Thursday, May 14, 2015

Quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương: Nó có nghĩa là gì (Kevin Granville - The New York Times)





Kevin Granville
Trà Mi dịch
Posted on May 13, 2015 by editor — 0 Comments

Giống như một con tàu container khổng lồ đang cặp bến, hiệp định thương mại gọi là Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) sắp thả neo ở Washington.

*
Tập tài liệu này rất lớn và bí mật, dài đến khoảng 30 chương, và vẫn đang được tiếp tục đàm phán sau gần 10 năm thương lượng. Nó sẽ lập các điều khoản mới cho việc đầu tư thương mại và kinh doanh giữa Hoa Kỳ và 11 quốc gia Ven Thái Bình Dương khác – một nhóm những quốc gia ở xa với tổng sản phẩm trong nước hàng năm gần 28 ngàn tỉ đô-la, khoảng 40% của GDP toàn cầu và một phần ba của nền thương mại thế giới.

Những người ủng hộ TPP nói rằng nó sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia tham gia, và nó sẽ “mở khóa cơ hội” và “giải quyết các vấn đề rất quan trọng của thế kỷ 21 trong nền kinh tế toàn cầu”, và rằng nó được soạn thảo bằng một cách để khuyến khích nhiều nước hơn, có thể ngay cả Trung Quốc cũng sẽ gia nhập nhập. Được Quốc hội thông qua là một trong những mục tiêu cuối cùng trong nhiệm kỳ này của Tổng thống Obama, nhưng ông phải đương đầu với sự phản đối gay gắt từ gần như tất cả các đảng viên Dân chủ.

Những người phản đối ở Mỹ thấy TPP phần lớn là một hiệp ước viết cho giới kinh doanh, khuyến khích việc tiếp tục xuất khẩu việc làm trong ngành sản xuất sang các nước có mức lương thấp trong khi hạn chế cạnh tranh và khuyến khích giá cao hơn cho dược phẩm và các sản phẩm có giá trị cao bằng cách truyền bá tiêu chuẩn của Mỹ để bảo vệ bằng  sáng chế đến các nước khác. Một điều khoản cho phép các tập đoàn đa quốc gia có thể không thừa nhận những quy định và phán quyết của Toà án đặc biệt đang bị phản đối dữ dội.

Những quốc gia nào tham gia?
Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam, và Hoa Kỳ.

Tại sao lại TPP, và tại sao vào lúc này?
Hiệp ước này là một thành phần chính của chính sách “xoay trục” của Tổng thống Obama sang châu Á. Nó được xem như là một cách để ràng buộc những đối tác thương mại ở Ven Thái Bình Dương gần gũi hơn với Hoa Kỳ trong khi nâng cấp thách thức đối với Trung Quốc, nước đang mạnh lên ở châu Á, đã thẳng thừng bị loại khỏi cuộc dầm phán này, ít nhất là ngay lúc này.

Nó được xem như là một phương tiện để giải quyết một số vấn đề nhức nhối mà đã trở thành chướng ngại vật trong khi thương mại toàn cầu đang tăng vọt, trong đó có thương mại điện tử, dịch vụ tài chính và truyền thông Internet qua biên giới.

Ngoài ra còn có các vấn đề liên quan đến thương mại truyền thống. Hoa Kỳ là mong muốn thiết lập các thỏa thuận thương mại chính thức với năm của quốc gia đang tham gia TPP – Nhật Bản, Malaysia, Brunei, New Zealand và Việt Nam – và tăng cường NAFTA (North American Free Trade Agreement), thỏa thuận hiện có với Canada và Mexico.

Hơn nữa, những nỗ lực giao dịch thương mại toàn cầu đã loạng choạng (chẳng hạn như vòng đàm phán Doha của Tổ chức Thương mại Thế giới, WTO), thì hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương được quảng cáo là một tài liệu với một “cấu trúc mở” có văn bản dễ dàng áp dụng cho các quốc gia châu Á khác, và để cung cấp mẫu mực cho các sáng kiến khác đang tiến hành, như Thương mại Xuyên Đại Tây Dương và Hợp tác Đầu tư.

Một số trong những vấn đề trên bàn đàm phán là gì?
Thuế quan và hạn ngạch | Thường được sử dụng để bảo vệ ngành công nghiệp trong nước với những hàng hóa rẻ từ nước ngoài, thuế nhập khẩu đã từng một tiêu chuẩn, một nét đặc thù của các chính sách thương mại, và đem lại doanh thu lớn cho Kho bạc Hoa Kỳ trong thế kỷ 19. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế ở thập niên 1930 và Thế chiến II, Hoa Kỳ dẫn đầu một phong trào hướng về thương mại tự do hơn.

Ngày nay, Hoa Kỳ và các nước phát triển nhất ít thuế xuất nhập khẩu, nhưng vẫn còn một số. Hoa Kỳ, ví dụ, vẫn bảo vệ thị trường đường nội địa trước những nhà cung cấp toàn cầu bán giá thấp hơn và vẫn đánh thuế đối với giày nhập khẩu, trong khi Nhật Bản đánh thuế nặng vào các sản phẩm nông nghiệp như gạo, thịt và sữa. Hiệp ước TPP là một nỗ lực hầu tạo ra một khu vực thương mại tự do ở Ven Thái Bình Dương.

Tiêu chuẩn về Môi trường, Lao động và Tài sản Trí tuệ | Giới đàm phán Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng TPP sẽ tìm cách để tạo ra một sân chơi bình đẳng bằng cách áp đặt những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về lao động và môi trường với các đối tác thương mại, và giám sát của quyền Sở hữu Trí tuệ.

Dòng Dữ liệu | Hoa Kỳ muốn hiệp định thương mại Thái Bình Dương giải quyết một số vấn đề đã phát sinh kể từ khi có những thỏa thuận đã được đàm phán trước đây. Một là các nước tham gia đồng ý không ngăn chặn sự lưu chuyển dữ liệu bằng Internet qua biên giới, và không đòi hỏi rằng các máy chủ phải được đặt ở nội địa để tiến hành kinh doanh tại quốc gia đó. Đề xuất này đã gây mối quan tâm với một số quốc gia mà Australia là một ví dụ, cho rằng điều khoản này có thể xung đột với luật pháp bảo vệ sự riêng tư và các quy định đối với dữ liệu cá nhân được lưu trữ ở nước ngoài.

Dịch vụ | Một mục tiêu lớn của hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương đang tăng cường cơ hội cho ngành công nghiệp dịch vụ, chiếm hầu hết các công việc tư nhân trong nền kinh tế Mỹ. Hoa Kỳ có một lợi thế cạnh tranh trong một loạt các dịch vụ, gồm tài chính, kỹ thuật, phần mềm, giáo dục, luật pháp và công nghệ thông tin. Mặc dù những dịch vụ không bị đánh thuế, những hạn chế và yêu cầu của quốc gia về đầu tư được nhiều nước đang phát triển sử dụng để bảo vệ các doanh nghiệp địa phương.

Doanh nghiệp Nhà nước | Giới đàm phán Hoa Kỳ đã thảo luận về sự cần thiết để giải quyết sự thiên vị thường được dành cho doanh nghiệp nhà nước – những doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp thuộc về chính phủ. Mặc dù Việt Nam và Malaysia có nhiều tập đoàn như vậy, Hoa Kỳ cũng có một số như thế (ví dụ như các dịch vụ bưu chính và Fannie Mae, dịch vụ giúp người Mỹ có thu nhập thấp đến trung bình mua nhà trả góp). Bản hiệp ước cuối cùng có thể gồm các điều khoản bảo đảm tương đối sự cạnh tranh trung lập trong khi vẫn giữ cửa mở để có thể chấp nhận Trung Quốc gia nhập hiệp ước trong tương lai.

Tại sao lại phải bí mật?
Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ đã nói rằng
“Giới đàm phán cần phải giao tiếp với nhau bằng sự thẳng thắn, tính sáng tạo và tin cậy nhau ở một mức độ cao. Để tạo ra các điều kiện cần thiết để đạt được thành công trong đàm phán những hiệp định thương mại và đầu tư phức tạp, chính phủ các quốc gia đang đàm phán thường xuyên giữ những đề xuất và thông tin liên lạc của họ với nhau trong vòng bí mật.”

Nhưng các thỏa thuận thương mại trước đó đã được thông báo một cách cởi mở hơn và bất chấp những nỗ lực giữ bí mật, một phần của các tài liệu của các hiệp ước đã rò rỉ ra ngoài, bằng WikiLeaks và các tổ chức khác.

Tại sao Trung Quốc không có mặt trong cuộc đàm phán TPP?
Trung Quốc chưa bao giờ bày tỏ có ý muốn tham gia cuộc đàm phán, nhưng trong quá khứ đã theo dõi việc đàm phán hiệp ước với mối quan tâm, coi đây có thể là một một mối đe dọa khi Hoa Kỳ cố thắt chặt mối quan hệ với các đối tác thương mại ở châu Á. Nhưng gần đây, khi cuộc đàm phán đã tăng tốc, giới chức cấp cao của Trung Quốc đã có vẻ dễ chấp nhận hiệp ước này hơn, và ngay cả đã gợi ý rằng họ có thể muốn tham gia trong tương lai. Cùng lúc, TPP đã cho Trung Quốc một số cơ hội trong khi họ đang theo đuổi một thỏa thuận thương mại riêng của mình trong khu vực, như sáng kiến Con đường tơ lụa ở Trung Á.

Giới chức Hoa Kỳ, trong khi xác định rằng họ coi hiệp ước TPP là một phần của một nỗ lực để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực, nhưng vẫn nói rằng họ đang hy vọng rằng “Cấu trúc mở” của TPP sẽ thúc đẩy Trung Quốc tham gia cùng với những cường quốc kinh tế quan trọng khác như Nam Hàn.

Cái bóng của NAFTA, và cuộc tranh luận ở Washington
NAFTA, được Tổng thống Bill Clinton phê chuẩn vào năm 1993, đã góp phần giúp cho sự phát triển mạnh về thương mại giữa các nước Mỹ, Mexico và Canada. Tất cả ba nước xuất khẩu nhiều hàng hóa và dịch vụ đến hai nước khác, đầu tư xuyên biên giới lớn, và nền kinh tế Hoa Kỳ đã có thêm thêm hàng triệu việc làm kể từ đó. Nhưng tất nhiên không phải tất cả những kết quả đó là do NAFTA, và lợi ích quốc gia cũng không bằng nhau: Mỹ có thặng dư thương mại nhỏ với Mexico khi hiệp ước được ký kết, đã nhanh chóng trở thành một thâm hụt thương mại, lên tới hơn 50 tỉ USD một năm. Giới chỉ trích NAFTA cũng cho rằng tăng trưởng việc làm ở Hoa Kỳ không kể đến con số việc làm mất đi cho Mexico hoặc Canada; Tổ chức AFL-CIO cho rằng khoảng 700.000 việc làm của Mỹ đã mất hoặc bị chuyển đi vì NAFTA.

NAFTA là một chiến thắng quan trọng cho Tổng thống Clinton sau cuộc tranh đấu khó khăn ở Quốc hội, ở đó ông giành được sự ủng hộ của đảng Dân chủ đồng chỉ đủ để bảo đảm thông qua hiệp ước. Số phiếu lúc đó là 234-200 trong Hạ viện, và 61-38 tại Thượng viện.
Tổng thống Obama chỉ có thể hy vọng được kết quả như vậy. Hầu hết các nhà lập pháp đảng Dân Chủ đã kịch liệt phản đối thỏa thuận thương mại Xuyên Thái Bình Dương; công đoàn và các nhóm cấp tiến cùng xếp hàng để ngăn chặn một dự luật gọi là Ủy quyền Thúc đẩy Thương mại; dự luật này sẽ cho phép Tòa Bạch Ốc trình bày các hiệp ước thương mại với Quốc hội để bỏ phiếu quyết định thuận hay không thuận và không được sửa đổi, tu chính. Nhưng Tổng thống Obama đã liên minh với nhóm kinh doanh nghiệp và giới lãnh đạo đảng Cộng hòa để đạt được kết quả cho TPP. Những người đánh cuộc tin rằng số phiếu sẽ xít xao, nhưng nghĩ rằng TPP có cơ hội tốt để được thông qua.

© 2015 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”

Nguồn: The Trans-Pacific Partnership Trade Deal: What It Would Mean.
By Kevin Granville, The New York Timesx, May 11, 2015.










No comments: