Sunday, August 30, 2015

Việt Nam tụt hậu bao xa so với láng giềng? (Tư Hoàng - Kinh tế Sài Gòn Online)





Tư Hoàng  -  Kinh tế Sài Gòn Online
Chủ Nhật,  30/8/2015, 10:10 (GMT+7)

(TBKTSG Online) - Một báo cáo tổng hợp của Tổng cục Thống kê đã phác thảo tình trạng lạc hậu, tụt hậu của Việt Nam so với hàng loạt các quốc gia trong khu vực.

Theo đó, từ năm 2008 Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nhưng khoảng cách về GDP bình quân đầu người so với các nước trong khu vực còn lớn và có nguy cơ bị nới rộng.

GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.052 đô la Mỹ, gấp 21 lần năm 1990, nhưng chỉ tương đương mức GDP bình quân của Malaysia năm 1988, Thái Lan năm 1993, Indonesia năm 2008, Philippines năm 2010, và Hàn Quốc năm 1982.

GDP bình quân đầu người năm 2014 của Việt Nam bằng 3/5 của Indonesia; 2/5 của Thái Lan; 1/5 của Malaysia; 1/14 của Hàn Quốc và bằng 1/27 mức GDP bình quân của Singapore.

Xét trên giác độ GDP bình quân đầu người, Việt Nam đi sau Hàn Quốc khoảng 30-35 năm; sau Malaysia 25 năm; Thái Lan 20 năm; sau Indonesia và Philippines 5-7 năm.

Trong khi đó, về cân đối tài khóa, tình trạng bội chi ngân sách và nợ công đang có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.

Tỷ lệ nợ Chính phủ so với GDP xếp thứ 9 trong khu vực ASEAN (năm 2001) đã tăng lên thứ 5 (năm 2013).

Thị trường tài chính của Việt Nam phát triển tương đối thấp và còn nhiều bất ổn so với một số nước trong khu vực. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu của Việt Nam năm 2012 là 32,9 tỉ đô la Mỹ (Malaysia là 476,3 tỉ đô la Mỹ, Singapore 414,1 tỉ đô la Mỹ, Indonesia 396,8 tỉ đô la Mỹ, Thái Lan 383 tỉ đô la Mỹ, Philippines 264,1 tỉ đô la Mỹ).

Việt Nam đã huy động được nguồn vốn lớn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng hiệu quả đầu tư còn thấp.

Hệ số ICOR của Việt Nam 2011-2013 (6,99), cao hơn của Indonesia (4,64), Lào (2,59), Malaysia (5,40), Philippines (4,10), Trung Quốc (6,40), nghĩa là đầu tư của Việt Nam kém hiệu quả nhất so với các nước này.

Về xếp hạng môi trường kinh doanh 2015 của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện ở vị trí thứ 78/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. So với các nước ASEAN, Việt Nam đứng sau Singapore (vị trí số 1), Malaysia (18) và Thái Lan (26); Việt Nam xếp trên Philippines (95), Bruney (101), Indonesia (114), Campuchia (135), Lào (148) và Myanmar (177).

Việt Nam có lực lực lượng lao động dồi dào nhưng tập trung chủ yếu ở khu vực sản xuất nông nghiệp, chiếm 46,3%, tương đương với tỷ lệ của Thái Lan vào năm 1995, Philippines và Indonesia đầu thập kỷ 90, gấp 2,4 lần Malaysia và 4 lần Hàn Quốc năm 1995. Tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp năm 2012 của Malaysia là 12,6%; Philippines 32,2%; Indonesia 35,1%; và Thái Lan 36,9%.

Theo vị thế việc làm, lao động Việt Nam chủ yếu làm các công việc gia đình hoặc tự làm (có thu nhập thấp, bấp bênh, không ổn định), chiếm tới 62,7% tổng việc làm 2013.

Chất lượng nguồn nhân lực thấp, cơ cấu đào tạo thiếu hợp lý, hiệu quả sử dụng lao động qua đào tạo chưa cao. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo năm 2014 của Việt Nam là 18,2%.

Tỷ lệ biết chữ của Việt Nam đứng sau Philippines, Thái Lan. Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 95%, thấp hơn Thái Lan và Indonesia (98%);

Theo đánh giá của WB về kinh tế tri thức: Chỉ số giáo dục của Việt Nam năm 2012 là 2,99 (thấp hơn bình quân thế giới là 4,35; bình quân của khu vực 5,26), xếp thứ 113, thấp hơn so với Hàn Quốc thứ 4; Malaysia thứ 75; Philippines thứ 85; Thái Lan thứ 93 và Indonesia thứ 102.

---------------------------

Tư Giang  -   Kinh tế Sài Gòn Online
Thứ Sáu,  28/8/2015, 23:30 (GMT+7)

(TBKTSG) - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, ông Trần Đình Thiên, trao đổi với TBKTSG về tình trạng nhập siêu với Trung Quốc và hệ lụy của nó.
TBKTSG: Ông đã từng nêu quan điểm cần hạn chế nhập khẩu từ Trung Quốc, đặc biệt là khi có vụ giàn khoan HD 981 năm ngoái. Nhưng rồi...

- Ông Trần Đình Thiên: Khi có vụ giàn khoan tôi cứ tưởng chúng ta chuyển hướng được thị trường nhưng rồi nhập siêu tiếp tục tăng lên đến gần 30 tỉ đô la Mỹ trong năm 2014. Ở các diễn đàn kinh tế, có nhiều người nói sợ ngưng thương mại, nhưng tôi luôn khẳng định ngưng được là tốt. Chúng ta cần biết cắn răng chịu đau đớn để thay đổi cấu trúc. Nhưng chúng ta cứ vì ngắn hạn mà lơ đi dài hạn...

