Vào
cuối tháng Tư vừa qua, trong và ngoài nước xuất hiện một số bài báo đề cập đến
vấn đề hòa giải quốc cộng sau khi chiến tranh đã kết thúc 40 năm. Chuyện nầy chẳng
có gì mới mẻ, cũng đã từng diễn ra năm 1945. Vì vậy, xin hãy cùng nhau ôn lại
chuyện hòa giải quốc cộng 70 năm trước để rút kinh nghiệm cho tương lai.
Cách
đây 70 năm, mặt trận Việt Minh (VM) thuộc đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) cướp
được chính quyền. (Nhóm chữ “cướp chính quyền” là chữ do cộng sản đưa ra.) Ngày
2-9-1945, Hồ Chí Minh, lãnh tụ của đảng CSĐD, tuyên bố độc lập và ra mắt chính
phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Gần 10 ngày sau, Trung ương đảng CSĐD họp
tại Hà Nội ngày 11-9-1945 đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền
điều khiển mặt trận VM và một mình thực hiện cách mạng. (Philippe
Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil,
Paris 1952, tr. 143.) Đảng CSĐD nắm độc quyền VM, mà VM đang nắm chính quyền,
cai trị đất nước; nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.
Dầu
Hồ Chí Minh, VM và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) quyết ra tay nhanh chóng để
tạo ra tình trạng chính trị đã rồi, nhưng các cường quốc không thừa nhận chính
phủ Hồ Chí Minh và vẫn thi hành giải pháp do tối hậu thư Potsdam đưa ra ngày
26-7-1945, theo đó việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương ở bắc vĩ tuyến
16 do quân đội Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) phụ trách và ở nam vĩ tuyến 16 do quân
Anh phụ trách. Giải pháp nầy không đề cập đến việc sau khi quân đội Nhật bị giải
giới, ai sẽ cai trị Đông Dương, tạo ra một khoảng trống chính trị và hành chánh
ở Đông Dương.
Việt
Minh Cộng sản gặp khó khăn
Khoảng
200,000 quân Trung Hoa do các tướng Lư Hán và Tiêu Văn lãnh đạo tiến vào Hà Nội
từ giữa tháng 9-1945. Cũng trong thời gian nầy, quân Anh đến Sài Gòn do tướng
Douglas Gracey chỉ huy. Nhờ sự giúp đỡ của người Anh, vào đầu tháng 10-1945,
quân Pháp do tướng Leclerc cầm đầu đổ bộ khá đông ở Nam Kỳ và uy hiếp các lực
lượng VM.
Tại
miền Nam, VM rất lúng túng trước việc quân Pháp càng ngày càng mở rộng vùng kiểm
soát, dồn VM vào thế co cụm và lẫn tránh vào các vùng bưng biền. Tại miền Bắc,
Hồ Chí Minh và mặt trận VM cũng khó khăn không kém, gặp ba áp lực cùng một lúc.
Đó là: 1) Theo tối hậu thư Potsdam, 200,000 quân Trung Hoa vào Việt Nam giữa
tháng 9-1945. 2) Các lãnh tụ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) và Việt
Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) từ Trung Hoa trở về Việt Nam sau thế chiến thứ hai,
quyết liệt chống đối Hồ Chí Minh và mặt trận VM. 3) Sau khi tái chiếm miền Nam,
người Pháp tiến quân từ nam ra bắc, dự tính tái chiếm toàn bộ Đông Dương. Lúc
đó, VM chỉ có khoảng từ 2,000 đến 5,000 đảng viên cộng sản. (Philippe
Devillers, sđd. tr. 182.)
Khi
mới nổi lên cướp chính quyền, Hồ Chí Minh và VM cộng sản đã giết nhiều người
không theo VM như đảng viên các đảng phái ở Hà Nội, nhóm bảo hoàng ở Huế, nhóm
Đệ tứ quốc tế ở Sài Gòn… Nay vì khó khăn mới, Hồ Chí Minh và VM thực hiện một kế
hoạch hai mặt. Bề ngoài, VM tỏ ra hòa hoãn, nói chuyện với tất cả các phe phái,
kêu gọi lòng yêu nước, đoàn kết và liên hiệp để cùng nhau chống ngoại xâm. Bề
trong, VM thực hiện các cuộc khủng bố ngầm, thủ tiêu lẻ tẻ những địch thủ chính
trị và đe dọa những ai không theo VM.
Khi
cùng với Tiêu Văn, từ Quảng Châu về Việt Nam, Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt
Cách, liên lạc và hội họp với Jean Sainteny, đại diện Pháp ở Bắc Kỳ ngày 12-10
và 15-10-1945 tại Hà Nội, để thảo luận về tương lai chính trị Bắc Kỳ. Thấy thế,
ngày 23-10-1945, Hồ Chí Minh liền mời Nguyễn Hải Thần họp tay đôi giữa hai bên,
và ký thỏa thuận hợp tác giữa VM và Việt Cách.
Để
gây lòng tin nơi các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, nhất là các tướng lãnh
Trung Hoa Quốc Dân Đảng đang có mặt ở Hà Nội, Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán đảng
CSĐD ngày 11-11-1945 và thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít]
do Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) làm tổng thư ký. Tuy vậy, theo lời Hồ Chí Minh “dù
là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân.” (Hồ
Chí Minh toàn tập, [tập 6], xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc
Gia, 2000, tr. 161.)
Trong
khi đó, ngày 6-11-1945, Vũ Hồng Khanh, lãnh tụ VNQDĐ về lại Hà Nội. Ngày
8-11-1945 Nguyễn Hải Thần đòi thành lập một chính phủ liên hiệp. Đòi hỏi nầy
phù hợp với ý muốn của các tướng lãnh Trung Hoa vì trước khi Lư Hán qua Việt
Nam, Hoa Kỳ gây ảnh hưởng để Tưởng Giới Thạch bắt tay với Mao Trạch Đông. (T.E.
Vadney, The World Since 1945, London: Penguin Books, 1987, tr.
121.) Ngày 14-8-1945, chính phủ Tưởng Giới Thạch ký hiệp ước thân hữu với Liên
Xô. (Trevor N. Dupuy, Curt Johnson và David L. Bongard, The Harper
Encyclopedia of Military History, New York: HarperCollins, 1993, tr. 1423.)
Do đó, chính phủ và các tướng lãnh Trung Hoa, vừa ủng hộ các nhà lãnh đạo Việt
Nam theo chủ nghĩa dân tộc, vừa muốn Việt Nam theo công thức quốc cộng liên hiệp
như Trung Hoa, nên họ áp lực cả hai phía ngồi lại với nhau. Các tướng lãnh
Trung Hoa còn muốn giải quyết cho xong vấn đề Việt Nam để rút quân về ứng phó với
tình hình Trung Hoa.
Lúc
đó, ở Việt Nam lãnh tụ các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc và các nhà trí thức
yêu nước không phải là không biết về lai lịch Hồ Chí Minh, và cũng không phải
không có những nghi ngờ đối với VM cộng sản. Tuy nhiên, các đảng phái quốc gia ở
thế chẳng đặng đừng, phải gia nhập chính phủ liên hiệp, vì đã chậm chân để cho
VM chiếm được chính quyền trước; nay muốn tranh đấu giành lại chính quyền khỏi
tay VM, thì phải chấp nhận ngồi lại tranh đấu chính trị.
Chính
Phủ liên hiệp
Ngày
23-12-1945, đại diện của VM, Việt Cách và VNQDĐ cùng họp tại số 40 đại lộ Gia
Long (Hà Nội), dưới sự chủ tọa của tướng Tiêu Văn, ký thỏa thuận gọi là HỢP TÁC
TINH THÀNH, gồm 18 điểm, đại khái là: Từ ngày 1-1-1946, một chính phủ liên hiệp
sẽ được thành lập do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch.
Nội các gồm VM (2 ghế), Việt Cách (2 ghế), QDĐ (2 ghế), Dân Chủ (2 ghế), độc lập
(2 ghế). Quốc hội sẽ được tổ chức bầu cử ngày 6-1-1946. QDĐ giữ 50 ghế, Việt Cách
20 ghế. Các đảng cam kết không gây hấn với nhau. (Chính Đạo, Việt Nam
niên biểu, tập A, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1996, tr. 293.)
Ngày
26-12-1945, báo chí Hà Nội đăng thông cáo chung của Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần
và Vũ Hồng Khanh, nguyên văn như sau:
Ngày
24-12-1945, chúng tôi là Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh thay mặt
cho Việt Minh, Quốc Dân Đảng và Cách mệnh Đồng Minh Hội, cùng ký tên công nhận
những điều ước sau đây:
1.
Độc lập trên hết, đoàn kết trên hết. Căn cứ vào thái độ thân ái, tinh thành,
cùng nhau thảo luận để giải quyết hết thẩy những vấn đề khó khăn trước mắt. Ai
dùng ngang vũ lực gây nên những cuộc nội loạn sẽ bị quốc dân ruồng bỏ.
2.
Kể từ ngày 25-12-1945, đôi bên phải ủng hộ một cách thiết thực cuộc tổng tuyển
cử, quốc hội và kháng chiến.
3.
Bắt đầu từ ngày 25-12-1945, đôi bên đều đình chỉ hết thẩy những việc công kích
nhau bằng ngôn luận và bằng hành động.
Ký
tên: Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh. (Chính Đạo, sđd.
tr. 294.)
Từ
đó, CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP ra đời tại Hà Nội ngày 1-1-1946, do Hồ Chí Minh làm chủ
tịch, Nguyễn Hải Thần phó chủ tịch, với đa số đảng viên cộng sản, thân cộng sản
(cộng sản trá hình) và một số đảng viên các đảng phái khác làm bộ trưởng. Đồng
thời một Hội đồng Quốc phòng được lập ra do Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch và Vũ Hồng
Khanh giữ chức phó chủ tịch. (Đây là chính phủ liên hiệp quốc cộng đầu tiên sau
năm 1945.)
Theo
thỏa thuận “hợp tác tinh thành”, cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên ở Việt Nam được
tổ chức ngày 6-1-1946 trên toàn quốc, gồm tổng cộng 333 ghế. Hồ Chí Minh đắc cử
ở Hà Nội. Cựu hoàng Bảo Đại không ký đơn ứng cử, mà vẫn đắc cử ở Thanh Hóa. (Bảo
Đại, Con rồng Việt Nam, California: Nxb. Xuân Thu, 1990, tr. 222.)
Tuy
quốc hội lập hiến đã được bầu xong, nhưng các đảng phái không cộng sản tiếp tục
phản đối mạnh, vì trong cuộc bầu cử nầy, số người đắc cử không ngoài các lãnh tụ
VM, những người thân VM, hoặc những người do VM chọn, như trường hợp cựu hoàng
Bảo Đại. Lúc đó, VM buộc phải mở rộng quốc hội, thêm 70 đại biểu cho Việt Cách
và QDĐ từ nước ngoài trở về, không thông qua bầu cử, như đã quy định trong cuộc
họp ngày 23-12-1945. Như thế, tổng số đại biểu lên đến 403 người.
Sau
đây là lời sử gia Trần Trọng Kim mô tả cuộc bầu cử: “Khi ấy tôi đã về ở
Hà Nội rồi, thấy cuộc tuyển cử rất kỳ cục. Mỗi chỗ để bỏ phiếu, có một người của
Việt Minh trông coi, họ gọi hết cả đàn ông, đàn bà đến bỏ phiếu, ai không biết
chữ thì họ viết thay cho. Việt Minh đưa ra những bản kê tên những người họ đã định
trước, rồi đọc những tên ấy lên và hỏi anh hay chị bầu cho ai? Người nào vô ý bầu
cho một người nào khác, thì họ quát lên; “Sao không bầu cho những người này? Có
phải phản đối không?” Người kia sợ mất vía nói: “Anh bảo tôi bầu cho ai, tôi
xin bầu người ấy.” Cách cưỡng bách ra mặt như thế, lẽ dĩ nhiên những người Việt
Minh đưa ra được đến tám chín mươi phần trăm số người đi bầu.” (Lệ Thần
Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr.
103.)
Quốc
hội lập hiến họp kỳ thứ nhứt ngày 2-3-1946, cử ra CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP KHÁNG CHIẾN,
do cựu hoàng Bảo Đại, nay là công dân Vĩnh Thụy làm cố vấn tối cao, và các chức
vụ quan trọng là Hồ Chí Minh (chủ tịch), Nguyễn Hải Thần (phó chủ tịch), Huỳnh
Thúc Kháng (bộ trưởng Nội vụ), Nguyễn Tường Tam (bộ trưởng Ngoại giao), Phan
Anh (bộ trưởng Quốc phòng). Đa số còn lại là bộ trưởng VM (cộng sản) và một số
ít các đảng phái khác. Quân sự ủy viên hội vẫn là hai nhân vật chính là Võ
Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh. (Đây là chính phủ liên hiệp quốc cộng lần thứ hai
sau 1945.)
Sử
gia Trần Trọng Kim kể về hoạt động của chính phủ liên hiệp: “Khi tôi
còn ở Hà Nội, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra nhận chức bộ trưởng bộ nội vụ, có đến thăm
tôi. Ngồi nói chuyện, tôi hỏi: “Cụ nay đứng đầu một bộ rất quan trọng trong
chính phủ, chắc là bận việc lắm”. Cụ Huỳnh nói: “Bây giờ việc gì cũng do địa
phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm
sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi”. Những khi có hội đồng chính phủ
thì bàn định những gì? “Cũng chưa thấy có việc gì, thường thì họ đem những việc
họ đã làm, rồi nói cho chúng tôi biết”. Xem như thế thì các ông bộ trưởng chỉ đứng
để làm vị mà thôi, chứ không có quyết định gì cả. Có người hỏi ông Nguyễn Tường
Tam rằng: “Khi ông nhận chức bộ trưởng bộ ngoại giao, ông thấy có việc gì quan
trọng lắm không?” Ông trả lời: “Tất cả giấy má trong bộ ngoại giao của cụ Hồ
giao lại cho tôi, tôi chỉ thấy có ba lá đơn của mấy người sĩ quan Tàu nhờ tìm
cho mấy cái nhà, và tìm cái ví đựng tiền bị kẻ cắp lấy mất”. Câu chuyện có thể
là ông Tam nói khôi hài, nhưng đủ rõ việc các ông bộ trưởng không có gì. Tôi
đem câu chuyện đó nói ra đây để chứng thực là các bộ trưởng chỉ giữ hư vị chứ
không có thực quyền. Cái thực quyền trong chính phủ lúc ấy là ở mấy người như
ông Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và ở tổng bộ cộng sản điều khiển hết cả.” (Lệ
Thần Trần Trọng Kim, sđd. tr. 110.)
Cần
chú ý là lúc đó VM đang gặp khó khăn: Khoảng 200,000 quân QDĐ Trung Hoa chưa về
nước sau lễ đầu hàng của quân đội Nhật ngày 28-9-1945. Quân đội Pháp chiếm được
toàn bộ Nam Kỳ đang từ Nam Kỳ tiến ra Trung Kỳ và đe dọa Bắc Kỳ. Vì vậy, Hồ Chí
Minh và VM mới nhượng bộ các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, tổ chức bầu cử
quốc hội, soạn thảo hiến pháp, để tạm ổn việc nội bộ nhằm rảnh tay giải quyết
công việc ngoại giao.
Kết
quả
Nhờ
kế hoạch “hợp tác tinh thành” và liên hiệp với các đảng phái đối lập, Hồ Chí
Minh và VM tạm ổn định tình hình nội bộ, quay qua vận động ngoại giao, ký với đại
diện Pháp thỏa ước Sơ bộ ngày 6-3-1946 tại Hà Nội, rồi Tạm ước (Modus Vivendi)
ngày 14-9-1946 tại Paris, hợp thức hóa việc Pháp trở lại Đông Dương và tái thiết
lập lại toàn bộ các cơ sở Pháp tại Việt Nam.
Trong
khi tạm ổn về ngoại giao, VM quay qua tấn công các thành phần đối lập. Nguyễn Hải
Thần âm thầm bỏ qua Trung Hoa. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận,
cuốn 4, Paris: Nxb. Nam Á, 2002, tr. 2092.) Huỳnh Thúc Kháng được cử lên thay
làm phó chủ tịch nước.
Hồ
Chí Minh qua Pháp theo phái đoàn tham dự Hội nghị Fontainebleau, rời Hà Nội
ngày 31-5-1946. Hồ Chí Minh cử Huỳnh Thúc Kháng làm quyền chủ tịch nước. Nhân
cơ hội Hồ Chí Minh đang còn ở Pháp, tức không có mặt ở Việt Nam, VM cộng sản mở
cuộc đại khủng bố các thành phần đối lập nhằm chứng tỏ rằng Hồ Chí Minh là kẻ
ngoại phạm, không liên can trong các vụ nầy.
Để
có lý do tấn công VNQDĐ, Võ Nguyên Giáp, chủ tịch Quân sự ủy viên hội, lấy cớ rằng
có tin mật báo đặc vụ QDĐ âm mưu sẽ tấn công và ám sát các nhân viên chính phủ
trong dịp tham dự lễ duyệt binh do Pháp tổ chức tại Hà Nội nhân ngày quốc khánh
Pháp (14-7-1946), nên ngày 13-7-1946, Võ Nguyên Giáp cho người lục soát trụ sở
của VNQDĐ ở số 9 phố (đường) Ôn Như Hầu ở Hà Nội.
Trụ
sở nầy vốn của quân đội Nhật Bản giao lại cho quân đội Trung Hoa; rồi được chuyển
cho QDĐ sử dụng. Quốc Dân Đảng sử dụng số 9 phố Ôn Như Hầu làm trụ sở của ban
Tuyên huấn Đệ thất khu Đảng bộ của VNQDĐ. Việt Minh dùng võ lực, bất ngờ tràn
vào nhà, bắt tất cả những đảng viên QDĐ có mặt hôm đó tại trụ sở, tịch thâu một
số giấy tờ quan trọng, trong đó theo lời VM, có “kế hoặc đảo chính” chính phủ
Hồ Chí Minh. Việt Minh cho rằng đã tìm thấy trong khu vực nhà nầy một số xác
người, và lập biên bản kết tội QDĐ tổ chức "hắc điếm" để bắt cóc, giết
người, tống tiền, cướp của. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng,
tái bản kỳ 2, Sài Gòn, 1970, tt. 322-324.) Tiếp tục tại Hà Nội, tối hôm
20-10-1946, công an xung phong VM trang bị súng ống, tiến vào tòa soạn nhật báo
Việt Nam, tại số 80 phố [đường] Quan Thánh (Grand Bouddha cũ), Hà Nội. Nhật báo
nầy do VNQDĐ lập ra vào cuối năm 1945, và do nhà văn Khái Hưng phụ trách. Sau
khi lục soát toàn bộ khu nhà, phá hoại máy móc, VM bắt khoảng 20 người có mặt
trong tòa báo về ty công an ở đường Trần Hưng Đạo (Gambetta cũ).
Việt
Minh lùng bắt đảng viên QDĐ và Việt Cách. Báo Cứu Quốc của VM
ngày 1-11-1946 loan báo đã bắt hơn 300 người vào ngày 29-10-1946, đa số bị đưa
đi an trí. Đại đa số những người bị VM đưa đi an trí, nếu không trốn thoát, đều
bị VM thủ tiêu luôn, nhứt là khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19-12-1946.
Trong
khi đó, sau biến cố "Ôn Như Hầu" (13-7-1946), nhiều đảng viên QDĐ lui
vào hoạt động bí mật và nhất là rút lên các chiến khu tiếp tục chiến đấu. Để tấn
công QDĐ, Võ Nguyên Giáp dựa vào kết luận trong biên bản vụ Ôn Như Hầu do VM lập
ra, cho rằng QDĐ tổ chức "hắc điếm", để ra lệnh cho Vệ quốc đoàn VM tổng
tấn công bảy chiến khu của QDĐ trên toàn quốc.
Trong
các vụ tấn công QDĐ, nghiêm trọng nhứt là vụ "Cầu Chiêm Sơn" ở Quảng
Nam vào cuối tháng 7-1946. Chiêm Sơn ở xã Phú Tân (nay là xã Điện Quang, Gò Nổi),
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tàu hỏa chạy từ Đà Nẵng vào nam, qua cầu Kỳ
Lam, vào cù lao Gò Nổi (tên chữ là Phù Kỳ, ở Điện Bàn), và rời Gò Nổi bằng cầu
Chiêm Sơn, đi qua Trà Kiệu. Vào cuối tháng 7-1946, nhân một chuyến xe lửa
chuyên chở võ khí vào nam, ngang qua cầu Chiêm Sơn, đoàn xe dừng lại vì có lửa
đốt báo động nguy hiểm. Theo lời khai của tài xế lái tàu, ông ta phát hiện rằng
có kẻ tháo bù-lon để làm sập cầu Chiêm Sơn (?). Việt Minh hô lên rằng QDĐ chủ
mưu việc nầy, liền bắt Phan Bá Lân, bí thư kiêm phó chủ nhiệm tỉnh đảng bộ QDĐ
Quảng Nam, và một số lãnh tụ QDĐ địa phương như Phan Ngô, Huỳnh Hòa, Phan Thiệp...
Các ông bị tra tấn tàn bạo, nhưng chẳng có ai chịu nhận tội.
Tiếp
đó, VM ra lệnh khủng bố, lùng bắt và thủ tiêu đảng viên QDĐ các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi, và Bình Định, nhất là những tổ chức cơ sở QDĐ ở các huyện. Trong vụ
nầy, QDĐ Quảng Nam bị thiệt hại nặng nhất. Việt Minh bắt đảng viên QDĐ bỏ vào
bao bố, rồi thả trôi sông. Lúc đó, người dân đi qua cầu Câu Lâu (trên sông Thu
Bồn) ở Điện Bàn, thấy nhiều bao bố nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
Khi
chiến tranh Việt Minh với Pháp bùng nổ tối 19-12-1945, VM lại lợi dụng tình trạng
chiến tranh, tiếp tục tiêu diệt những thành phần đối lập như Trương Tử Anh, Lý
Đông A, nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Dư. Tại Nam Kỳ, VM bắt và đem đi mất tích
ngày 16-4-1947 một nhân vật quan trọng là Đức Huỳnh Phú Sổ, người khai sáng đạo
Phật Giáo Hòa Hảo.
Từ
khi nắm quyền, với chủ trương “giết tiềm lực”, VM không phải chỉ giết hại những
thành phần nổi tiếng ở thành phố, mà VM còn giết hại, thủ tiêu những người bất
đồng chánh kiến ở tất cả các cấp, xuống tận các làng xã và vùng rừng núi xa
xôi. Bất cứ ai, lỡ phát biểu một ý kiến bất đồng nhỏ, cũng bị giết. Tất cả đã
gây nên tình trạng khủng bố rùng rợn chung trên toàn quốc trong giai đoạn nầy.
Kết
luận
Những
diễn tiến trong cuộc hòa giải và liên hiệp năm 1945 cho thấy các điểm sau đây:
1) Khi gặp thời, thế lực mạnh mẽ, thì CS độc quyền chính trị, độc quyền cai trị
đất nước. (Nghị quyết ngày 11-9-1945 của Trung ương đảng CSĐD tại Hà Nội.) 2)
Khi yếu thế, gặp trở ngại, khó khăn, CS kêu gọi lòng yêu nước, đoàn kết, hòa giải,
liên hiệp với các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, thậm chí còn giả vờ giải
tán đảng CSĐD. (Hợp tác tinh thành và chính phủ liên hiệp.) 3) Sau khi hòa giải,
liên hiệp để thoát khỏi hoạn nạn, nắm được quyền lực, thì CS quay lại độc quyền
chính trị, thẳng tay tiêu diệt tất cả những ai bất đồng chính kiến, kể cả những
người đã từng hòa hợp hòa giải với cộng sản. (Vụ án Ôn Như Hầu, vụ cầu Chiêm
Sơn, các vụ thủ tiêu trên toàn quốc.) Như thế rõ ràng KINH NGHIỆM LỊCH SỬ NĂM
1945 CHO THẤY HÒA GIẢI VÀ LIÊN HIỆP VỚI CỘNG SẢN LÀ TỰ SÁT.
Vậy
ngày nay, người Việt nghĩ sao về chuyện hòa giải hòa hợp lần nữa với cộng sản
Việt Nam trong khi điều 4 Hiến pháp năm 1992 vẫn còn đó và chi phối toàn bộ
sinh hoạt trong nước?
(Toronto,
12/05/2015)
No comments:
Post a Comment