Ảnh: Hai ông bạn của
tôi gặp nhau ở London năm 2010. Một người là Trần Hoài Dương, nhà văn viết
những trang sách xanh biếc cho tuổi thiếu niên. Một người là Nguyễn Gia Kiểng
của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.
Trong lịch sử Việt Nam cận đại đã từng có bản luận
cương chính trị đưa Việt Nam vào vòng xoáy bạo lực tàn bạo, vào bóng tối cộng sản
triền miên suốt gần một thế kỉ và khởi đầu là cuộc bạo loạn Xô Viết Nghệ Tĩnh
tàn khốc tháng chín năm 1930. Đó là bản luận cương chính trị “Cách mạng Tư sản
Dân quyền” của Tổng bí thư đảng Cộng sản Đông Dương Trần Phú.
Với luận cương Cách mạng Tư sản Dân quyền được triển
khai thực hiện bằng cuộc bạo loạn dựng lên chính quyền Xô Viết ở vài huyện thuộc
hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh mà việc làm đầu tiên của chính quyền Xô Viết là quyết
liệt phát động cuộc trả thù giai cấp đẫm máu: Trí – Phú – Địa – Hào đào tận
gốc, trốc tận rễ. Những cương lĩnh, những nghị quyết mang hồn luận cương
cách mạng tư sản dân quyền nối tiếp đến tận ngày nay, kiên trì chủ nghĩa Mác Lê
nin, kiên trì sử dụng bạo lực chuyên chính vô sản để khống chế, cai trị dân tộc,
dân tộc Việt Nam hiền hòa đã bị đẩy vào những cuộc đấu tố, chém giết, hành
hình, thủ tiêu, truy bức triền miên.
Từ những cuộc đấu tố, truy bức, giết hại tầng lớp
trên trong xã hội, giết hại những người giàu có của cải, giàu có trí tuệ trong
Xô Viết Nghệ Tĩnh, trong Cải cách ruộng đất, trong Nhân Văn Giai phẩm và trong
Xét lại chống đảng đến những điều luật vi hiến 79; 88; 258 trong bộ luật tố tụng
hình sự, kết tội, bỏ tù những tiếng nói trung thực, đất nước Việt Nam đã bị nhấn
chìm trong bóng tối bạo lực chuyên chính vô sản suốt gần một thế kỉ. Người dân
bị tước đoạt những quyền con người, quyền công dân cơ bản. Cuộc sống điêu linh
trong chồng chất oan khiên. Đất nước trì trệ, lạc nhịp với thời đại văn minh và
tụt lại sau ngày càng xa trong tiến trình đi tới của loài người.
Nhưng với qui luật vận động không ngừng, trong xã hội
cũng như trong tự nhiên không có gì là vĩnh viễn, bất biến. Có đêm thì phải có
ngày. Có luận cương chính trị đưa dân tộc Việt Nam vào đêm tối bạo lực thì sẽ
có luận cương khai sáng đưa dân tộc Việt Nam từ đêm dài cộng sản ra ánh sáng
văn minh. Luân cương đó chính là đề án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai
của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.
Luận Cương Khai Sáng, rút gọn từ Khai Sáng
Kỷ Nguyên Thứ Hai, là một đề án chính trị sắc sảo, thấu đáo. Đó thực sự
là cương lĩnh của một đảng chính trị cứu nước, là đề cương tranh cử người đứng
đầu nhà nước của đất nước Việt Nam dân chủ.
Với số dân đứng hàng 14 thế giới, với một dân tộc
thông minh, cần mẫn hàng đầu thế giới, với địa lí tư nhiên và địa chính trị của
một nước lớn, giàu mạnh nhưng Việt Nam hiện nay vẫn là nước nghèo hèn, lạc hậu
nhất thế giới và lịch sử Việt Nam đến nay chỉ là lịch sử nô lệ. Độc lập chỉ là
thay nô lệ bên ngoài bằng nô lệ bên trong. Và nô lệ bên trong tàn bạo nhất, khắc
nghiệt nhất, tệ hại nhất nhưng cũng tinh vi nhất chính là nô lệ ý thức hệ cộng
sản. Đó là thực trạng của xã hội Việt Nam. Luận cương Khai Sáng là cương lĩnh dẫn
dắt người dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành lại quyền làm chủ đất nước,
đưa dân tộc Việt Nam từ bóng đêm nô lệ ra ánh sáng tự do.
Luận cương Khai Sáng chỉ ra hai trở ngại lớn nhất đi
tới dân chủ, giành lại quyền làm chủ đất nước cho người dân là:
Một. Để duy trì độc tài, nhà nước cộng sản dám làm tất cả, dám thực hiện
cả những tội ác lớn nhất: Tàn phá đất nước. Vất bỏ lợi ích dân tộc. Nô lệ nước
ngoài. O bế, dung túng cho đám quan chức tham nhũng để buộc chặt họ với nhà nước
độc tài tham nhũng, đồng nhất họ với thể chế độc tài tham nhũng. Đàn áp dã man,
tàn bạo những tiếng nói đòi tự do, dân chủ, những hoạt động chống nô lệ, Bắc
thuộc.
Hai. Người dân đau đớn nhìn tấm gương những người đấu tranh cho dân chủ
bị nhà nước cộng sản độc tài đàn áp tàn bạo, cả gia đình họ bị trả thù hèn hạ,
bị tước nguồn sống, tước quyền mưu sinh, dù yêu nước, thương nòi, số đông người
dân cũng đành buông xuôi, thờ ơ với vận nước, buông xuôi với vận mệnh của chính
họ, vận mệnh của cả gia đình họ.
Chỉ ra hai trở ngại lớn đó, trở ngại từ nhà nước độc
tài và trở ngại từ chính người dân an phận, buông xuôi, luận cương Khai Sáng
còn chỉ ra những làn sóng dân chủ dồn dập xô tới, từ làn sóng dân chủ đầu tiên
là cách mạng Hoa Kỳ năm 1776 và cách mạng Pháp năm 1789 đến làn sóng dân chủ thứ
tư diễn ra đầu thế kỉ 21 ở các nước độc tài, kinh tế đang khốn cùng phải mở cửa
làm ăn đón kĩ thuật và đồng vốn tư bản từ các nước phát triển cũng là các nước
dân chủ. Dân chủ phát huy tài năng, trí sáng tạo vô tận của người dân. Kinh tế
phát triển luôn đi cùng với dân chủ phát triển. Dân chủ là một trong những yếu
tố không thể thiếu để phát triển kinh tế lành manh và bền vững. Đón kinh tế tư
bản vào đất nước cũng là đón ngọn sóng dân chủ đến với đất nước. Những làn sóng
dân chủ đó đã giải phóng từng mảng nhân loại khỏi bóng tối độc tài. Đến làn
sóng dân chủ thứ tư chỉ còn vài nước độc tài lẻ loi thì không thể cưỡng lại được
Kỉ nguyên dân chủ sáng lạn đang mở ra trước cả loài người.
Vị thế địa chính trị của Việt Nam và thời điểm bản lề
đang xoay chuyển của một thế giới mới cũng thúc đẩy Việt Nam phải đón nhận ngọn
sóng dân chủ đang ào ạt xô tới.
Là láng giềng, sông chung dòng, núi liền dải với đất
nước Tàu Cộng mà nhà nước Tàu Cộng từ ngàn đời xưa đến tận hôm nay chưa bao giờ
nguôi tham vọng xâm lược bành trướng “bình thiên hạ”. Nhất là ngày nay nhà nước
Tàu Cộng dưới chính thể cộng sản tham tàn sau mấy chục năm thí bỏ cả những chuẩn
mực đạo đức cơ bản, tối thiểu của con người, của xã hội, thí bỏ cả môi trường sống
của đất nước, cố sống cố chết làm giàu đã trở thành nước có sức mạnh kinh tế và
sức mạnh quân sự ở tốp đầu thế giới thì cuồng vọng “bình thiên hạ”, thống trị
thế giới lại càng điên cuồng.
Định mệnh đặt Việt Nam liền kề lò lửa chiến tranh
Tàu Cộng, liền kề vực thẳm lòng tham Tàu Cộng, lòng tham lãnh thổ, lòng tham
quyền lực thống trị thiên hạ, cai trị cả loài người. Ngày nay lòng tham đó đang
tập trung hướng xuống Đông Nam Á. Việt Nam không những chốt nhặn ngay cánh cửa
mở xuống Đông Nam Á mà Việt Nam còn nêu tấm gương ngàn năm bất khuất trước bạo
lực xâm lăng của Tàu Cộng. Vì thế, muốn khuất phục thế giới, khởi đầu bằng khuất
phục Đông Nam Á, trước hết Tàu Cộng phải khuất phục Việt Nam. Và Tàu Cộng đang
thực hiện khá thành công từng bước khuất phục Việt Nam, nô dịch Việt Nam bằng ý
thức hệ cộng sản và bằng tiền bạc mua chuộc, sai khiến những người nắm quyền lực
trong nhà nước cộng sản Việt Nam.
Ý thức hệ cộng sản là hệ thống học thuyết dùng bạo lực
chuyên chính vô sản nô dịch người dân, một thứ nô lệ nội tại. Đảng cộng sản Việt
Nam mang ý thức hệ nô lệ, chư hầu nước ngoài đó, mang học thuyết bạo lực đấu
tranh giai cấp tội ác từ xứ người về nô dịch chính người dân Việt Nam, thứ nô lệ
độc ác, mất tính người nhất trong các chế độ nô lệ đã có trong lịch sử loài người.
Mọi việc đã có đảng và nhà nước lo, người dân bị tước quyền làm chủ đất nước,
làm chủ chính số phận con người của mình. Người dân.chỉ còn là công cụ trong
tay nhúm người có quyền lực trong đảng cộng sản. Khi nhúm người đó đã bị ý thức
hệ cộng sản cột chặt vào Tàu Cộng và bị quyền lực đồng tiền của Tàu Cộng sai
khiến thì người dân từ nô lệ cộng sản trong nước trở thành nộ lệ cộng sản nước
ngoài, từ nô lệ Việt Cộng trở thành nô lệ Tàu Cộng chỉ còn là vấn đề thời gian.
Số đông người
Việt còn chưa nhận ra thân phận nô lệ nội tại vô cùng tinh vi, nô lệ Việt Cộng,
nhiều người còn vui sướng, hãnh diện trong thận phận nô lệ đó. Nhưng khi từ nô lệ trong nước chuyển thành nô lệ nước ngoài, nhất là nô
lệ Tàu Cộng, thì người dân mang dòng máu Việt Nam không ai còn có thể u mê, mơ
hồ nữa. Chỉ còn những kẻ bán linh hồn cho Tàu Cộng để giữ quyền lực mới u mê đến
nỗi hốt hoảng lo lắng: “Tôi thấy lo lắng
lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già có xu thế
ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó
là nguy hiểm cho dân tộc”.
Chính sự thức tỉnh của người dân trước hiểm họa Bắc
thuộc sẽ là những ngọn sóng lừng, là bão táp của biển nhân dân đấu tranh đòi
dân chủ, giành quyền làm chủ đất nước.
Vì không thể phó mặc số phận đất nước, phó mặc sự sống
còn của dân tộc cho những người đã đặt lợi ích tội lỗi của đảng phái, phe nhóm
và đặt lợi ích bất lương của cá nhân họ lên trên lợi ích thiêng liêng của đất nước,
của dân tộc.
Vì chỉ có dân chủ mới huy động được sức mạnh vô tận
của nhân dân hôm nay và sức mạnh tinh thần của cả dân tộc trong quá khứ đã làm
nên lịch sử oai hùng Việt Nam, mới gắn kết dân tộc thành một khối bền vững chống
giặc cướp nước, bảo vệ những giá trị Việt Nam như lịch sử Việt Nam đã nhiều lần
chứng minh.
Một thời hệ thống tuyên truyền cộng sản thường khếch
đại sức mạnh thời đại ba dòng thác cách mạng. Nhưng thời sức mạnh bạo lực của
đám đông, của cuồng tín, sức mạnh tàn phá của những dòng thác cách mạng vô sản
thế giới nhấn chìm loài người vào biển máu và nước mắt đã vĩnh viễn qua rồi.
Văn minh đã thắng bạo tàn. Thành trì của bạo lực cách mạng thế giới đã sụp đổ.
Cả hệ thống thế giới tồn tại bằng bạo lực chuyên chính vô sản đã tan chảy như bọt
xà bông là một tất yếu lịch sử đã diễn ra bất ngờ và mau lẹ. Dân chủ và quyền
con người đã trở thành giá trị phổ quát không thể thiếu của xã hội loài người
hôm nay.
Cách mạng Hoa Kỳ 1776 và cách mạng Pháp 1789 đã đơm
hoa kết trái. Dân chủ phát huy sức sáng tạo vô tận của con người tạo ra nối tiếp
những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật kì diệu, đưa con người bước những bước
dài tới cuộc sống giàu sang. Hoa Kỳ và các nước công nghiệp phát triển đã trở
thành thành trì của dân chủ, có tiếng nói đầy sức nặng trong mọi vấn đề, mọi sự
kiện liên quan đến số phận hành tinh, số phận các cộng đồng dân tộc. Tiếng nói
đó đã liên tiếp cất lên hối thúc, đòi hỏi dân chủ, nhân quyền cho người dân Việt
Nam trong chế độ độc tài cộng sản. Nhất là ngày nay khi Hoa Kỳ đã xoay trục sức
mạnh Hoa Kỳ, xoay trục vai trò cáng đáng của Hoa Kỳ với các vấn đề quốc tế về
châu Á – Thái Bình Dương thì dân chủ và nhân quyền cũng là tiêu chí không thể
thiếu mà Hoa kỳ đòi hỏi ở châu Á – Thái Bình Dương. Đòi hỏi dân chủ, nhân quyền
chính là đòi hỏi của thời đại hôm nay, như đòi hỏi bạo lực của thời cách mạng
vô sản, của thời độc tài cộng sản.
Dù nhận định “Dân tộc ta đang sống một trong những
thử thách lớn nhất từ ngày dựng nước nhưng đồng thời triển vọng tháo bỏ ách độc
tài và mở ra kỷ nguyên dân chủ cũng lớn như chưa bao giờ thấy”, T47. Nhưng Luận
cương Khai Sáng còn nhắc nhở “Trong một bối cảnh quốc tế thuận lợi, thực trạng
của chúng ta rất bi đát và tương lai của Việt Nam rất bấp bênh”, T47.
Những bi đát và bấp bênh:
. Khi một nước chậm tiến bước vào kinh tế thị trường,
hội nhập với đời sống kinh tế thế giới thì sự thành công hay thất bại chủ yếu
là ở chỗ có tạo ra được hay không một lớp doanh nhân chân chính. Sự thực không
thể chối cãi là mở cửa về kinh tế nhưng vẫn khép kín về chính trị đã chỉ tạo ra
phần lớn những doanh nhân chụp giật, làm giàu nhờ ăn chia với quyền lực chính
trị và kinh doanh bất chính.
. Sự duy trì ngoan cố chế độ độc tài toàn trị nhân
danh một chủ nghĩa đã bị lên án như một tội ác, những vi phạm trắng trợn về
nhân quyền và dân quyền, tệ quan liêu và tham nhũng, sự từ chối những cải tổ cần
thiết, cách cư xử thô thiển trong những quan hệ quốc tế, sự lệ thuộc ngày càng
chặt chẽ và toàn diện vào Tàu Cộng khiến Việt Nam ngày càng yếu kém và chìm sâu
vào thế cô lập bi thảm trong thời đại toàn cầu hóa.
. Nền công nghiệp non trẻ cần được những tài năng và
tâm huyết chăm lo để bứt lên thì lại bị quản lý quá yếu kém, vô trách nhiệm, bị
cạnh tranh bất chính của hàng nhập lậu chủ yếu từ Tàu Cộng. Thiết bị sản xuất lỗi
thời, kể cả những thiết bị mới mua bởi các quan chức tham nhũng. Các doanh nghiệp
nhà nước được coi là chủ đạo của nền kinh tế và được sử dụng nguồn lực lớn của
đất nước lại cũng là những doanh nghiệp bệnh hoạn, thua lỗ triền miên do lãnh đạo
vừa bất tài vừa tham lam được giao chức theo phe nhóm hoặc chạy chọt, mua bán.
. Tài sản quốc gia bị các nhóm lợi ích xâu xé. Lợi tức
quốc gia quá thấp lại phải oằn vai gánh quá nặng chi phí bộ máy đảng cồng kềnh
và bộ máy công cụ khổng lồ bảo vệ đảng khiến giáo dục và y tế bị bỏ rơi dài
dài. Giáo dục và đào tạo hoàn toàn không có khả năng chuẩn bị cho tuổi trẻ
trong cuộc cạnh tranh với thế giới. Để được hưởng một nền giáo dục lành mạnh,
đúng đắn, tuổi trẻ phải tìm mọi cơ hội ra nước ngoài, tạo lên dòng người tị nạn
giáo dục đông đúc, hối hả như dòng người tị nạn nhân quyền, bỏ nước đi tìm tự
do kéo dài suốt trong lịch sử tồn tại của nhà nước cộng sản. Tình trạng của đại
đa số các bệnh viện Việt Nam là một sự hổ nhục và một tội ác.
. Tài nguyên quý nhất của đất nước là con người bị
xuống cấp một cách thê thảm. Con người ngày càng rời xa các giá trị đạo đức căn
bản. Gian manh, dối trá, lừa đảo, bạo lực trở thành chuyện thường ngày trong đời
sống xã hội.
. Tham nhũng ngang nhiên và tràn lan đang hoành hành
tàn phá đất nước, tàn phá đạo lí, tàn phá các mối quan hệ xã hội. Tham nhũng
giao những vị trí quan trong cho những kẻ bất tài, Tham nhũng vơ vét bòn rút kiệt
quệ tài nguyên, ngân sách đất nước, khoét sâu hố ngăn cách giàu nghèo. Đội ngũ
quan chức tham nhũng sống đế vương trên sự nghèo khổ, khốn cùng của số đông người
dân lương thiện. Dự án Bôxít Tây Nguyên và dự án điện hạt nhân đều phi kinh tế
và đe dọa sự sống còn của đất nước nhưng vẫn được áp đặt cũng vì tham nhũng
Thực trạng đen tối đó dẫn đến hai hiểm họa:
. Môi trường sống, môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội bị tàn phá, ô nhiễm nặng nề. Tài nguyên bị đào bới, bị rút ruột vô tội vạ.
Đất nước bị tàn phá tan hoang. Đời sống văn hóa, nền tảng đạo đức xã hội bị giết
chết trong dối trá và bạo lực.
. Không còn chủ quyền trên thực tế. Tuyên bố chung
Việt – Trung ngày 21-06-2013 cho thấy chính quyền cộng sản đã ký rất nhiều thỏa
hiệp ngầm đặt Việt Nam trong thế khống chế của Tàu Cộng. Chấp nhận thăm dò
chung dầu khí, thực tế là để Tàu Cộng thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam, cũng là để Tàu Cộng đưa người vào làm chủ vùng biển cửa ngõ mở
ra thế giới của Việt Nam, như đã cho Tàu Cộng đưa người vào làm chủ mảnh đất hiểm
yếu chiến lược Tây Nguyên, làm chủ vùng đất, vùng biển Vũng Áng, cắt đôi đất nước
Việt Nam chỗ eo đất hẹp Hà Tĩnh. Để Tàu Cộng huấn luyện và đào tạo sĩ quan quân
đội và công an Việt Nam. Đến công việc ngoại giao của nhà nước Việt Nam cũng phụ
thuộc vào Tàu Cộng khi Tuyên bố chung Việt – Trung cam kết tham khảo Tàu Cộng
nghĩa phải là nhận chỉ thị của Thiên Triều trong quan hệ đối ngoại.
Dân tộc Việt Nam đã tới giới hạn của sự chịu đựng. Đất
nước Việt Nam đã tới giới hạn của sự nhẫn nhục. Hiện trạng đen tối này còn tiếp
diễn, dải đất gấm vóc hình chữ S bên bờ tây Thái Bình Dương sẽ không còn mang
tên Việt Nam nữa, dân tộc Việt Nam văn hiến sẽ bị xóa sổ, bị đồng hóa vào văn
hóa Trung Nguyên phương Bắc. Luận cương Khai Sáng là kế sách giữ nước, giữ tên
Việt Nam trên bản đồ thế giới, đưa dân tộc Việt Nam từ đêm tối độc tài ra ánh
sáng tự do, từ kỉ nguyên nô lệ đến kỉ nguyên dân chủ.
Phải nhìn nhận đúng hiện thực đất nước mới có kế
sách đúng đắn nhưng những báo cáo chính trị của các kì đại hội đảng cộng sản Việt
Nam cầm quyền đều viết bằng cảm hứng ngợi ca sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của
đảng, với ngôn từ khoa trương, đại ngôn, đều vô cảm với thân phận nô lệ thống
khổ của người dân nên đều né tránh hiện thực, không dám nhìn vào hiện thực đau
đớn, tủi nhục của người dân, mất mát lớn lào của đất nước. Đề án chính trị Luận
cương Khai Sáng là sản phẩm của một tư duy khoa học mẫn cảm, trung thực, của một
trí thức thông tuệ đã tiếp cận được đầy đủ hiện thực đen tối đó. Nhưng cũng
chính vì sự thông tuệ của người sống ở thủ đô ánh sáng, ở một trung tâm phát
triển của châu Âu, nơi có mặt bằng dân trí khá cao mà đôi chỗ đề án chính trị
công phu này còn thiếu sự bình dị, dễ hiểu với nhận thức, trình độ dân trí
trong nước.
Luận cương Khai Sáng thực sự là một đề án hành động.
