúng tôi từ khi gặp ở Toronto, Canada, năm 1973, cho đến lần cuối cùng ở Kyoto năm 1998. Tsurumi Kazuko đặc biệt nhấn mạnh tính hiếu kỳ của người Nhật trong những trước tác. Tuy nhiên lối giải thích trong bài này là của chúng tôi. Tsurumi Shunsuke, em ruột của Tsurumi Kazuko, là một triết gia lỗi lạc. Chúng tôi thành thật mang ơn hai học giả rất nhiều.
vi Trong các phần ‘Suy nghĩ và làm việc tập thể’, ‘Suy nghĩ và làm việc có mục tiêu nhất định’, và ‘Tôn trọng thứ bậc’, chúng tôi đã tham khảo những bài thuyết trình sắc bén và độc đáo của Katô Shûichi ở Đại học Alberta trong hai tuần lễ vào mùa Thu năm 1983. Chúng tôi đồng thời cũng tham khảo sách Nihon bunka no kakure kata (Những mô hình ẩn giấu của văn hóa Nhật Bản) do Takeda Kiyoko biên tập, với sự cộng tác của Katô Shûichi, Kinoshita Junji Maruyama Masao (Tokyo: Iwanami Shoten, 1984).
.
.
.

No comments: