Gần đây trên trang facebook của tôi sau loạt bài
phân tích về chế độ hiện tại, có nhiều comment vào hô hào cách thức lật đổ
chính quyền bằng bạo lực. Đại loại những ý kiến này tập trung vào ý tưởng chờ đợi
hoặc thúc đẩy khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam, trông đợi nền kinh tế rơi vào đáy
khủng hoảng và đói nghèo, trên cơ sở đó thúc đẩy sự bức xúc và tiến tới lật đỏ
chính quyền hoặc bằng áp lực hoặc bằng bạo lực. Tôi muốn nói rõ rằng, đó là sự ảo
tưởng và ngu đần. Đó là một dạng khác của cực đoan và nó cũng xấu xa không kém
sự độc tài cộng sản.
Hầu hết những người họ hào lật đổi chính quyền một
cách cực đoan có lẽ chưa bao giờ tự hỏi: Trong 50 năm qua, các cuộc cách mạng
đã diễn ra ở nhiều nước độc tài, vậy còn tại các nước tư bản có nền chính trị tự
do thì sao?
Thực tế mà ít người nhận ra, số cuộc cách mạng tại
các nước tư bản nhiều gấp đôi nếu không muốn nói là nhiều gấp ba các nước độc
tài. Có điều rất cả các cuộc cách mạng này đều diễn ra trong hoà bình và dựa
trên một nền tảng căn bản: “Sự tiến bộ về dân trí và nhận thức”. Lấy ví dụ từ
chính nước Mỹ, dù lập quốc với một bản người hiến phaps về căn bản là bất biến
cho đến tận ngày nay, và có một nền chính trị tự do ngay từ ngày đầu lập quốc,
nhưng phải mất gần 200 năm, phụ nữ Mỹ mới có quyền bầu cử (năm 1920). Thời điểm
kết thúc thế chiến thứ hai năm 1945, Mỹ vẫn là một quốc gia phân biệt chủng tộc
nặng nề dù Abraham Lincon đã tuyên bố xoá bỏ chế độ nô lệ trước đó 81 năm
(1861). Và phải đến khi Martin LutherKing phát động cuộc đấu tranh bất bạo động
trong nhiều năm trời, xã hội Mỹ mới bắt đầu biến chuyển. Sau khi LutherKing ám
sát năm 1968, nước nãy vẫn còn phải đi một chặng đường dài trong cuộc cách mạng
đòi quyền bình đẳng, thậm chí chính Michael Jackson, một tượng đài âm nhạc có ảnh
hưởng lớn đến văn hoá Mỹ và thế giới, cũng từng là một nạn nhân của tệ phân biệt
chủng tộc. Cho đến tận năm 2008 khi Obama thắng cử, nước Mỹ đã mất 63 năm để đạt
được những tiến bộ về căn bản trong cuộc cách mạng cho sự bình đẳng của nó.
Cũng trong cùng thời kỳ, có 3 cuộc cách mạng công nghệ nối tiếp nhau diễn ra
trong lòng nước Mỹ. Tất cả đều dựa trên nền tảng của tiến bộ nhận thức và hoà
bình. Nó mang lại những thành quả văn minh bền vững.
Nhìn vào lịch sử thế kỷ 20, có thể thấy tất cả các
cuộc cách mạng về chính trị dựa trên bạo lực đều để lại hậu quả vô cùng nặng nề,
phần lớn trường hợp đều không đạt được mục đích cho sự thịnh vượng, vốn là mục
đích tối hậu của mọi sự tiến bộ xã hội. Có lẽ ít ai còn nhớ rằng Iraq, Syria,
Lybia đều từng là những quốc gia thịnh vượng, với mức thu nhập bình quan đầu
người xếp trên mức bình quân thế giới. Vậy mà hiện nay, sau hàng thập kỷ tính từ
cái chết của Saddam Husein, iraq vẫn đang trong tình trạng chiến tranh và chỉ
còn là một đống gạch vụn so với quá khứ. Điều tương tự cũng đang diễn ra tại
Syria, Lebanon. Những cuộc cách mạng dựa trên bạo lực và hoang tàn, nó dễ dàng
thúc đẩy và bị chi phối bởi những xu hướng cực đoan. Kể cả trong tình huống may
mắn nhất nếu có một nền chính trị dân chủ được thành lập thì nền văn minh vốn
đã từng có cũng đã bị tàn phá và kéo lùi nhiều thập niên bởi chiến tranh. Đây
là một con đường sai lầm, vì đấu tranh cho tiến bộ xã hội trước hết và bao giờ
cũng phải dựa trên sự thịnh vượng và thúc đẩy thịnh vượng, bởi nếu không thì đó
là một cuộc đấu tranh vô nghĩa.
Có lẽ cũng rất nhiều người từng quên rằng Hàn Quốc
cũng từng bị cai trị bởi những chế độ độc tài liên tiếp nhau. Trước khi có nền
chính trị dân chủ như hiện nay, người Hàn Quốc cũng từng phải đấu tranh bất bạo
động trong nhiều thập niên. Dù rằng nền chính trị tự do ở Hàn Quốc đã được thúc
đẩy sau cái chết của tổng thống Park Chung Hê khi ông ta bị ám sát vào năm
1979, tuy nhiên về cơ bản đất nước ấy đã lật đổ được chế độ độc tài trong hoà
bình. Tất cả đều dựa trên nền tảng tiến bộ kinh tế và nhận thức.
Cũng là một sự chuyển hoá hoàn toàn hoà bình, người
Đài Loan sau nhiều thập niên nằm dưới quyền cái trị độc tài của gia tộc Tưởng
Giới Thạch, cuối cùng cũng đạt được một nền chính trị tự do. Cũng chẳng hề có
cuộc đấu tranh bạo lực nào diễn ra ở Đài Loan. Người dân đất nước ấy cần mẫn
xây dựng nền kinh tế và đấu tranh đòi tự do chính trị trong ôn hoà. Khi thấy
không thể kìm kẹp một cộng đồng đã có trình độ rất cao về tư duy, Tưởng Kinh Quốc
chịu nhượng bộ và chấm dứt nền cai trị độc tài.
Những cuộc cách mạng ấy có nhiều điểm không hoàn
toàn giống nhau, diễn ra trong những bối cảnh lịch sử và văn hoá khác nhau,
nhưng đều có điểm chung: Dựa trên nền tảng tiến bộ về nhận thức của con người.
Đây cũng chính là điều tôi muốn nhìn thấy ở Việt
Nam. Với một đất nước có nền văn hoá tiểu nông như ở Việt Nam, đồng thời có sự
chia rẽ hết sức nặng nề về văn hoá, mọi cuộc đấu tranh dựa trên nền tảng đoi
nghèo và bạo lực đều sẽ chỉ dẫn đến hai hậu quả cơ bản. Trước hết là tất cả những
thành quả người Việt Nam đã đạt được trong ba thập niên chuyển hướng sang kinh
tế thị trường đều có nguy cơ bị xoá bỏ. Thứ hai là trong tình huống bạo lực lan
tràn, đất nước rất dễ rơi vào vòng xoáy của những thế lực cực đoan, nhất là khi
các quốc gia đang có tranh chấp lãnh thổ với Việt Nam can thiệp phá hoại bằng
cách này hay cách khác. Đó sẽ là một tình huống không thấy ngày mai, nó chỉ
thay thế một ác mộng bằng một cơn ác mộng kế tiếp.
Mọi cuộc cách mạng hướng tới văn minh ở Việt Nam, nhất
định phải được xây dựng trên nền tảng của sự tiến bộ về tư duy và bằng phương
thức hoà bình. Để thúc đẩy sự tiến bộ về nhận thức, nền tảng bền vững của nó
chính là sự phát triển về kinh tế, văn hoá và đặc biệt là sự giao lưu hội nhập
với thế giới văn minh. Cùng với nó là sự kiên trì nhưng bền bỉ của những công
dân tiến bộ trong việc phổ biến những tư tưởng tiến bộ một cách hoà bình, thổi
luồng khao khát tự do vào xã hội. Cùng với đó là việc thúc đẩy các phong trào
xã hội dân sự, đòi hỏi về nhân quyền, đòi chống tham nhũng, chống bất công, đòi
tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và cuối cùng tiến tới đòi quyền bầu cử tự do,
quyền lập chính đảng và quyền tự do chính trị. Đó chắc chắn là con đường đấu
tranh đạt được thành quả bền vững nhất và cũng chỉ có nó mới là cách giúp đất
nước này hướng tới sự thịnh vượng và văn minh, tránh được vũng lầy chiến tranh
luôn gắn liền tàn phá và là mảnh đất hứa nuôi dưỡng sự cực đoan.
Trong nhiều năm, tôi có sự chiêm nghiệm rất rõ về tiến
trình thức tỉnh tư duy ở Việt Nam. Cùng với sự hội nhập với quốc tế và đặc biệt
là cùng với sự xuất hiện của ngày càng nhiều các nhà đấu tranh ôn hoà, số người
Việt Nam giác ngộ về nhận thức ngày một tăng theo thời gian. Chiều hướng mà người
Việt Nam từ bỏ việc công nhận tính chính danh của nền cai tri độc tài và hướng
về các khao khát tự do là một chiều hướng không có sự đảo ngược. Đó là những tiến
bộ xã hội bền vững. Tôi tin rằng khi số người Việt thức tỉnh đủ lớn và sẵn sàng
xuống đường tuần hành đòi quyền tự do bầu cử, đó sẽ là lúc bình minh lên ở đất
nước này.
Con đường đấu tranh cho Việt Nam, do đó luôn luôn phải
dựa trên nền tảng thúc đẩy sự thức tỉnh về tư duy, bảo tồn và thúc đẩy sự thịnh
vượng vì chẳng thể có trình độ nhận thức cao trên một nền tảng vô giáo dục và
đói nghèo. Đó cũng chính là tư tưởng cốt lõi nhất của nhà tư tưởng Phan Chu
Chinh, một trí tuệ vượt thời gian của người Việt. Đó cũng là con đường mà tôi
đã và sẽ luôn theo đuổi.
P/S: Dù luôn khuyến khích sự tự do trao đổi, nhưng trang nhà tôi nhất định và
luôn luôn từ chối mọi quan điểm khuyến khích bạo lực và cực đoan. Mọi ý tưởng
cơ hội và đê tiện về việc kéo lùi hoặc cô lập nền kinh tế Việt Nam cũng không
phải là thứ được hoan nghênh ở đây. Tất cả những ai có quan điểm này đều sẽ bị
block không thương tiếc. Tất nhiên facebook là một xã hội tự do, những người đó
cũng hoàn toàn có quyền bình đẳng giống như tôi để chia sẻ bất cứ gì họ muốn
trên trang nhà của họ.
--------------------------
BÀI
LÊN QUAN :
*
*
--------------------
XEM
THÊM :
No comments:
Post a Comment