TBKTSG: Nhìn vào cấu trúc xuất nhập khẩu hai nước, ông thấy điều gì?
- Chúng ta xuất gì? Toàn là hàng nông sản thô, khoáng sản thô. Mình xuất thế là toàn bị thiệt, để các doanh nghiệp của họ làm tiếp và hưởng hết giá trị gia tăng. Còn mình nhập của họ rất nhiều, hầu hết là nguyên liệu đầu vào, để không phải làm.
Chúng ta nhập hàng của họ để lắp ráp, gia công, nghĩa là chúng ta xuất khẩu hộ họ, và chỉ được hưởng có tí giá trị thôi. Chúng ta ở đẳng cấp vô cùng thấp. Còn họ thì xuất “ăn” đường xuất, nhập “ăn” đường nhập.
Ngay cả về biên mậu, họ cũng khác hẳn mình. Họ khuyến khích người dân dùng xe ba gác thồ quặng về còn chúng ta khuyến khích người dân sang cõng hàng về.
Cấu trúc kinh tế của chúng ta sai lệch quá rồi, không sao thay đổi được.

TBKTSG: Vậy thì ai là người có lỗi? Doanh nghiệp hay chính sách?
- Do hệ thống chính sách định hướng chứ, từ tỷ giá, lãi suất, đất đai, hệ thống động lực... làm sao mà đổ lỗi cho doanh nghiệp được! Hệ thống chính sách đó nó làm cho cơ cấu kinh tế sai lệch, không khuyến khích sản xuất trong nước, làm các ngành công nghiệp luôn nằm ở đáy của chuỗi giá trị.

TBKTSG: Các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà chúng ta đã và sẽ ký đều coi trọng quy tắc nguồn gốc xuất xứ. Trong bối cảnh nguyên liệu, vật liệu đầu vào phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc như hiện nay thì tình hình sẽ như thế nào?
- Đây là vấn đề quá khó để trả lời. Tôi cũng chưa hình dung nổi chúng ta sẽ chuyển hướng ra sao, và nếu không chuyển hướng thì được hưởng lợi gì từ các FTA. Nguồn gốc xuất xứ là vấn đề rất khó khăn, và nhạy cảm. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp trong ngành dệt may từ Trung Quốc đã chuyển sang đây để đón đầu TPP. Và điều này chúng ta phải chịu.

TBKTSG: Vì sao chúng ta tham gia nhiều FTA như vậy? Điều này có tốt không cho tổng thể nền kinh tế?
- Có nhiều chuyên gia nói các FTA đều có lợi và cần hưởng ứng hết các FTA. Nhưng vấn đề là năng lực của nền kinh tế, năng lực của doanh nghiệp nội địa chỉ có vậy thôi. Lẽ ra, chúng ta chỉ dồn cho một vài FTA thì doanh nghiệp còn vùng lên được, đây có mười mấy FTA thì năng lực đâu mà tận dụng hết? Điều đó dẫn đến nguy cơ: ông mang cái lợi ấy cho kẻ khác hưởng. Cứ xem các doanh nghiệp FDI đã chiếm tới hơn 70% giá trị nhập khẩu. Trong khi đó, các vòng xoáy FTA rất nhiều, đan xen vào nhau, thì các doanh nghiệp Trung Quốc, Thái Lan sẽ hưởng lợi, chứ có phải doanh nghiệp Việt Nam đâu.

TBKTSG: Chẳng qua là thể chất, năng lực của doanh nghiệp Việt Nam yếu quá?
- Đó là nguyên nhân trực tiếp, nguy hiểm hiện nay, còn nguyên nhân sâu xa thì phải nhìn lại là lịch sử...
Trong chuyện mua bán, sáp nhập doanh nghiệp thì mỗi năm các doanh nghiệp Việt Nam cũng “bán mình” tới năm tỉ đô la Mỹ. Trong một cuộc họp gần đây, tôi nói, bất kỳ chính sách kinh tế đối ngoại nào mà chúng ta đang làm cũng dường như để thể hiện mình tự do hóa thị trường. Vấn đề là điều đó tác động như thế nào, và sẽ chịu hậu quả gì trong tương quan kinh tế với Trung Quốc? Lẽ ra, phải có tính toán, dự liệu rồi mới quyết định chính sách đó về mặt thời gian, về mặt liều lượng. Chẳng hạn, khi quyết định bán bất động sản cho người nước ngoài, vâng, tốt thôi. Song, vấn đề là khi nhà đầu tư Trung Quốc vào mua với số lượng lớn, thì sẽ tác động như thế nào, ai có thể cạnh tranh với họ?
Hay chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bán cổ phần cho doanh nghiệp nước ngoài, nới room. Về mặt nguyên lý là tốt rồi, cần chuyển nguồn lực cho doanh nghiệp tư nhân. Nhưng vấn đề, co kẻ đang há mồm đứng phía sau kia, vớ vẩn là nó đớp luôn cả ngành công nghiệp, chứ không chỉ là vài doanh nghiệp. Thậm chí bỏ ra vài tỉ đô la là họ thao túng luôn thị trường chứng khoán... Có những vấn đề đó!

TBKTSG: Những câu chuyện này bị nhiều chuyên gia, không chỉ ông, phản ứng. Nhưng vì sao vẫn cứ như vậy?
- Nên hiểu tình thế chúng ta là khó. Chúng ta làm được cái này thì mất cái kia, nhưng cái được là ngắn hạn, còn cái mất là dài hạn. Ta phải nhắm mắt lại để được cái trước mắt đã, vì chúng ta bí đến thế.









No comments: