Tô Văn Trường
08/04/2017
Trong
xu thế hội nhập và toàn cầu hóa thì việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ là
chuyện tất nhiên, nhất là đối với những quốc gia có điểm xuất phát thấp như Việt
Nam. Nhưng trong cái khí thế hừng hực của làn sóng đầu tư nước ngoài ấy không
ít lần, chúng ta đã bị dội những thùng nước lạnh, những phản đòn đau đớn với những
thiệt hại không chỉ tính bằng sức khoẻ hàng trăm ngàn người lao động, hàng chục
ngàn tỷ đồng tài sản mà còn là sự suy giảm niềm tin vào những chủ trương chính
sách thu hút vốn đầu tư.
Nguyên
nhân cơ bản của tình trạng này là sự yếu kém (cả liều lĩnh nữa) trong quản lý
điều hành của nhiều cơ quan từ trung ương đến địa phương và cá nhân có trách
nhiệm khi nhắm mắt ký kết nhập những công nghệ lạc hậu từ nước ngoài, mà điển
hình là từ ông bạn láng giềng phương Bắc. Đó là cái chết được báo trước cho đồng
bào mình, vậy tại sao những ông quan ấy không biết sợ? Có phải vì "quan
trí" kém không, hay còn vì những lý do khác rất cần được “mổ xẻ”!
Trung Quốc, phát triển kinh tế bằng mọi giá, không
chú trọng đúng mức đến việc kiểm soát ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi trường
không khí nên dẫn đến tình trạng báo động đỏ như hiện nay. Ở Việt nam ô nhiễm
nước đã được quan tâm nhiều hơn nhưng ô nhiễm không khí thì hầu như vẫn còn rất
mơ hồ.
Ở Trung Quốc và Ấn Độ đã có trên 100 địa điểm, xây dựng
nhà máy điện than với tổng công suất 68 GW đã bị đóng băng tại chỗ. Thực tế là
khắp thế giới, nhiều công trình nhà máy nhiệt điện đang bị đóng băng nhiều hơn
là các công trình bước vào xây dựng do lượng khí thải từ những nhà máy này gây
ô nhiễm môi trường đến mức báo động.
Theo thống kê, khởi công xây dựng các nhà máy điện
than bước vào giai đoạn xây dựng giảm 62%. Trong khi đó, nhất là ở Mỹ và Châu
Âu, các nhà máy điện than với tổng công suất 64 GW ngừng hoạt động do quá ‘đát’
trong hai năm qua.
Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một quyết định làm
giảm vai trò của than, bao gồm một loạt hạn chế than, trong đó năm 2016 dừng
phê duyệt các nhà máy điện than mới ở 13 tỉnh và khu vực. Đóng cửa các nhà máy
điện than đã hết hạn. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc chỉ có trần
công suất điện than là 1.100 GW. Ngày 20/3/2017, Trung Quốc tuyên bố dừng tất cả
các nhà máy điện than ở khu vực Bắc Kinh.
Ấn Độ vẫn còn đang thấm đòn với bước phát triển
nhanh điện than của mình. Công suất điện than tăng gấp ba lần trong giai đoạn
2007 và 2017, từ 71.121 MW lên 211.562 MW. Nhu cầu đã không dừng, vì thế những
yếu tố công suất thấp và tính kinh tế của các nhà máy bị cuốn hút xuống. Dự thảo
Kế hoạch Chiến lược Quốc gia của Chính phủ Ấn Độ trong tháng 12/2016 cho biết
không có công suất điện than tiếp theo nằm ngoài những công suất hiện đang xây
dựng cần thiết ít ra cho mãi tận năm 2027.
Trong hầu hết các nước OECD, Nhật Bản cũng có kế hoạch
điều chỉnh quá độ về than: Nước này chỉ xây dựng 1.950 MW điện than trong 5 năm
qua, nhưng 4.256 MW hiện đang xây dựng và 17.343 MW trong giai đoạn tiền xây dựng.
Đấy là một phần để đáp lại việc đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân sau thảm họa
Fukushima. Nhật Bản cam kết thực hiện Công ước về khí hậu Paris, vì thế sẽ có
những áp lực chống trợ cấp.
Cuộc chiến than giờ đây chuyển sang phần còn lại của
thế giới đang phát triển. Theo các chuyên gia quốc tế, Trung tâm của trọng lực
đối với than dường như là đang chuyển sang các nước như là Thổ Nhĩ Kỳ,
Indonesia, và Việt Nam.
Tác
hại của các nhà máy nhiệt điện than
Khi xây dựng nhà máy nhiệt điện, cái lợi có thêm nguồn
cung cho nhu cầu phát triển kinh tế nhưng tác hại của nó cũng khôn lường, đặc
biệt là các công nghệ lạc hậu của Trung Quốc. Ô nhiễm do nhiệt điện than là khí
thải + bụi (tro bay) và xỉ lò. Còn nước làm mát và một vài yếu tố nhỏ nữa thì
không đáng kể.
Phần khí thải, chất được quan tâm nhiều nhất là SO2
vì trong than lượng S khá lớn (tùy loại và vùng than). Về độc học, SO2 chủ yếu
tác động lên đường hô hấp. Ở nồng độ 2 mg/m3 có thể gây ra các
bệnh về phổi. Về ngưỡng cho phép thì Mỹ là 0,25 ppm (tiếp xúc 24 giờ), một số
tài liệu đưa ra số liệu là 0,1 đến 0,15 mg/m3. Bản thân SO2 không độc
bằng một số khí độc khác, song do sự phát thải quá lớn, cho nên nó được quản lý
rất chặt. Còn NOx và CO trong khí thải nhiệt điện than là sự quan tâm thứ hai.
Phần bụi (tro bay), ở đây thành phần chủ yếu là các
hạt chất rắn từ vài nanomet đến cả trăm micromet của hai loại chính là than
chưa cháy hết và các oxit kim loại thường gặp (nhôm, sắt, can xi và silic) nóng
chảy/bay hơi/ngưng tụ lại. Độc tính tác động chủ yếu theo kiểu tác động của bụi.
Phần xỉ (phần rơi xuống đáy lò) chỉ chiếm phần nhỏ tùy thuộc vào công nghệ, loại
than và lò đốt. Phần này, có thể có chứa một số kim loại nặng, thậm chí cả
phóng xạ (tùy nguồn than sử dụng).
Hình ảnh nhà máy máy nhiệt điện Vĩnh Tân (Ảnh trên mạng)
Về phần khí thải, nếu xử lý nghiêm túc theo các công
nghệ hiện hành và phổ biến thì có thể giảm thiểu tới mức cho phép. Phần bụi thì
hầu hết các nhà máy đều đã xử lý (thông thường là cyclon và lắng tĩnh điện). Phần
này xử lý nghiêm túc thì cũng đạt chuẩn cho phép.
Các sản phẩm sau xử lý hiện nay mới đáng quan tâm;
đó là tro, xỉ và thạch cao bẩn lẫn vôi. Hiện nay, không đủ chỗ chứa và chưa có
giải pháp xử lý hiệu quả. Cái chuyện ô nhiễm thứ cấp này đang là hiện hữu và tiềm
ần nhiều rủi ro.
Bộ Công thương đã ban hành một danh sách các dự án
có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao. Trong đó, có nhiều dự án nhiệt điện góp mặt
trong danh sách này: nhà máy nhiệt điện Thái Bình 1, Vĩnh Tân 2, Vĩnh Tân 4,
Vĩnh Tân 4 mở rộng, Duyên Hải 1, Duyên Hải 3, Duyên Hải 3 mở rộng và Công ty Cổ
phần Nhiệt điện Quảng Ninh.
Hiện
trạng
Thế giới, có xu hướng giảm nhiệt điện than là chính
xác. Kiểu gì thì nhiệt điện than cũng gây ô nhiễm môi trường và phát thải khí
nhà kính lớn nhất. Tuy nhiên, thay nó bằng gì, đấy là một vấn đề rất phức tạp
vì giá than vẫn là rẻ nhất so với các nguồn năng lượng còn lại.
Tình hình ở Việt Nam, nhiệt điện khí thì cần có mỏ
khí và ta đã khai thác hết mức rồi. Nhiệt điện dầu thì việc nhập dầu đắt cứa cổ
không theo được. Thủy điện cũng đã cạn nguồn rồi mà phát triển thủy điện cỡ nhỏ
thì “lợi bất cập hại”! Năng lượng tái tạo thì nhìn chung chỉ mang tính nghiên cứu
và bắt đầu ứng dụng một vài nơi, chứ không đáp ứng được nhu cầu mức cao như hiện
nay. Điện nguyên tử thì đã dừng rồi.
Hiện tại, cơ chế về điện năng lượng tái tạo nói
chung chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Điện mặt trời cho đến nay vẫn chưa
được Thủ tướng phê duyệt cơ chế giá điện, gây không ít khó khăn cho các nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Chi phí R&D cho phát triển năng lượng tái tạo chưa
có, nên mọi việc phát triển manh mún, thiếu định hướng.
Giải
pháp
Trước hết cần rà soát lại quy hoạch điện VII (QĐ số
428/QĐ-TTg ngày 18/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ) hiệu chỉnh lại cho phù hợp với
chủ trương dừng đầu tư các dự án điện hạt nhân. Khi lập đề án Quy hoạch điện
VII điều chỉnh chỉ do một nhóm người của IE-MOIT lập với chi phí tư vấn hạn chế,
nên có khả năng chỗ nào thiếu nguồn điện không cân đối được thì họ lại "nện"
cho dự án nhiệt điện than là xong công việc của họ.
Cấm nhập khẩu công nghệ lạc hậu, tiêu thụ điện nhiều
và gây ô nhiễm môi trường như xi măng, thép,... tuyên truyền người dân sử dụng
thiết bị tiết kiệm năng lượng.
Tạo rào cản, ngăn chặn công nghệ lạc hậu của Trung
Quốc ào ạt vào Việt Nam. Cần lắng nghe ý kiến của các chuyên gia có năng lực và
chính kiến. Ngay cả trong ngành y tế cũng có tình trạng người mua thuốc kém
thông tin và không thèm tham khảo ý kiến chuyên gia, trong những đợt mua thuốc
của Pháp ngay sau năm 1954, phần lớn là Dagenan (một loại Sulfamid đã cũ). Về
công nghệ thì nhiều người biết là ông Lý Ban (cố Thứ trưởng Bộ Ngoại thương)
năm 1960 mua về từ Trung Quốc một máy gọi là mới, nhưng thuộc mẫu mã của những
năm 30.
Về công nghệ nhiệt điện, Việt Nam cần chuyển sang
nhà thầu Nhật, Hàn Quốc. Những nhà máy của ta đầu tư sau này thì thiết bị chính
bao gồm lò hơi và tua bin thì bao giờ cũng mua của Nhật hoặc từ các hãng nổi tiếng
trên thế giới. Nhiều hãng có đặt nhà máy ở Trung Quốc nhưng chất lượng vẫn do
các hãng đó đảm bảo như Babcock Wilcox, Alstom, Mitshubishi, IHI, v.v.
Nếu thiết kế thi công tốt, giám sát chặt chẽ, đầu tư
đầy đủ thì vấn đề ô nhiễm môi trường có thể giải quyết cơ bản. Nếu không thực
hiện tốt thì cho dù công nghệ tốt, nó vẫn gây ra vấn đề. Gần đây, người ta cũng
nói nhiều về công nghệ than sạch thì thực ra nó cũng chỉ là công nghệ nâng cao
được hiệu suất sử dụng than mà thôi. Ví dụ như công nghệ siêu tới hạn hoặc trên
siêu tới hạn thì bản chất nó chỉ là nâng cao được thông số áp suất và nhiệt độ
hơi quá nhiệt của hệ thống lò hơi để hiệu suất chu trình có thể nâng được từ
khoảng 37% đến 41%.
Trên thế giới, cũng có loại hình công nghệ theo kiểu
khí hóa than bằng oxy nguyên chất rồi sau đó sản phẩm khí sinh ra dùng để chạy
tuabin khí rồi khí thải của tua bin khí lại dùng để sinh hơi và chạy tua bin
hơi để phát điện gọi là công nghệ IGCC (Integrated Gasification Combined
Cycle). Công nghệ này thì là công nghệ sạch nhưng mới và độ tin cậy chưa cao.
Ngoài ra, còn có công nghệ đốt thải xỉ lỏng nhưng cấu tạo phức tạp, đắt tiền
nên cũng chưa áp dụng nhiều lắm.
Khi khoa học công nghệ phát triển tốt hơn thì ta có
thể sử dụng loại năng lượng bẩn hơn mà vẫn phát thải sạch hơn. Đó mới là công
nghệ vì nguồn nhiên liệu thì đa dạng và tùy theo nguồn lực có sẵn của mỗi nước.
Báo chí hay nói nhiệt điện than là công nghệ lạc hậu, cần phân biệt than là nguồn
nhiên liệu chứ không phải công nghệ. Nếu ta tận dụng được nó cho nhu cầu của ta
mà đảm bảo không ô nhiễm môi trường thì ta có công nghệ nhiệt điện than hiện đại.
Vấn đề là ở chỗ thể chế và con người, khi thể chế và
con người tốt sẽ tạo ra cơ chế và giám sát thực hiện cơ chế tốt. Khi có cơ chế
tốt rồi thì doanh nghiệp và người dân sẽ thực hiện theo cơ chế đó một cách hiệu
quả.
Việt Nam nên có chính sách phát triển năng lượng tái
tạo. Hiện nay, Việt Nam chỉ nói là chính, nhưng không có hành động cụ thể. Nếu
Việt Nam không chú trọng phát triển công nghiệp nặng (nhất là cho nước ngoài),
mà chỉ nên định hướng vào ngành công nghiệp thông minh thì nhu cầu điện không lớn
như đã đề ra. Cần rà soát lại quy hoạch cơ cấu công nghiệp vẫn ham hố luyện
thép, nhôm, khai thác bauxite ... rất tốn điện, nước và gây thảm hoạ môi trường.
Đề
xuất Bộ Công thương xem xét:
- Tổ chức nghiên cứu phát triển về năng lượng tái tạo,
mỗi tỉnh/thành nên có đại diện theo cơ chế mở. Nghiên cứu đề xuất hành lang
pháp lý về kỹ thuật như xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn. Nghiên cứu đề xuất
lộ trình phát triển điện năng lượng tái tạo phù hợp với phát triển kinh tế - xã
hội của từng địa phương.
- Tham gia, viết báo cáo tổng kết quốc gia về năng
lượng tái tạo gửi IEA để chia sẻ thông tin để quảng bá tiềm năng về năng lượng
tái tạo tại Việt Nam nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài giống như các quốc
gia Thái Lan, Malaysia, Philippines... Từng bước, xây dựng đội ngũ chuyên gia
tư vấn đủ mạnh về số lượng lẫn chất lượng để có thể thực hiện tốt các dự án.
- Tạo cơ chế thông thoáng cho các nhà đầu tư, hạn chế
nhũng nhiễu của chính quyền địa phương đối với nhà đầu tư trong quá trình xin
thủ tục đầu tư.
- Lập Quy hoạch điện mặt trời toàn quốc hoặc theo từng
tỉnh/thành, qua đánh giá sơ bộ về tiềm năng điện mặt trời của Việt Nam lên đến
70GWp trên cơ sở giả thuyết sử dụng 15% diện tích đất chưa sử dụng và diện tích
đất chuyển mục đích sang rừng sản xuất của các tỉnh khu vực miền Trung, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, v.v.
- Điều chỉnh giá điện để các giải pháp tiết kiệm
năng lượng có tính khả thi cao hơn, khuyến khích được tinh thần tiết kiệm năng
lượng trong toàn dân và các cơ sở sản xuất thông qua ý thức, quản lý.
- Khuyến khích được các hệ thống đồng phát trong
công nghiệp như tận dụng nhiệt thừa của nhà máy xi măng cho phát điện,
- Đối với nhà máy nhiệt điện than thì phải phấn đấu
để có được các nhà máy có thông số siêu tới hạn qua đó hiệu suất chu trình có
thể tăng từ 37% của nhiệt điện truyền thống lên tới 41% của nhiệt điện thông số
siêu tới hạn. Tuy nhiên, nhiệt điện thông số siêu tới hạn chưa quen, chi phí đầu
tư lớn nên còn đang ngại ngần vì chưa cảm thấy an tâm.
Thay
cho lời kết
Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tiếp tục làm điện than,
vì là nước đang phát triển. Nhưng vấn đề là ta làm điện than trong khi thế giới
công nghiệp thoái lui, nên họ có nhu cầu chuyển công nghệ mà họ thải bỏ sang
ta. Vấn đề quan trọng nhất là chọn công nghệ tiên tiến nhất, chứ không phải là
công nghệ lạc hậu, nhất là công nghệ rác họ đang tìm mọi thủ đoạn để tống khứ
đi.
Hiện nay, sử dụng công nghệ rác của Trung Quốc đã chứng
tỏ thiệt hại đủ đường, và không hề rẻ nếu tính đủ chi phí, đang là gánh nặng và
sẽ là "của nợ" trong tương lai gần. Trung Quốc rất giỏi việc mua chuộc
khách hàng để bán hàng thải bằng các thủ đoạn hối lộ.
Ngay bây giờ, Chính phủ và các nhà khoa học phải đầu
tư tiền của và trí lực để sớm phát triển nguồn điện theo hướng sử dụng năng lượng
điện tái tạo có tiềm năng lớn.
Đừng để đất nước phải lụi tàn vì cái chết do công
nghệ lạc hậu nhập ngoại.
T.
V. T.
Tác giả gửi BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 10:14
No comments:
Post a Comment