Hành động cần cụ thể. Nhưng luận cương mang tên Khai Sáng Kỉ Nguyên Thứ Hai chữ
nghĩa triết học quá, như một lí thuyết triết học nên ít thu hút được sự quan
tâm của đời sống chính trị đang sôi động trong nước. Bình dị, thiết thực hơn,
chẳng hạn như Đi Tới Kỉ Nguyên Dân Chủ, hoặc Việt Nam – Con Đường Dân Chủ Hóa
có lẽ gần gũi hơn, sẽ được sự đón nhận mặn mà hơn.
Có những nội dung quan trọng sẽ có nhiều ý kiến khác
nhau cần được có đề mục riêng để luận bàn thỏa đáng như tên gọi nhà nước Việt
Nam. Một thực tế phải nhìn nhận là còn rất nhiều người Việt Nam vẫn luyến tiếc,
vẫn muốn níu kéo về hiện tại tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của nhà nước cộng
sản Hồ Chí Minh và cũng còn rất nhiều người Việt Nam muốn có lại tên nước Việt
Nam Cộng Hòa thân thương của một thời lịch sử gắn bó với họ bằng máu, mồ hôi và
nước mắt của chính cuộc đời họ. Nhưng trong chương VI, Thể chế, Hiến pháp Cộng
hòa Việt Nam bàn về chế độ chính trị và Hiến pháp của nhà nước Việt Nam dân chủ,
tên nước Cộng hòa Việt Nam được áp đặt, không một lời lí giải. Tên nước Cộng
Hòa Việt Nam xứng đáng có một đề mục riêng để lí giải, thuyết phục như chế độ
chính trị và Hiến pháp Cộng Hòa Việt Nam.
Luận cương có mạch văn sáng sủa, mạch lạc nhưng vì
những ý tứ dồn dập, đôi chỗ luận cương chỉ quan tâm đến tuôn xả những ý tứ căng
đầy mà sa vào văn nói: “Tản quyền có những ưu điểm rõ rệt: nó khuyến khích sinh
hoạt chính trị tại các địa phương, nó đem dân chủ tới mọi nơi với mọi người, nó
tránh được những đường dây hành chính dài và phức tạp cho sinh hoạt thường ngày
với hậu quả là sự tập trung quá đáng dân số vào những thành phố lớn, nó kích
thích sinh hoạt văn hóa và báo chí địa phương, nó cho phép mỗi địa phương chọn
lựa công thức sinh hoạt phù hợp nhất với đặc tính của mình và nhờ đó mà phát
triển”. T. 177. Văn nói chỉ cốt diễn đạt hết ý mà không quan tâm đến câu. Chỉ
có văn viết mới giành mối bận tâm hàng đầu đến tổ chức câu làm sáng rõ ý. Nói
theo mạch. Viết theo câu. Là văn nói nên cả đoạn dài trên là một câu dồn dập
nhiều ý nhỏ. Với văn viết, mỗi ý nhỏ phải là một câu. Ngắt câu, xuống dòng,
thay từ “nó” bằng gạch đầu dòng sẽ chuyển từ văn nói rườm rà, lê thê, các ý nhỏ
dồn dập chồng lấp nhau thành văn viết gọn gàng, khúc chiết, dễ nắm bắt. Văn nói
của không gian. Văn viết của thời gian. Luận cương là tuyên ngôn của một lực lượng
chính trị. Lực lượng chính trị đó nói tiếng nói của Nhân Dân, của thời đại thì
Luận cương đó chính là Tuyên ngôn của Nhân Dân, của lịch sử, còn mãi với thời
gian.
Là cương lĩnh của một đảng chính trị hoặc một đội
ngũ trí thức chính trị thì luận cương Khai Sáng đúng đắn, cần thiết này sẽ mau
lẹ đi vào đời sống chính trị đất nước. Trong nhà nước độc tài cộng sản không thể
tồn tại một đảng chính trị thực sự theo đuổi lí tưởng dân chủ. Trong nhà nước độc
tài đó cũng không thể có một đội ngũ trí thức chính trị mà chỉ có lác đác vài
cá thể trí thức chính trị lẻ loi, lạc lõng, đơn độc. Vì thế sứ mệnh lịch sử đầu
tiên của luận cương Khai Sáng chính là thức tỉnh những trí thức yêu nước và tập
hợp họ lại thành đội ngũ trí thức chính trị và đội ngũ trí thức chính trị đó sẽ
đưa luận cương Khai Sáng vào đời sống chính trị đất nước, đưa đất nước Việt Nam
thân yêu từ bóng đêm nô lệ độc tài ra ánh sáng dân chủ, phát triển.
No comments:
Post a Comment